Phù
Nam nhìn lại: Giải cổ tác gia (VIII)
Michael
Vickery
Người dịch: Hà Hữu Nga
Phù
Nam là gì?
Sau khi xem xét và mổ xẻ các bằng chứng, có lẽ
cũng cần phải nhắm đến một vấn đề cơ bản. Phù Nam có phải là một quốc gia hoặc
một đế chế thống nhất như các học giả Trung Quốc cổ trung đại và các tác giả
châu Âu thời hiện đại tin tưởng không, hay đó chỉ là một nhóm các cảng ven biển
hoặc gần ven biển, như Śrīvijaya ở Indonesia, thay lân nhau xuất hiện nổi bật?
Mặc dù quan điểm thứ hai đang ngày càng được
chấp nhận, nhưng đối với Phù Nam thì điều đó lại không rõ ràng như đối với
Śrīvijaya. Các sử liệu Trung Quôc sau này, kết hợp với bi ký địa phương vào cuối
thế kỷ VII, tối thiểu đã chỉ ra hai sự biến đổi về vị trí của “kinh đô” (hoàn
toàn trừu xuất từ việc sử dụng từ này), từ Palembang đến Jambi, và sau đó lại
quay về Palempang. Đối với Phù Nam thì các ghi chép sớm không hề nói gì về
trung tâm quyền lực của nó, nhưng sau này có ghi chú rằng nó cách biển 200 km,
và chỉ đến thế kỷ VII mới thấy có tên gọi 特牧* Đặc Mục,
Te-mu/*i/ 'dk-miuk cho đến nay,
như đã nói ở trên, vẫn chưa thể đọc được một cách chính xác. Cho
đến nay khảo cổ học mới chỉ làm phức tạp thêm vấn đề, đối với di chỉ này bằng sự
khẳng định mạnh mẽ nhất về Angkor Borei, nơi chỉ cách di chỉ 90 km, được cho là
cảng chính Óc Eo.
Chắc chắn là toàn bộ vùng mà người Trung Quốc
biết với tư cách là Phù Nam bao gồm vài cảng, từ các vùng ven biển Việt Nam –
Cambodia đến Đốn Tốn là một nơi nào đó trên bán đỏ Thái Lan – Malay, nhưng toàn
bộ các sử liệu này của Trung Quốc liên quan đến chủ đề này lại đặt các cảng xa
xôi héo lánh dưới cái mà họ coi là vùng trung tâm, mà ngày nay là nam Cambodia
và giáp giới với Việt Nam. Tuy nhiên đó là một tiên nghiệm không có vẻ gì là một
số cảng lại cấu thành một nhà nước, ít nhiều là một “đế quốc” mở rộng bằng một
số cách xử lý trên toàn bộ Cambodia và xa về đông bắc Thái Lan.
Phụ
lục I: Công trình của Tatsuo Hoshino
Trong các công trình của mình Hoshino đã tái sắp
xếp một cách quyết đoán hầu như mọi chi tiết của địa lý Đông Nam Á tìm được từ
các nguồn sử liệu Trung Quốc, bao gồm cả các nguồn sử liệu được đồng thuận của
học giới trong nhiều năm trời. Tất nhiên không có gì là sai lầm khi làm đổ vỡ sự
đồng thuận, trong thực tế lại là cần thiết, nhưng các phương pháp của Hoshino có
thể là bất cứ cái gì, chỉ có điều là không đem lại được cho người ta sự tin cậy.
Các lựa chọn của ông thường võ đoán, không có đủ bằng chứng khi khẳng định rằng
Śrīvijaya là ở miền trung Thái Lan, và không bao giờ là ở Sumatra (Hoshino
1993, p. 13, Hoshino 1995, pp.32, 39); và trong cách xử lý của ông về những cái
tên Trung Quốc đối với Tonle Sap và biển Nam Hải. Vì vậy trong Hoshino 1993,
tr. 6, ông viết rằng "Chân Lạp nằm ở phía bắc biển Tiểu Hải, có nghĩa là
Tonle Sap, vì Đại Hải có nghĩa là biển Nam Trung Hoa, bao gồm cả vùng vịnh. Có
nghĩa là Chân Lạp ở “phía bắc hồ Tonle Sap”. Sau đó, trong Hoshino 1996a, tr.
17, khi nhận định rằng Xích Thổ nằm ở Banteay
Prei Nokor, thuộc tỉnh Kompong Cham, chứ không phải ở nam Cambodia và ở bán đảo
Malay như mọi người vẫn tin tưởng, ông viết người Trung Quốc chép rằng “Xa về
phía bắc [của Xích Thổ] là Đại Hải, trong trường hợp này Biển Hồ [Tonle Sap] không
phải là Đại Hải”.
Những lý giải của ông về các tên gọi địa danh
Đông Nam Á bằng chữ Hán đôi khi dựa vào cách phát âm tiếng Hán cổ (do ông tự) đặt
ra, nhưng đôi khi lại dựa vào cách phát âm bạch thoại ngày nay, cho những trường
hợp các âm phù hợp nhất với giải pháp mà ông muốn áp đặt. Có nghĩa là đối với mỗi
cái tên cổ bằng chữ Hán, Hoshino chỉ ra cách phát âm theo chuẩn bạch thoại hiện
đại, cũng như những cách phát âm bằng tiếng Hán – Việt, Quảng Đông, và Hán – Nhật.
Phương pháp so sánh như vậy đã được Karlgren sử dụng, nhưng Karlgren đã rút ra
những kết luận nghiêm túc và nhất quán, ngược lại Hoshino chỉ đơn giản cho rằng
cách phát âm cổ có thể có các phụ âm được gợi lại một hoặc một vài phương ngữ
nào đó. Tình trạng ỡm ờ đó đã tạo điều kiện để ông dựa vào những gì khớp với
trường hợp mà ông mong muốn trong thoáng chốc. Ví dụ điển hình là ông cách ông
xử lý cái tên 'Wen Dan', vẫn được mọi người tin là ở một nơi nào đó dọc theo
sông Mê Kông thuộc trung Lào. Trong một ngữ cảnh khác (Hoshino 1991, tr. 15-16)
Hoshino cho rằng hai từ đó có nghĩa là làng [Wen] Siêm [Dan]. Đó là cách phát
âm được cho là cổ của Wen, *man = người, và một âm bạch thoại hiện đại Dan là
/shan/, hơn nữa ông còn khẳng định rằng vì “làng” [thông thường gọi là /baan/
(bản*)] trong tiếng Vân Nam và Miến Điện”. Điều đó là đúng, nhưng cách phát âm
/man/ cho “làng” chỉ hạn chế trong ngôn ngữ Shan, vì vậy mà không sớm hơn thế kỷ
XII, nhưng lại không phù hợp với cách giải thích “Wen Dan”. [148]
Nhưng sau đó, khi người đọc sửa lại với hàm ý
là “cho đến thế kỷ IX, các nhóm người Thái không bao giờ sử dụng từ ... “Siêm”
để nói về bản thân mình” (Hoshino 1991, tr. 48), Hoshino 1993, tr. 3 đã sửa lại
cách diễn giải của ông về hai từ 'Wen Dan' thành “các làng Siêm hoặc các làng
đá sema” với từ sema được coi là những tấm bia phù điêu ở Mường Pha Det thuộc đông bắc Thái Lan, còn tên
gọi ban đầu thì vẫn chưa được biết. Tuy nhiên, còn cách phát âm /sim/, /sem/,
/shan/ cho của từ Dan là cách hiện đại. Vào thế kỷ thứ VII nó được bắt đầu bằng
một âm răng. [149]
Một ví dụ khác mà ông đã chỉ ra một cách rõ
ràng là cách phát âm cổ của địa danh được cho là kinh đô Phù Nam vào thế kỷ
VI-VII (*d'dk-miuk), có lẽ gồm có hai âm tiết, âm tiết đầu tiên bắt đầu bằng âm
răng và mỗi âm đều kết thúc bằng âm yết hầu. Còn việc xác định vị trí thì
Hoshino dựa vào cách phát âm hiện đại của các từ tiếng Hán, / t'emu/, gợi lên từ
Khmer là “đá”, và có lẽ “đồi” (tiếng
Khmer là tmo, thmo), để xác đồng nhất một vị trí ở đông bắc Thái Lan với một
cái tên hiện đại, Thamorat gần Sri Thep, gồm có “thamo” (trong tiếng Mon-Khmer
là “đá”). Xem Hoshino 1993, tr. 7, 9, 11 và các chữ tr. 40. Trong một ngữ cảnh
khác, ông cho rằng Mo Dan (âm cổ *muâ-tâm) phải được đảo ngược thành Dan Mo và
nó cũng có nghĩa là “thamo”. Rõ ràng là cả
*d'dk-miuk và *tâm-muâ đều không
thể dịch nghĩa là “thamo”, và có lẽ không nên làm như vậy. [150]
Các công trình của ông thừa mứa những giả định
cho rằng các tên hiện đại cũng thực sự là các tên cổ đại, và có thể đối sánh với
tiếng Hán cổ. Chẳng hạn, Hoshino 1995, tr. 24, cho rằng Po Li là Angkor Borei,
với lý do là /poli/ là các viết bằng chữ Hán của /borei/ từ cổ là purï. Nhưng
cái tên Angkor Borei lại là một cái tên hiện đại của một vị trí cổ mà tên gốc của
nó hoàn toàn không được biết.
____________________________
Còn nữa...
Nguồn: Funan
Reviewed: Deconstructing the Ancients. In: Bulletin de l'Ecole française d'Extrême-Orient. Tome 90-91, 2003.
pp. 101-143.
* Ghi
chú của người dịch: Các từ có đánh
dấu sao [*] là do tôi, Hà Hữu Nga, trộm tìm, dịch sang tiếng Phạn, tiếng Hán và
tiếng Việt để tiện cho bản thân trong việc nghiên cứu, so sánh và xác định
nghĩa của từ mà thôi.
Ghi
chú
148. The information about Shan and /man/ is
from James Chamberlain, the well-known Lao and Thai linguistic specialist.
149. Karlgren 1923 [1974], p. 370, no. 1315,
has mḽuǝn
for Wen, and p. 279, no. 968 dan for Dan.
150. Hoshino 1993, p. 18; and for another
treatment of *muâ-tâm see Wheatley 1974, and discussion above.
Tài liệu
dẫn
Anderson, John 1981, English Intercourse with Siam in the Seventeenth Century, Bangkok,
Chalemmit Bookshop.
Aymonier, Etienne 1903, Le Fou-nan, Journal Asiatique 10/1 (janv.-fév. 1903), pp. 109-150.
Bellwood, Peter 1992, Southeast Asia Before History, The Cambridge History of Southeast
Asia, vol. I, pp. 55-136.
Bergaigne, Abel 1882, Les inscriptions sanscrites du Cambodge, Journal Asiatique, pp.
1-56.
Blust, Robert 1992, The Austronesian Settlement of Mainland Southeast Asia, in Papers
from the Second Annual Meeting of the
Southeast Asian Linguistics Society, edited by Karen L. Adams and Thomas
John Hudak, pp. 25-83. Arizona State University, Program for Southeast Asian
Studies, Tempe, Arizona, 1994.
Brown, Robert L. 1996, The Dvaravati Wheels of the Law and the Indianization of South East
Asia, Leiden, Brill.
Boisselier, Jean 1963, La statuaire du Champa, Paris, École française d'Extrême-Orient.
Boisselier, Jean 1965, Nouvelles
données sur l'histoire ancienne de la Thaïlande, Conférence, Alliance
française/Centre culturel [Bangkok]. Seven pages, no pagination, introduction
by Marie-Jean Vinciguerra, Attaché culturel.
Boisselier, Jean 1966, Le Cambodge, 1. 1, in Asie du Sud-Est, première partie, Manuel
d'Archéologie d'Extrême-Orient, Paris, Éditions A. et J. Picard et Cie.
Charnvit Kasetsiri 1976, The Rise of Ayudhya, Kuala Lumpur, Oxford University Press.
Coedès, George 1928 E.C. 21, La tradition généalogique des premiers rois
d'Angkor d'après les inscriptions de Yaçovarman et de Râjendravarman, BEFEO
28, pp. 124-40.
Coedès, George 1931 E.C. 25, Deux inscriptions sanskrites du Fou-Nan,
BEFEO 3 1 , pp. 1 - 1 2.
Coedès, George 1938, Le fondateur de la royauté angkorienne et les récentes découvertes
archéologiques au Phnom Kulên, Cahiers de l'École française
d'Extrême-Orient 14, pp. 40-48; republished in George Coedès, Articles sur le
pays khmer, Tome II, pp. 277-284.
Coedès, George 1942, Inscriptions du Cambodge, Vol. 2, Hanoi, EFEO.
Coedès, George 1943-46, Quelques précisions sur la fin du Fou-nan, BEFEO 43, pp. 1-8.
Coedès, George 1948, Les États hindouisés d'Indochine et d'Indonésie, Paris, Ed. de
Boccard.
Coedès, George 1951a, Inscriptions du Cambodge, Vol. 3, Paris, E. de Boccard.
Coedès, George 1951b, Les règles de la succession royale dans l'ancien Cambodge, Bulletin
de la Société des Études Indochinoises, nouvelle série no. 26 (2), pp.l 17-
130.
Coedès, George 1952, Inscriptions du Cambodge, Vol. 4, Paris, E. de Boccard.
Coedès, George 1954, Inscriptions du Cambodge, Vol. 6., Paris, École française
d'Extrême-Orient.
Coedès, George 1962, Les peuples de la Péninsule indochinoise, Paris, Dunod.
Coedès, George
1964a, Les États hindouisés
d'Indochine et d'Indonésie, Paris, Ed. de Boccard.
Coedès, George 1964b, Inscriptions du Cambodge, Vol. 7, Paris, École française
d'Extrême-Orient.
Coedès, George 1966, Liste générale des inscriptions du Cambodge, In Inscriptions du
Cambodge, Vol. 8, pp. 76-225.
Coedès, George 1968, The Indianized States of Southeast Asia, Edited by Walter F. Vella,
Translated by Susan Brown Cowing, Honolulu, University of Hawaii Press.
Dowling, Nancy H. 1999, A New Date for the Phnom Da Images and Its Implications for Early
Cambodia, Asian Perspectives, Volume 38, Number 1, pp. 51-61.
Dupont, Pierre 1941, Variétés archéologiques, BEFEO 41, pp. 233-254.
Dupont, Pierre 1943-46, La dislocation de Tchen-la et la formation du Cambodge angkorien,
BEFEO 43, pp. 17-55.
Dupont, Pierre 1949, Tchen-La et Panduranga", Bulletin de la Société des Études
Indochinoises 24/1, pp. 9-25.
Dupont, Pierre 1952-54, Les débuts de la royauté angkorienne, BEFEO 46, pp. 1 19-76.
Ferlus, Michel 1977, Étude d'une strate de changements phonétiques dans l'ancien Cambodge,
Mon-Khmer Studies 6, pp. 59-67.
Filliozat, Jean 1969, L'inscription dite de Võ-cạnh, BEFEO 55, pp. 107-1 16.
Finot, Louis 1904, Les inscriptions de Mi-son, BEFEO 4, pp. 897-977.
Finot, Louis 1911, Sur quelques traditions indochinoises, In Mélanges d'indianisme
offerts par ses élèves à M. Sylvain Levi, Paris, Ernest Leroux, pp. 193-212.
Finot, Louis 1927, Séance du 14 janvier, Journal Asiatique 210 (janv.-mars), p. 186.
Friedman, Jonathan 1987, Review Essay on Islands of History by Marshall Sahlins, in History
and Theory, Vol. 13, pp. 72-99.
Groslier, Bernard Philippe 1985-86, For a geographic history of Cambodia,
Seksa Khmer 8-9, pp. 3 1 -76.
Hall, D. G. E. 1955, A History of South-East Asia, New York, St. Martin's Press, [reed.
1981].
Hall, Kenneth R. 1985, Maritime Trade and State Development in Early Southeast Asia,
Honolulu, University of Hawaii Press.
Higham, Charles and Rachanie Thosarat 1998, Prehistoric Thailand: From Early Settlement
to Sukhothai, Bangkok, River Books.
Hoshino, Tatsuo 1986, Pour une histoire médiévale du moyen Mékong, Bangkok, Editions
Duang Kamol.
Hoshino, Tatsuo 1991, Wen Dan and its Neighbours: The Central Mekong Valley in the Seventh
and Eighth Centuries, typescript, n.p.
Hoshino, Tatsuo 1993, Puram; earliest Chinese sources on Sri Thep and Lopburi, Paper
presented to the Symposium sur les
sources de l'histoire du pays khmer, Paris.
Hoshino, Tatsuo 1995, Reappraisal of the Chinese texts on Shi li Fo Shi: Dvaravati and Sri
Buddha Sei (?), In Southeast Asian Studies, Tokyo University of Foreign
Studies.
Hoshino, Tatsuo 1996a, The
Kingdom of Red Earth (Chitu Guo) in Cambodia and Vietnam from the sixth to the
eighth centuries, Paper presented to the 14th I.A.H.A. conference, Bangkok,
May 1996.
Hoshino, Tatsuo 1996b, Chang Zhou (Elephant/Master Province) and Sakolnakhon site in Northeast
Thailand, Paper presented to the 6th International conference on Thai
Studies, Chiang Mai, October 1996.
Jacques, Claude 1972, La carrière de Jayavarman II, BEFEO 59, pp. 205-20.
Jacques, Claude 1979, Funan, Zhenla. The Reality
Concealed by These Chinese Views of Indochina, In Early South East Asia. Essays in Archaeology, History and
Historical Geography, Ed. By R. B. Smith and W. Watson, New York/Kuala
Lumpur, Oxford University Press, pp. 371-389.
Jacques, Claude 1986a, Le
pays khmer avant Angkor, Journal des Savants, janv.-fév., pp. 59-95.
Jacques, Claude 1986b, Cours
Année 1985-1986, Paris, École pratique des hautes études, IVe section,
typescript.
Jacques, Claude 1987, L'Empire angkorien: mythe ou réalité, typescript, Conférence à Tokyo,
25 June 1987.
Jacques, Claude 1995a, Funan, Zhenla, Srîvijaya, In Les
apports de l'archéologie à la connaissance des anciens États en Thaïlande,
3e Symposium franco-thaï, 11-13 décembre 1995, Bangkok, Silpakon University,
pp. 14-23.
Jacques, Claude, éd. 1995b, Études épigraphiques sur le pays cham,
[Reprint], Paris, École française d'Extrême-Orient (Réimpressions 7).
Karlgren, Bernhard 1923, Analytical Dictionary of Chinese and Sino-Japanese, Dover/New York,
[Reprint, 1 974].
Karlgren, Bernhard 1957, Grammata Serica Recensa, Museum of Far Eastern Antiquities Bulletin
29, Stockholm.
Lê Xuân Diệm, Đào Linh Côn, Võ Sĩ Khải 1995, Văn hóa Óc Eo, Nhà xuất bản Khoa học Xã
hội, Hà Nội.
Loofs, H. H. E. 1979, Problems
of Continuity the pre-Buddhist and Buddhist Periods in Central Thailand, with
Special Reference to U-Thong, in R. B. Smith and W. Watson, eds, Early South East Asia: Essays in
Archaeology, History, and Historical Geography, New York, Oxford University
Press.
Mabbet, Ian and David Chandler 1995, The Khmers, Oxford (UK) / Cambridge (US
A),Blackwell. Manguin, Pierre- Yves.
Mabbet, Ian and David Chandler 1980, The Southeast Asian Ship: An Historical
Approach, Journal of Southeast Asian Studies 11/2, pp. 266-276.
Mabbet, Ian and David Chandler 1985, Sewn-Plank Craft of South-East Asia, a
Preliminary Survey, in Sewn Plank
Boats, Archaeological and Ethnographic papers based on those presesented to
a conference at Greenwich in November 1984, ed. by Sean McGrail and Eric
Kentley, Greenwich, National Maritime Museum (Archaeological Series No. 10, BAR
International Series 276).
Mabbet, Ian and David Chandler 1991, The Merchant and the King: Political Myths
of Southeast Asian Coastal Polities, Indonesia 52, pp. 41-54.
Mabbet, Ian and David Chandler 1993, Palembang and Sriwijaya: An Early Malay
Harbour-City Rediscovered, Journal of the Malaysian Branch of the Royal
Asiatic Society 66/1, pp. 23-46.
Mabbet, Ian and David Chandler 1996, Southeast Asian Shipping in the Indian Ocean
During the First Millenium A.D.", in H. P. Ray & J.-F. Salles
(eds.), Tradition and Archaeology. Early Maritime Contacts in the Indian Ocean,
Lyon/New Delhi, Manohar (Maison de l'Orient méditerranéen/NISTADS),pp. 181-198.
Mabbet, Ian and David Chandler 1999, Srivijaya dans l'oeuvre de George Coedès,
in Colloque George Coedès aujourd'hui, Bangkok, Centre d'Anthropologie
Sirindhorn, 9-10 September.
Mabbet, Ian and David Chandler 2002, From Funan to Srivijaya: Cultural
Continuities and Discontinuities in the Early Historical Maritime States of
Southeast Asia", in 25 Tahun Kerjasama Pusat Penelitian Artkeologi dan
École française d'Extrême-Orient, Makalah Seminar Dimensi Budaya dalam
Membangun Persatuan Bangsa-Bangsa di Asia Tenggara, Palembang, 16-18 July 2001,
Jakarta, 2002, pp. 59-82.
Maspero, Georges 1928, Le royaume de Champa, Paris/Bruxelles, Éditions G. Van Oest,
[reprint. EFEO, 1988].
Mauger, Henri 1935, Angkor Borei, BEFEO 35, p. 491.
Mauger, Henri 1936, Asram Maha Rosei, BEFEO 36, pp. 65-95.
Maurel, Frédéric 1998, The work of George Coedès: views of a young man, Journal of the
Siam Society 86/1-2, pp. 235-238.
Népote, Jacques 1999, Mythes de fondation et fonctionnement de l'ordre social dans la basse
vallée du Mékong accompagnés de considérations sur l'indianisation,
Péninsule 38(1), pp. 33-64.
Paris, Pierre 1952-54, Quelques dates pour une histoire de la jonque chinoise, BEFEO 46,
pp. 267-278.
Pelliot, Paul 1903, Le Fou-Nan, BEFEO 3, pp. 248-303.
Pelliot, Paul 1904, Deux itinéraires de Chine en Inde à la fin du vine siècle, BEFEO 4,
pp. 13 1-385.
Pelliot, Paul 1925, Quelques textes chinois concernant l'Indochine Hindouisée, EFEO
Études Asiatiques II, pp. 243-263.
Porée-Maspero, Éveline 1950, Nouvelle étude sur la Nâgï Somâ, Journal
Asiatique, pp. 237-267.
Porée-Maspero, Éveline 1962-69, Étude sur les rites agraires des Cambodgiens,
3 Vol., Paris/La Haye, Mouton & Co. Pou, Saveros
Porée-Maspero, Éveline 2001, Nouvelles inscriptions du Cambodge, vol.
II & III, Paris, EFEO.
Reid, Anthony 1993, Southeast Asia in the Age of Commerce 1450-1680, Vol. 2, Chiang
Mai, Silkworm Books.
Reynolds, Craig J. 1995, A New Look at Old Southeast Asia, Journal of Asian Studies 54/2,
pp. 419-446.
Sanderson, D. С W., et. al. 2003, Luminescence dating of anthropogenically
reset canal sediments from Angkor Borei, Mekong Delta, Cambodia, Quaternary
Science Reviews 22, pp. 1111-1121.
Shorto, H. L. 1963, The 32 myos in the medieval Mon kingdom, Bulletin of the School of
Oriental and African Studies 26/3 (London), pp. 572-591.
Stargardt, Janice 1986, Hydraulic Works and South East Asian Polities, In Southeast Asia in
the 9th to 14th Centuries, ed. by David G. Marr and A. C. Milner,
Canberra, Australian National University/ Institute of Southeast Asian Studies,
Singapore, pp. 23-48.
Stark, Miriam T. 1998, The Transition to History in the Mekong Delta: A view from Cambodia,
International Journal of Historic Archaeology 2/3, pp. 175-204.
Stark, Miriam T., et. al. 1999, Results of the 1995-1996 Archaeological
Field Investigations at Angkor Borei, Cambodia", Asian Perspectives
38/1, pp. 7-36.
Stein, R. A. 1947, Le Lin-Yi, sa localisation, sa contribution à la formation du Champa,
et ses liens avec la Chine, Han-Hiue Bulletin du Centre d'études
sinologiques de Pékin 2, pp. 1-335.
Stuart-Fox, Martin 1998, The Lao Kingdom of Lan Xâng: Rise and Decline, Bangkok, White Lotus
Press.
Syafei, Soewadji 1977, The Relation Between Cambodia and Indonesia in the 8th to 9th Century"
[sic], Majalah Arkeologi, Indonesia, pp. 14-18.
Thurgood, Graham 1999, From Ancient Cham to Modern Dialects, Two Thousand Years of Language
Contact and Change, Honolulu, University of Hawaii.
Vickery, Michael 1972, The 'Kalpana' documents in a review of three collections of Thai
historical documents, Journal of the Siam Society 60/1, pp. 397-410.
Vickery, Michael 1977, Cambodia after Angkor, the Chronicular Evidence for the Fourteenth to
Sixteenth Centuries, Ph.D. Yale University, dec. 1977 [Ann Arbor:
University of Michigan, University Microfilms].
Vickery, Michael 1979, A New Tâmnàn About Ayudhya, Journal of the Siam Society 67/2, pp. 1
23- 1 86.
Vickery, Michael 1986, Some Remarks on Early State Formation in Cambodia, In Southeast
Asia in the 9th to 14th Centuries, ed. by David G. Marr and A. C. Milner,
Canberra/Singapore, Australian National University (Research School of Pacific
Studies) / Institute of Southeast Asian Studies, pp. 95-115.
Vickery, Michael 1987, Review of K. R. Hall, Maritime Trade and State Development in Early
Southeast Asia, in Journal of Asian Studies 1987, pp. 21 1-213.
Vickery, Michael 1994, Where and What was Chenla?, In Recherches nouvelles sur le
Cambodge, dir. By F. Bizot, Paris, EFEO (Études thématiques I), pp. 197-212.
Vickery, Michael 1998, Society, Economies, and Politics in Pre-Angkor Cambodia: the 7th-8th
Centuries, Tokyo, The Centre for East Asian Cultural Studies for Unesco/The
Toyo Bunko.
Vickery, Michael 1999a, The Khmer Inscriptions of Roluos (Preah Ko and Lolei): Documents from a
Transitional Period in Cambodian History, Seksa Khmer n. s. 1 (jr- 1999),
pp. 47-93.
Vickery, Michael 1999b, Coedès' Histories of Cambodia, in Colloque George Coedès aujourd'hui, Bangkok, CEDREFT, 9-10 September 1999.
Vickery, Michael 2001, Resolving the Chronology and History of 9th-Century Cambodia",
SiksucakrZ (Newsletter of the Center for Khmer Studies, CKS, Siemreap, July
2001), pp. 17-23.
Wang Gungwu 1958, The Nanhai Trade, Journal of the Malaysian Branch Royal Asiatic
Society 3 1/2, pp. 1-135.
Wheatley, Paul 1961, The Golden Khersonese, Kuala Lumpur, University of Malaya Press.
Wheatley, Paul
1974, The Mount of the Immortals: A note on Tamil cultural influence in
fifth-century Indochina, Oriens Extremis, Vol. 21, part 1, pp. 97-108.
Wheatley, Paul 1983, Nagara and Commandery: Origins of the Southeast Asian Urban Traditions,
University of Chicago (Research Paper Nos. 207-208, Department of Geography).
Wheatley, Paul 1966, A Note on the Capital of Srivijaya During the Eleventh Century, In
Ba Shin, J. Boisselier & A. B. Griswold, eds., Essays Offered to G. H.
Luce, Ascona, Artibus Asiae (Supplementum 23), I, pp. 225-239.
Wheatley, Paul 1967, Early Indonesian Commerce, Ithaca, Cornell University Press.
Wolters, O. W. 1966, A Note on the Capital of Srivijaya During the Eleventh Century, In
Ba Shin, J. Boisselier & A. B. Griswold, eds., Essays Offered to G. H.
Luce, Ascona, Artibus Asiae (Supplementum 23), I, pp. 225-239.
Wolters, O. W. 1967, Early Indonesian Commerce, Ithaca, Cornell University Press.
Wright, Michael 1999, The Nation, section Cl "Focus", "The Quest for
Bronze", Bangkok, 28 June.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét