R. Lee Lyman
Người dịch: Hà Hữu Nga
Abstract
Khái niệm ‘quá trình văn hóa’, đã được các nhà nhân học quan tâm từ cuối thế kỷ 19.
Franz Boas chỉ ra rằng việc khảo sát các quá trình văn hóa là trung tâm của nhân học, nhưng việc ông không định nghĩa
được khái niệm này đã đặt ra một
tiền lệ cho ngành học. Quá trình hiếm khi được thảo luận chi tiết về lý thuyết bởi vì khái niệm
cơ bản này là thường
thức. Vào năm 1948
A.L. Kroeber đã đưa ra một
định nghĩa và phân biệt giữa các động thái ngắn hạn về cách thức
vận hành của các nền văn hóa và các động thái dài hạn dẫn đến biến đổi văn hóa. Leslie White hợp nhất hai họ
quá trình thành một. Các nhà khảo cổ trước năm 1960 tập trung vào các quá trình dẫn đến sự tiến
hóa lịch đại của các nền văn hóa; trong số đó nhiều quá
trình liên quan đến việc
chuyển giao văn hóa. Ban đầu, các
quá trình liên quan đến hoạt động đồng đại của một nền văn hóa đã được các nhà khảo cổ học quá trình kết hợp làm
một với các quá trình tiến
hóa lịch đại. Vào cuối những năm 1960 và đầu những năm 1970, Lewis Binford, David
Clarke, Frank Hole và Robert Heizer đều thảo luận về các quá trình văn hóa
trong khuôn khổ lý thuyết các hệ thống. Đồng thời, mối quan tâm ngày càng tăng đối với
các quá trình hình thành tạo ra hồ sơ khảo cổ học
đã chuyển sự chú ý khỏi
quan niệm ban đầu về các
quá trình văn hóa. Các mô hình về thời gian, quy mô và cường độ của các quá
trình văn hóa minh họa cho sự phức tạp của chúng và gợi ý các con đường để tiếp
tục quá trình khái niệm hóa.
[Ch]úng ta không những phải phát triển
lý thuyết tốt hơn để khái niệm hóa các quá trình mà còn phải phát triển các phương pháp đầy
đủ hơn để nghiên cứu chúng. (E.Z. Vogt, 1960: 28) Giống như các lĩnh vực khác,
khảo cổ học phát ngán với những thuật
ngữ quá mơ hồ, mơ hồ đến mức chúng có xu hướng làm khuất lấp hơn là làm sáng tỏ vấn đề. (K.V. Flannery,
1972: 400)
Trong hơn một thế kỷ, ‘các quá trình văn hóa’, từng là trọng tâm dẫn dắt của nhân học (Bee, 1974). Liệu có phải sự vận hành của một hoặc nhiều quá trình được nghiên cứu trong một nền văn hóa cụ thể, hoặc một hay hai quá trình cụ thể được yêu cầu giải thích các hiện tượng văn hóa cụ thể, thì các quá trình văn hóa trở thành trọng tâm của ngành học. Vậy thì, các quá trình văn hóa có thể là gì theo nghĩa khái niệm hoặc lý thuyết? Liệu người ta có nghĩ rằng với vai trò trung tâm của chúng trong nhân học, thì phải chăng có tồn tại một loại văn liệu chi tiết và nhiều sắc thái nhằm giải quyết vấn đề này?. Tính gần đúng của một văn liệu như vậy nằm rải rác trong các bài tạp chí, chương sách và các chuyên khảo, mà mỗi bài chỉ chứa không quá một hoặc hai câu dành cho khái niệm này. Hầu như không hề có những cách thức xử lý toàn diện vấn đề; việc thảo luận về các mô hình lý thuyết và các quan niệm về (các) quá trình văn hóa cũng rất khan hiếm. Cả lời ta thán của Vogt hơn 40 năm trước và của Flannery hơn 30 năm trước về văn khắc đều áp dụng thuật ngữ ‘quá trình văn hóa’. Tuy nhiên, cái gọi là khảo cổ học quá trình trong những năm 1960 và 1970 với tư cách là một nghiên cứu tập trung vào (các) quá trình văn hóa, đôi khi được viết ở dạng số ít, đôi khi ở dạng số nhiều (Binford, 1968b; Flannery, 1967; Thompson và Longacre , 1966). Tôi chỉ tìm thấy hai bài thảo luận về khái niệm quá trình văn hóa trong văn liệu khảo cổ học quá trình, và chúng ngắn gọn, hiển nhiên có trọng lực của khái niệm này.
Sự hiểu biết thường thức về quá trình (văn
hóa) chịu ảnh hưởng của các nhà nhân học
và khảo cổ học liên quan đến động thái
của một sự vật (văn hóa) nào đó phát triển thành một
sự vật (văn hóa) nào đó khác, có thể khác với
bản gốc. Một loạt các giai đoạn hoặc sự kiện có thể được sử dụng để minh họa một
quá trình nhưng chỉ mang tính mô tả chứ không phải giải thích nếu nguyên nhân hoặc
cơ chế nhân quả tạo ra chuỗi đó là không xác định. Hiểu biết thường thức dẫn đến sự kết hợp
của hai họ quá trình văn hóa, một sự thay đổi về ý nghĩa của các quá trình văn hóa thành các hành động
hình thành nên hồ sơ khảo cổ học,
và tình trạng hỗn độn của động thái trở thành cũng như trạng thái tĩnh của hiện hữu. Điều đó không có nghĩa là khái niệm về quá trình là
vô ích, ví dụ, như
đã được chứng tỏ bằng thừa
mứa các nghiên cứu được thực hiện dưới ngọn cờ của khảo cổ học
quá trình (xem các bài viết được A.L.
Johnson [2004]
giới thiệu, và tài liệu tham
khảo ở đó).
Một số ý kiến cho rằng sự rõ ràng về thuật ngữ cũng không cần thiết (Salmon, 1982) hoặc khó đưa ra sự tiến hóa của các khái niệm liên quan đến sự phát triển lý thuyết (Hegmon, 2003). Do đó, triết gia khảo cổ học Merilee Salmon (1982: 142) đã ủng hộ phép biện chứng giữa định nghĩa của một khái niệm và nó hỗ trợ tốt như thế nào bằng việc xây dựng lý thuyết giải thích hữu ích, có nghĩa là lý thuyết mà cả hai ràng buộc (bằng cách giới hạn lĩnh vực khảo sát đối với các hiện tượng cụ thể, các câu hỏi, hoặc cả hai) và cho phép (bằng cách chỉ định các nguyên tắc giải thích, cách thức các hiện tượng cụ thể được cho là có liên quan và tương tự) làm thế nào chúng ta hiểu và đem lại ý nghĩa cho cái thế giới này. Tuy nhiên, việc không làm rõ được một thuật ngữ có nghĩa là gì trong một bối cảnh cụ thể có thể dẫn đến sự nhầm lẫn, bất đồng và thiếu hiệu quả trong hoạt động nghiên cứu; sự hiểu biết có thể chỉ là thường thức và do đó mang tính cá nhân. Hơn nữa, nghĩa của một thuật ngữ có thể biến ảo khôn lường không thể nhận ra theo thời gian cho đến khi các nhà nghiên cứu nghĩ rằng họ đang nói về điều này, nhưng thực tế họ lại đang nói về điều khác. Vì vậy, tôi tin rằng chúng ta phải quan tâm đến tính mơ hồ về khái niệm cũng như thuật ngữ và tìm cách loại bỏ nó (hoặc ít nhất là xác định nó) bất cứ khi nào có thể, nhưng tôi cũng tin rằng các định nghĩa có thể và nên thay đổi khi việc nhận thức về các biến đổi và các lý thuyết đều được viết lại.
Trong bài viết
này tôi giải quyết một số vấn đề. Đầu tiên, tôi
đưa ra bốn điểm liên quan đến thuật ngữ văn hóa / quá trình văn hóa (cả hai
hình thức đều xuất
hiện trong các văn liệu). Không
theo thứ tự cụ thể nào, những vấn
đề này là: 1) các
nhãn gán cho các quá trình cụ thể thường kết hợp động thái của trở thành với kết quả hoặc trạng
thái hiện hữu, và cũng kết
hợp quá trình với tư cách nguyên nhân với quá trình với tư cách mô tả; 2) các quá
trình liên quan đến sự
vận hành đồng đại của một nền văn
hóa đôi khi được kết hợp với các quá trình liên
quan đến sự tiến hóa lịch
đại của văn hóa; 3) một danh mục các quá trình lượm
lặt được từ các tài liệu được xuất bản vào những năm 1940 và 1950 bao gồm gần
như tất cả những quá trình được đưa vào danh sách lượm lặt từ các tài liệu được
xuất bản vào những năm 1970 và 1980; và 4) trong khảo cổ học, khái niệm về quá
trình văn hóa đã bị thu hẹp trong các quá trình hình thành vào những năm 1970,
làm trầm trọng thêm tính mơ hồ về thuật
ngữ. Để giải quyết những
vấn đề này, tôi khảo
sát lịch sử của thuật ngữ ‘quá trình văn hóa’, để xác định ý nghĩa của nó. Bản phác thảo lịch sử của tôi không được thấu đáo; việc xử lý như vậy có lẽ sẽ chiếm cả chiều dài cuốn
sách. Thay vào đó, tôi tóm tắt những gì cần thiết để đưa ra những điểm tôi vừa
liệt kê. Trước tiên tôi xem lại khái niệm này đã được sử dụng như thế nào trong
nhân học văn hóa, vốn
là cái mà tôi tập trung vào văn liệu trước năm 1960.
Điều này cung cấp một bối cảnh để thảo luận về khái niệm quá trình văn hóa như
nó đã được sử dụng trong khảo cổ học; khảo cổ học quá trình lần đầu tiên xuất
hiện ở Bắc Mỹ, nơi các nhà khảo
cổ học được đào tạo trong các khoa nhân học. Bởi vì tôi đặc biệt quan tâm đến (các) ý nghĩa của thuật
ngữ liên quan đến khảo cổ học quá trình, nên tôi phác thảo lịch
sử của thuật ngữ này trong khảo cổ học từ những năm 1930 đến những năm 1980.
Việc đánh giá lịch sử chứng minh rằng nhiều người sử dụng thuật ngữ này thường kết hợp hai họ của các quá trình. Tôi gọi đây là họ tiến hóa lịch đại (lịch sử) và họ vận hành đồng đại. Họ tiến hóa lịch đại nói chung là các quá trình dài, dẫn đến biến đổi văn hóa, và ngầm chỉ ra rằng văn hóa được chuyển giao; các quá trình bao gồm tích văn hóa (acculturation), nhập văn hóa (enculturation), xã hội hóa và truyền bá. Các quá trình vận hành đồng đại có thời gian tương đối ngắn và lặp đi lặp lại hoặc theo chu kỳ; trạng thái của một nền văn hóa có thể dao động khi nền văn hóa đó vận hành theo thời gian, nhưng cuối cùng nền văn hóa đó lại trở về trạng thái mà nó bắt đầu. Một ví dụ là lễ quả đầu tiên được tổ chức hàng năm, và một ví dụ khác là mô hình sử dụng đất lặp đi lặp lại của việc chuyển bãi chăn thả gia súc theo mùa. Sự kết hợp của hai họ quá trình đó có thể được xảy ra bởi nhận thức thông thường về khái niệm chung; nhận thức rõ ràng về mặt định nghĩa và lý thuyết có thể sẽ ngăn cản sự kết hợp đó. Nhận thức thông thường dường như cũng là nền tảng cho sự kết hợp của quá trình văn hóa với quá trình hình thành của các nhà khảo cổ trong những năm 1970.
Là một bước để
thay thế ý thức chung bằng các mô hình rõ ràng về các quá trình văn hóa, tôi
trình bày một định nghĩa chính thức về khái niệm này trước khi trình bày tổng
quan lịch sử. Điều đó cũng sẽ giúp nhận
thức về điểm mạnh và điểm yếu trong việc sử dụng khái niệm này về nhân học và khảo
cổ học. Phần cuối, tôi xem xét ý nghĩa của những khác biệt về độ dài thời gian và kết quả của
hai họ quá trình một cách
chi tiết, cũng như quy mô và mức độ của các quá trình. Ý định của tôi là không đưa ra một từ cuối cùng nào về khái niệm này.
Thay vào đó, tôi xuất
trình thảo luận này như một chất xúc tác cho việc khái niệm hóa
thêm về quá trình văn hóa và cách sử
dụng thuật ngữ đó trong tương lai. Nhà khảo cổ học Irving Rouse cung cấp một vị trí tuyệt vời để bắt
đầu cuộc thảo luận: Bằng mô thức có nghĩa là một
cấu hình có thể thấy rõ trong hồ sơ
khảo cổ học [hoặc nhân học] và bằng quá trình, các hành động đó đã tạo ra mô thức đó. Một mô thức là một quan sát
thực nghiệm và một quá trình, một cách giải thích về
quan sát đó; nó cho chúng ta biết mô
thức đó đã xuất hiện và tồn tại ra sao. (Rouse I., 1977: 1)
QUÁ TRÌNH VĂN HÓA LÀ GÌ ĐỐI
VỚI NHÀ NHÂN HỌC?
Boas (1896: 905) tuyên bố rằng ‘đối tượng của khảo sát [nhân học] là tìm ra các quá trình (nhấn mạnh trong nguyên bản) mà các giai đoạn văn hóa nhất định đã phát triển.’ Boas đã chú ý đến các quá trình lịch sử giải thích tại sao các đặc điểm văn hóa lại được tìm thấy ở nơi chúng tồn tại và dưới dạng thức chúng tồn tại (Bee, 1974; Rohner và Rohner, 1969). Trong nửa đầu thế kỷ 20, cách tiếp cận chủ yếu đối với nghiên cứu nhân học là ‘dân tộc học lịch sử’ (Radin, 1933) hay ‘đặc thù luận lịch sử’ (Harris, 1968). Cách tiếp cận này đã xem xét sự phát triển lịch sử của mỗi nền văn hóa riêng bằng cách suy luận niên đại và tuyến phân bố các đặc điểm văn hóa (Lyman and O’Brien, 2003). Những cái tên được đặt cho các quá trình văn hóa cho thấy rằng chúng diễn ra theo thời gian (tương đối lịch đại) và đơn vị phân tích được sử dụng (đặc điểm hoặc yếu tố văn hóa) ngụ ý rằng một nền văn hóa bao gồm các bộ phận độc lập, rời rạc. Các quá trình bao gồm tiến hóa và truyền bá (Boas, 1924), phát minh, đổi mới (Barnett, 1942, 1953; Ogburn, 1930; Steward, 1929) và hội tụ (Lowie, 1912). Một quá trình văn hóa chính xác là gì về mặt khái niệm đã không được ghi nhận. Bản thân Boas chưa bao giờ rõ ràng về một quá trình văn hóa là gì (Rohner và Rohner, 1969: xvii), và điều này đã đặt ra một tiền lệ. Mãi cho đến khi dân tộc học lịch sử gần như đã chết, thì các cuộc thảo luận về các quá trình và định nghĩa về chúng mới bắt đầu xuất hiện, nhưng các thảo luận này thường ngắn gọn và không đề cập đến nhận thức lý thuyết chung có thể giúp cho công việc nghiên cứu trong tương lai (Barnett, 1940; Herskovits, 1945, 1948 ; Redfield, 1934, 1941, 1953).
Theo định nghĩa rõ ràng sớm nhất mà tôi biết, Kroeber
(1948: 344) đã xác
định “các quá trình văn
hóa [như] các yếu tố vận
hành theo hướng ổn định hóa
và bảo tồn hóa
các nền văn hóa và các bộ phận của chúng, hoặc hướng tới sự phát triển và biến đổi.” Khẳng định này đề cập đến cả
các quá trình vận
hành đồng đại và các quá trình tiến hóa lịch
đại, tương ứng. Kroeber liệt kê các quá trình lịch sử thông thường của truyền bá, phát minh và tương tự (ví dụ Murdock, 1955, 1956), và ông cũng nhận thấy rằng các quá trình văn
hóa “trong bản tóm tắt có vẻ rất gọn gàng và đặc biệt, được phát hiện để tự thể hiện trong
các hợp quần” và “các quá trình khác biệt về mặt khái niệm có xu hướng đan xen và tương tác,
trong các hoạt động thực tế và lịch sử văn hóa" (Kroeber, 1948: 344-5). Kroeber nghĩ
rằng, rất khó để gỡ
rối tính phức tạp của các quá trình riêng biệt. Moore (1954: 354)
chỉ xem xét tiến hóa lịch
đại khi ông viết rằng “các quá trình của một nền văn hóa bao gồm không chỉ các biến đổi trong các thể loại văn hóa cụ thể
mà còn biến đổi trong mối quan hệ giữa các thể loại và giữa các cá nhân thực
hiện vai trò phù hợp với hoạt động liên quan đến từng loại thể loại. Do đó, các quá
trình văn hóa liên quan đến những thay đổi trong các bộ phận của một nền văn
hóa và những thay đổi trong các
mối tương quan của các bộ phận. Giống như Murdock (1955) ông đã sử dụng ‘các
động thái văn hóa’ như một từ đồng nghĩa cho các quá trình văn hóa (Moore,
1954: 355). Bidney (1953: 126) cho rằng “quá trình văn hóa, như được áp dụng cho con người, khác với các quá trình
tự nhiên khác ở chỗ các
quá trình văn hóa không phải là những quá trình tự trị và không tự dẫn dắt, mà đòi hỏi phải lựa
chọn và nỗ lực liên tục và có chủ ý đối với bộ phận của những mối quan hệ thực sự
chặt chẽ và có tiềm năng”. Quá trình văn
hóa thuộc vào “trí thông minh của con người và nỗ lực tự nguyện”; đó là “những phát minh sáng tạo
và hiểu biết về con người, mà các phát minh và
hiểu biết đó chính là “các nguồn lực của toàn bộ các quá trình văn
hóa” (Bidney, 1953: 137, 138).
Quan niệm cho rằng tự thân xã hội là một quá trình
và liên tục trở thành đã
là một bộ phận của trường phái xã
hội học Chicago trong những năm 1920 và 1930 (Lerner, 1934), và
phản ánh quá trình chuyển tải văn hóa nói chung. Quá trình này có những biểu hiện cụ thể, chẳng hạn như nhập văn hóa, xã hội hóa, truyền bá, vay mượn, giáo
dục, học tập và những
thứ tương tự, được cho là nguyên nhân cuối cùng của biến đổi văn hóa, và đặc biệt là tính ổn định (M.W.
Willey, 1931). Mead (1943: 633) tuyên bố rõ ràng rằng “giáo dục là quá
trình văn hóa,
là cách mà mỗi đứa trẻ sơ sinh, được sinh ra với khả năng học hỏi lớn hơn
bất kỳ động vật có vú nào khác, được biến đổi thành một thành viên đầy
đủ của xã hội loài người cụ thể, chia sẻ với các thành viên khác một nền văn
hóa nhân loại cụ thể”. Herskovits (1943: 737) lưu ý rằng các nhà nghiên cứu (bao gồm các nhà
nhân học nghiên cứu các
xã hội nguyên thủy) đã tập trung vào giáo dục như một lực lượng ổn định hóa, nhưng họ cũng
nên nghiên cứu các cơ chế khuyến khích biến đổi văn hóa.
Hội nghị Quốc tế về Nhân học được tổ chức vào năm 1952 đã ra được một tuyển tập lớn các bài viết (Kroeber, 1953a)
và một tập các ý kiến thảo luận (Tax et
al., 1953). Trong số 20 tiểu
ban, bốn tiểu ban bao gồm “Các vấn đề về Quá trình” như một phần của tiêu đề. Nadel đã tham khảo
một từ điển để định nghĩa
quá trình là gì (Tax et al., 1953: 156). Linton “đã bị công kích bởi sự chú ý lướt qua đối với những gì ở Hoa Kỳ được cho là quá trình văn hóa, nghĩa là toàn bộ
lĩnh vực truyền bá,
hội nhập, phát minh, v.v. (Tax et al., 1953: 219). Greenburg lưu ý khái niệm đó “dường như có tầm
quan trọng chiến lược khá cao” nhưng về cơ bản
bị hạn chế trong việc thay đổi ngôn ngữ và động thái “lịch đại lịch sử”, và “nhiều quá trình ngôn ngữ có các quá trình tương tự
trong văn hóa” (Tax et al.,
1953: 287-9). Trong tiểu luận kết thúc hội nghị của mình, Kroeber
(1953b: 367) đã đánh đồng các quá trình với “các yếu tố nhân quả”. Vài năm sau, nhà sinh học tiến hóa Julian
Huxley đã định nghĩa quá trình văn hóa theo khuôn khổ tiến hóa: “Văn hóa theo nghĩa nhân học không phải là một
thực thể cũng không phải là một nguyên tắc; nó chỉ có thể được coi là một loại
quá trình. [Một nền
văn hóa] tạo thành một quá trình tự sản xuất và tự biến đổi, theo đó mô thức hoạt động của
con người được chuyển tải và biến đổi
theo tiến trình thời gian” (1958: 437). Điều này lặp lại trường phái xã
hội học Chicago của 20 năm trước.
Spindler và Spindler (1959: 37) đã đánh đồng các quá trình văn hóa với “biến đổi văn hóa”. Họ lưu ý rằng trước những năm 1940, trọng tâm là các đặc điểm văn hóa như các hạt văn hóa; các nhóm người được phân biệt về phương diện văn hóa và tương tác thông qua truyền bá. Sau thập niên 1940, theo quan điểm của Spindler và Spindler (xem thêm Bee, 1974), một nền văn hóa là một sự thích nghi sao cho tương tác văn hóa có thể liên quan đến tác động và điều chỉnh (thích ứng) sau đó. Sự thay đổi khái niệm nảy sinh vì White (1949, 1959) và Steward (1955), tập trung vào các khía cạnh thích ứng và chức năng của các nền văn hóa hơn là sự chuyển tải lịch sử của chúng. Chức năng luận-cấu trúc của Malinowski và Radcliffe-Brown cũng góp phần vào sự thay đổi (Barnard, 2000; Harris, 1968), cũng như đã đóng góp cho sự thay đổi tương tự trong xã hội học (Matthews, 1989). White (1948: 586) chịu ảnh hưởng của Boas (Carneiro, 1981) và định nghĩa quá trình văn hóa là “một dòng yếu tố [văn hóa] liên tục tương tác với dòng khác, tạo thành các kết hợp và tổng hợp mới, loại bỏ một số yếu tố khỏi dòng, và kết hợp những yếu tố mới”. Một phán đoán như vậy đang còn thiếu trong dân tộc học lịch sử. White (1947: 693) chỉ ra rằng vì văn hóa “phụ thuộc vào việc sử dụng các biểu tượng…các yếu tố của nó được truyền dễ dàng [và do đó] văn hóa trở thành liên tục; nó chảy qua các thời đại từ thế hệ này sang thế hệ khác và từ nhóm người này sang nhóm người khác. White (1948: 586) lưu ý rằng quá trình văn hóa “có những nguyên tắc riêng và quy luật thay đổi và phát triển của riêng mình”.
Trong một cuộc thảo luận mở rộng, White (1950: 76) nói: [Quá trình văn hóa] là một dòng các yếu tố văn hóa tương tác – gồm các dụng cụ, tín ngưỡng, phong tục, v.v. Trong quá trình tương tác này, từng yếu tố tác động đến các yếu tố khác và đến lượt mình lại bị các yếu tố khác tác động lại. Đây là một quá trình có tính cạnh tranh: các công cụ, phong tục và tín ngưỡng có thể trở nên lỗi thời và bị loại khỏi dòng. Các yếu tố mới được kết hợp theo thời gian. Sự kết hợp và tổng hợp mới – các sáng tạo và khám phá - về các yếu tố văn hóa liên tục được hình thành. Đối với White, quá trình văn hóa không chỉ là chuyển giao (trở thành động), nó còn liên quan đến sự thích nghi (vừa trở thành động vừa là trạng thái của hiện hữu) và còn liên quan đến cả tương tác (trạng thái hiện hữu). White (1959: 16, 17) sau đó đã nhắc lại rằng văn hóa là “một dòng chảy xuyên thời gian [bao gồm một quá trình” và còn thêm rằng “mối liên hệ của [các đặc điểm văn hóa] và sự tích hợp của chúng thành một tổng thể cố kết duy nhất, bao gồm các chức năng, hoặc các quá trình, của hệ thống văn hóa”. Sự vận hành của một nền văn hóa bao gồm “các quá trình duy trì sự sống: sinh tồn, bảo vệ khỏi các yếu tố bất lợi, phòng vệ kẻ thù, chống lại bệnh tật, v.v.” (White, 1959: 19). Ông đã sử dụng thuật ngữ quá trình để biểu thị cả sự tiến hóa lịch đại và vận hành đồng đại của một văn hóa. Những người khác cũng làm như vậy (ví dụ: Hsu, 1959).
Carneiro, một
sinh viên của White, (Carneiro, 1981), đã định nghĩa quá trình là một hiện tượng
chung cấu thành “mối tương tác qua thời
gian của các yếu tố của một hệ thống khi hệ thống đó biến đổi từ trạng
thái này sang trạng thái khác” (Carneiro, 1960:
145). Biến đổi là “xác định [và] là một biểu hiện của các quy luật
tự nhiên cơ bản.” (1960: 145). Các
yếu tố là các đơn vị cấu trúc của một hệ thống, và chúng là “một lớp hiện tượng có thể tách rời về mặt khái niệm”, bao gồm những thứ như “phân công lao động, ăn thịt đồng loại, ma thuật săn bắt, nông nghiệp dùng cày, và hôn nhân chéo anh chị em họ” (1960: 146). Một
hệ thống là “một tập hợp các yếu
tố liên quan về phương
diện cấu trúc và chức năng được khớp nối thành một tổng thể vận hành” (1960: 146).
“Thực chất của quá trình là sự biến
đổi của một loại
nào đó”, và “chúng ta có thể nghĩ về quá trình như một sự nối tiếp rất nhanh của các
trạng thái đồng đại của một hệ thống, mỗi trạng thái chỉ biến đổi một chút so với trước
đó” (1960: 147). Carneiro (1960: 148) cho rằng “Chúng ta có thể vũ đoán, nhưng lại khá chính đáng,
phân định một phân đoạn cụ thể của quá trình văn hóa và tự mình khảo sát nó. [Người ta có
thể] phân tích quá trình văn
hóa một cách hợp lý thành một số tiểu quá trình cấu thành.
Các nhà nhân học văn hóa, ông lưu ý, “đã thấy thuận tiện khi phân
tích [quá trình
văn hóa] thành các [tiểu] quá trình cấu thành như
tiến hóa, phát minh, truyền
bá, tích văn hóa, tích hợp, phân đoạn và nhiều hơn nữa” (Carneiro, 1960: 148).
Đây là các quá trình lịch sử chuẩn; tất cả đều nằm trong họ tiến hóa lịch đại.
Steward (1949: 3) cho rằng để trở thành một khoa học, nhân học phải tìm kiếm các mô thức trong dữ liệu văn hóa và “xác định các quá trình được nhân đôi độc lập trong các chuỗi văn hóa, và để nhận ra nguyên nhân và kết quả trong cả mối quan hệ thời gian và chức năng.” Theo quan điểm của ông, việc học thuộc lịch sử không phải là một lời giải thích về quá trình, cũng không xác định (các) quá trình nào xảy ra trong một trường hợp cụ thể là một cách giải thích khoa học bởi vì như vậy không giải thích đầy đủ lý do tại sao quá trình đó lại vận hành trong trường hợp cụ thể đó. Ông không thể xác định các quá trình cụ thể (Steward, 1949: 24) và kết luận bằng câu dẫn Strong (1943: 41): Khi có “đủ dữ liệu so sánh trong tay, các khái quát sẽ xuất hiện có thể cách mạng hóa các khái niệm về lịch sử văn hóa và quá trình văn hóa của chúng ta hàng thiên niên kỷ”. Cần nhiều nghiên cứu hơn để xác định các quá trình cụ thể và khám phá những quá trình cho đến bây giờ vẫn chưa được biết đến. Strong (1943: 30) đã lưu ý rằng “quá trình văn hóa trên toàn thế giới dường như đối với nhiều người trong chúng ta tiến hành theo những mô thức cho đến giờ vẫn chỉ được nhận thức mờ nhạt mà chỉ có những kiến thức giành được một cách khó khăn mới có thể minh định được”. Cũng như những người khác vào thời điểm đó (ví dụ Steward, 1949) và sau đó (ví dụ: Rouse, 1977; Terrell, 1986), ông đã cho rằng công việc nghiên cứu cần phải liên quan đến việc xây dựng tư liệu về các mô thức trong hồ sơ khảo cổ học như là điều kiện tiên quyết để nhận thức các quá trình văn hóa. White và Steward, cùng với Malinowski và Radcliffe-Brown (Barnard, 2000; Harris, 1968), quan tâm đến các quá trình văn hóa khác với các quá trình lịch sử tiêu chuẩn về truyền bá, phát minh …v.v., và chúng ảnh hưởng đến nhiều cá nhân đi theo họ (Bee, 1974). Tuy nhiên, sau những năm 1950, việc thảo luận về các quá trình lịch sử vẫn không hề biến mất. Ví dụ, một số người theo White và Steward coi thích nghi là một quá trình trở thành (chẳng hạn Kaplan và Manners, 1972) hoặc là một trạng thái hiện hữu (ví dụ Cohen, 1968).
Khi các cuộc thảo luận định hướng về mặt lý thuyết của các quá trình văn hóa xuất hiện vào những năm 1960, không có gì đảm bảo họ sẽ làm rõ các vấn đề này. Beals et al. (1967) đưa ra một trong những định nghĩa duy nhất rõ ràng về quá trình trong văn liệu nhân học nói chung, và tôi đã nhận thức về nó như sau: “Một quá trình là một loạt sự kiện liên kết lại [bằng nhân quả, chức năng, cơ chế] bắt đầu trong những điều kiện xác định nhất định và kết thúc trong những điều kiện xác định nhất định.” Định nghĩa này khiến người ta tự hỏi liệu có phải các “điều kiện được xác định” ấy được xác định bởi những người có các hành động bao gồm các sự kiện hay được xác định bởi nhà nhân học. Beals et al. (1967: 258-9) cũng ngụ ý rằng “phân tích quá trình” trong nhân học văn hóa bao gồm, trước tiên, việc quan sát cùng một quá trình nhiều lần, theo dõi tất cả các biến dường như được liên kết với nhau và các biến có vẻ độc lập và tự do thay đổi. Thứ hai, sắp xếp các quan sát trong một chuỗi thời gian sao cho “các hành vi, hoàn cảnh và các biến thể xảy ra khi quá trình được lặp lại”, cả trong một hệ thống văn hóa và trong nhiều hệ thống văn hóa, tạo điều kiện cho các phân tích so sánh và việc xây dựng các mô hình trừu tượng của các quá trình” (Beals et al., 1967: 258-9). Liệu có phải mô hình chỉ bao gồm một chuỗi các sự kiện, hay chuỗi đó cộng với các liên kết của chúng, hoặc chuỗi đó cộng với các liên kết cộng với bất kỳ biến nhân quả nào vẫn là không rõ ràng.
Steward (1968: 321) đã làm rõ một chút sự vật khi ông nhận xét
rằng các bài trình bày
tại hội nghị “Con
người Săn bắt” Man the Hunter năm 1966 đã chỉ ra một sự thất bại của toàn ngành học trong việc hoàn thiện “một phương pháp xác định mối quan hệ nhân-quả trong sự tiến hóa của các loại văn
hóa khác nhau”. Ông lưu ý rằng lỗ hổng của phương pháp so sánh nằm trong giả định rằng
các mô thức xuyên văn hóa tương tự
biểu thị các quá trình tương tự (và ở đây được thừa nhận mâu thuẫn
với thảo luận năm 1949 của ông). “Các quá trình có thể được
coi là nguyên nhân theo một nghĩa nào đó, [nhưng] đối với các mục đích
hiện tại [ông định nghĩa chúng] là những biến đổi được khởi động khi các yếu tố
văn hóa và môi trường cuối cùng được sử dụng bởi các xã hội loài người” (Steward, 1968: 322).
Thay vì thảo luận về bản
thân các quá trình, Steward (1968) lại
nhấn mạnh sự khác biệt giữa các quá trình và các “yếu tố nhân quả”. Mà các yếu tố nhân quả này lại gồm cả các biến văn hóa và tự nhiên chẳng hạn như công nghệ có
sẵn và các tiềm năng môi trường.
Các yếu tố nguyên nhân cấu thành các ngẫu nhiên lịch sử đã hạn chế và hướng vào sự vận hành của các quá trình, và do đó
chúng giúp giải thích lý do tại sao quá trình này chứ không phải quá trình khác vận
hành trong một trường hợp cụ thể. Nhưng những gì mà một quá trình khác với một chuỗi các sự
kiện liên kết với nhau thì
lại vẫn chưa rõ ràng. Bee (1974: 3) lưu ý rằng “phần lớn lý thuyết và
phương pháp luận nghiên cứu biến
đổi [văn hóa] đều
không xử lý nghiêm
ngặt và nhất quán vấn đề của các quá trình biến đổi. Ông thấy rằng trong
nhân học các quá trình khác nhau từ cách tiếp cận này đến cách tiếp cận
khác. Bee (1974: 3-4) định nghĩa quá trình là “sự tương tác của
các lực nhân quả để tạo ra một điều kiện nhất định. Bằng từ “quá trình biến đổi”, tôi muốn nói rằng sự tương tác của
các yếu tố nhân quả là
để tạo ra sự biến đổi một điều kiện này thành một điều kiện khác”. Trong câu đầu
tiên, ông đã sử dụng quá trình để biểu thị sự
vận hành đồng đại của một văn hóa và trong câu thứ hai quá trình biểu thị sự tiến
hóa lịch đại của một văn hóa. Bee, giống như những người khác, đã sử dụng các thuật ngữ
quá trình và cơ chế như các từ đồng nghĩa.
Bohannan (1995: 81) lặp lại Boas khi nói “Việc phát hiện các quá trình là mục tiêu của mọi khoa học”. Bohannan quan tâm đến cả cách các nền văn hóa vận hành và cách chúng thay đổi. Ông đã sử dụng các thuật ngữ hiện đại hơn cho một số quá trình - biến đổi, nhiễu loạn, cân bằng - nhưng cũng bao gồm cả các thuật ngữ cũ hơn như truyền bá và đổi mới. Ông đã đề cập đến “lý thuyết quá trình văn hóa”, (1995: 57), nhưng chưa bao giờ định nghĩa thuật ngữ này. Đôi khi, ông đã đối lập “quá trình văn hóa”, và “biến đổi văn hóa”, (và ngụ ý rằng quá trình văn hóa liên quan đến sự vận hành đồng đại của một văn hóa; 1995: 83), và những lần khác, ông chỉ ra rằng chính tiến hóa văn hóa là một quá trình (1995: 131). Bohannan đã sử dụng “quá trình” để biểu thị cả vận hành đồng đại và tiến hóa lịch đại của một văn hóa. Việc sử dụng cùng một thuật ngữ từ năm 1940 đến 1990 để biểu thị hai họ quá trình riêng biệt, không nghi ngờ gì nữa, đã góp phần vào sự kết hợp của cả hai trong khảo cổ học. Tôi sẽ chuyển sang lịch sử của thuật ngữ này trong tiểu lĩnh vực đó.
KHẢO
CỔ HỌC TIỀN QUÁ
TRÌNH
Nguồn tư liệu có thứ tự được các nhà khảo cổ học quá
trình tạo
ra trong những năm 1960 và 1970 đưa lại ấn tượng là các nhà khảo cổ học trước
đó đã xây
dựng lịch sử mô tả và không quan tâm đến các quá trình
văn hóa (ví dụ Binford, 1968a, 1968b; Flannery, 1967; Judge, 1982; Watson et
al., 1971). Ngay cả các nhà khảo cổ học tiền quá trình thỉnh thoảng cũng tuyên bố rằng đây thực sự là vấn đề: “Các nghiên cứu của người Mỹ trong ba mươi năm qua chủ yếu tập trung vào các
mục tiêu lịch sử hơn là quá trình” (Willey, 1953: 362).
Willey (1953: 369) cũng lưu ý rằng “các quá trình, mà thông qua chúng, tính liên tục và biến đổi văn hóa được duy trì
hoặc hoàn thành đã không được nghiên cứu và tư duy phản ánh tương xứng với cách các khái niệm này được các nhà khảo cổ học
người Mỹ viện dẫn”. Nhưng các nhà khảo cổ học tiền quá trình - những người thường
được gọi là nhà sử học văn hóa trước những năm 1960 - thực sự quan tâm đến các
quá trình văn hóa. Tuy nhiên họ của các quá trình mà người ta tập trung vào, lại là một quá trình lịch sử tiêu chuẩn liên quan đến việc chuyển tải văn hóa. Những gì Willey (1953) và những người khác trong những năm
1950 và 1960 ghi nhớ là một họ khác của các quá trình văn hóa - liên quan đến sự vận hành chức năng đồng đại của các văn hóa. Steward
và Setzler (1938: 6-7) lưu ý rằng khảo cổ học
“có thể làm sáng tỏ không chỉ những sắp xếp và liên kết theo thời gian và không gian của [các đặc điểm văn hóa], mà còn về các điều kiện dựa trên nguồn gốc, sự phát triển,
truyền
bá, tiếp nhận và tương tác với nhau. Đây là những vấn đề của quá trình văn hóa, những vấn đề mà khảo cổ học và
nhân học cần có chung. Mặc dù các thuật ngữ của mỗi tác giả trong khoảng năm 1920 đến 1960 có khác nhau,
nhưng các quá trình văn hóa mà Steward và Setzler liệt kê lại là những quá trình lịch sử tiêu chuẩn.
McGregor (1941: 49) tuyên bố rằng nhà khảo cổ học “quan tâm đến ba loại mối quan hệ: i) một loạt các sự kiện liên quan về phương diện di truyền hoặc phát triển địa phương; ii) ảnh hưởng của hàng loạt sự kiện này đến các vùng khác; và iii) ảnh hưởng của các khu vực bên ngoài đã tác động đến sự phát triển của nó”. Ở đây, “ảnh hưởng” có thể được đưa ra một cách lỏng lẻo với tư cách là những con đường hoặc phương thức chuyển tải văn hóa. Đồ thị của McGregor (Hình 1) minh họa rõ ràng về các phương thức chuyển tải tiến hóa cơ bản: chuyển tải trực hệ, được biết đến trong tiến hóa hiện đại là tiến hóa theo ngành hoặc tiến hóa tiệm tiến (1a); dung hợp, hoặc võng trạng, với hai biến thể (1b, 1c); đa dạng hóa, hoặc phân nhánh (1d); và thay thế, hoặc bật gốc trùng hợp với nhập cư (1e). Một thập kỷ sau McGregor (1950) đã lưu ý rằng một truyền thống văn hóa phụ thuộc vào sự bền bỉ được tạo ra bởi sự chuyển tải liên tục - định nghĩa tiêu chuẩn của Mỹ về một truyền thống văn hóa (Thompson, 1956; Willey, 1945). Meggers (1955: 117), một sinh viên khác của White, ngụ ý rằng cái mà ngày nay được gọi là chuyển tải văn hóa là một quá trình văn hóa chung có thể dưới dạng truyền bá hoặc di cư. Đó là theo nghĩa rộng để nhận thức trong thảo luận của Meggers (1955) có hàm ý rằng phát minh và đổi mới là các quá trình văn hóa, nhưng tôi nghi ngờ rằng cô ấy sẽ không đồng ý. Theo quan điểm của cô, khảo cổ học xứng đáng là niềm tự hào trong số các tiểu lĩnh vực nhân học bởi vì đó là “sự phản ứng tâm lý phức tạp và khó hiểu của một số tính cách độc đáo của con người [và do đó] các quá trình văn hóa trở nên hoàn toàn sáng tỏ” (Meggers, 1955: 129 ). Giống như nhiều người cùng thời với cô, Meggers hình như cho rằng mọi người đều hiểu là họ của các quá trình liên quan đến chuyển tải văn hóa. Tuy nhiên việc quan tâm đến họ của các quá trình thì đã thay đổi.
Taylor (1948: 108) cho rằng “các quá trình văn hóa là các nhân tố năng động liên quan đến các đặc điểm văn hóa; chúng … bao gồm các mối quan hệ giữa các đặc điểm văn hóa”. Các đặc điểm văn hóa đối với Taylor là tinh thần, ý thức hệ, và khái niệm. Ông xác định rõ ràng các quá trình văn hóa gồm “truyền bá, tiếp xúc văn hóa và tích hợp văn hóa”, và ngụ ý là còn có những quá trình khác nữa (1948: 108). Ông kiên trì rằng các nhà khảo cổ học xác định “các bối cảnh văn hóa” tiền sử, được định nghĩa là “các mối liên kết và các quan hệ của [các đặc điểm văn hóa], về sự cân bằng giữa chúng, [và] về vị trí định tính và định lượng tương đối của chúng trong tổng thể [văn hóa] (1948: 110). Taylor (1948: 36) cho rằng việc nghiên cứu về các loại hình hiện vật đại diện cho các đặc điểm văn hóa trong một bối cảnh văn hóa, sẽ làm bộc lộ “bản chất của văn hóa, của các hằng số văn hóa, của các quá trình, hoặc các quy tắc và phát triển theo trình tự thời gian”. Loại nghiên cứu khảo cổ này, theo quan điểm của Taylor, tương đương với nhân học văn hóa và cái mà ông gọi là sử ký. Nó liên quan đến việc nghiên cứu “thống kê và động thái văn hóa, các khía cạnh hình thức, chức năng và phát triển của nó” (Taylor, 1948; xem thêm Taylor, 1972). Đức kiên ngoan của Taylor về tầm quan trọng của bối cảnh văn hóa có nghĩa là ông quan tâm nghiên cứu sự vận hành đồng đại của một văn hóa. “Sự phát triển theo trình tự thời gian” của các bối cảnh đó, rõ ràng có thể nhận thấy bằng “nghiên cứu so sánh về bản chất và hoạt động của văn hóa trong các khía cạnh hình thức, chức năng và / hoặc phát triển của nó” (Taylor, 1948: 41). Taylor (1948) đã không chỉ ra vai trò của các quá trình văn hóa trong các nghiên cứu như vậy. Mặc dù thực tế là công trình Nghiên cứu Khảo cổ học của Taylor đôi khi được cho là dự báo về khảo cổ học quá trình trong những năm 1960 và 1970, Taylor (1948) cũng nói đôi chút về các quá trình văn hóa, và ông không (Taylor, 1972) phàn nàn rằng các nhà khảo cổ học quá trình đã ngó lơ thảo luận của ông về các quá trình văn hóa. Ông không thể làm thế vì có rất ít mối quan thiết đến các quá trình văn hóa để các nhà quá trình luận phải ngó lơ.
Caldwell (1959: 304) tuyên bố rằng “khảo cổ học mới của Mỹ” trái ngược với cách tiếp
cận lịch sử văn hóa trước đó, vốn tập trung vào “viết lịch sử văn hóa vật chất”; cách tiếp cận mới đang là “xu hướng được quan tâm nhiều hơn tới quy trình văn hóa”. Mặc dù ông ngụ ý rằng
các quá trình văn hóa bao gồm truyền bá, đổi mới và di cư, nhưng thảo luận của ông lại cho thấy bằng “quá trình văn hóa” Calwell một phần muốn nói đến các mối tương quan giữa môi trường tự nhiên và văn hóa - các quá trình thích ứng
chức năng. Ông, giống như những người khác vào thời điểm đó (chẳng hạn Griffin, 1956; Thompson, 1956), đã ghi nhận sự khác biệt về “các tỷ lệ và mức độ biến đổi của các hình thái văn hóa”, và tỷ lệ này có thể bằng 0 hoặc
tương đương với tình trạng trì trệ (Caldwell, 1959: 304 ). Caldwell đã kết luận bằng giả thuyết là “đằng sau sự biến đổi vô hạn của các sự kiện văn hóa và đằng sau chi tiết vô
hạn và phần lớn chưa biết về các tình huống lịch sử, chúng ta sẽ khám phá ra các hoạt động của một số lượng hữu hạn của các quá trình văn hóa nói chung” (1959: 306). Nhái tiêu chuẩn ngành học (ví dụ: Hawkes, 1954; MacWhite, 1956; Meggers, 1955; Rowe, 1959), Caldwell
đã không phân biệt hai họ quá trình hoặc các quá trình trong mỗi họ. Willey và Phillips (1958:
4-5) đã quan tâm đến “diễn giải quá trình” của các niên đại học văn hóa. “Diễn giải quá trình” là một cách diễn đạt lại những gì Phillips
(1955: 248) gọi là "diễn giải chức năng”. Willey (1953) trước đó đã đánh đồng cả hai với
nhau. Willey và Phillips (1958: 5) chỉ ra rằng bằng “diễn giải quá trình”, họ muốn nói là “bất kỳ nguyên tắc giải thích nào cũng đều có thể được viện dẫn”. Họ nhấn mạnh rằng diễn giải quá trình là mang tính “giải thích” và các tác nhân biến đổi được ưa thích của họ là các nhóm người vì “thực tại xã hội” của họ (1958: 6). Willey và Phillips (1958) đã phân biệt họ của các quá trình chịu trách nhiệm về sự vận hành đồng đại của một văn hóa với họ của các quá trình chịu trách nhiệm về sự tiến hóa lịch đại của một văn hóa.
Adams (1956, 1960) đã đề cập đến “các quá trình”, “các quá trình tăng trưởng”, “các quá trình lịch sử”, “các tác tố biến đổi”, và “các lực lượng xã hội”, nhưng không cho biết những cái đó có thể là gì. Adams đã đi theo Steward (1949) và Willey (1950: 223), mà Willey đã đề cập đến “tăng trưởng và phát triển văn hóa” khi ông đặt vấn đề “Chúng ta có thể tái cấu trúc các yếu tố quyết định chịu trách nhiệm cho những mô thức dọc [nghĩa là thời gian] này đến mức độ nào?. Willey (1950) cũng không rõ ràng hơn Adams khi liệt kê các quá trình khác nhau. Tuy nhiên, ông đã cố gắng chỉ ra cách chúng tương liên với nhau khi trong đoạn cuối của phần thảo luận, ông tuyên bố rằng sự tương tác của công nghệ và môi trường mang lại động lực cực lớn cho văn hóa; và động lực này, gắn móc thời trang quả cầu tuyết, lôi cuốn xã hội theo đà phát triển của nó. Sớm hay muộn thì các lực lượng lịch sử cũng chung sức phá vỡ hoặc xáo trộn các mô thức năng động này. Kết quả, cái chết về văn hóa, sự lệch hướng hoặc sự hòa nhập mới, phụ thuộc rất lớn vào tính cứng rắn và tốc lực mà sự phát triển văn hóa ban đầu đã được hun đúc và đẩy theo số phận của nó. (Willey, 1950: 242) Các nhà khảo cổ học tiền quá trình đã triệu vời các quá trình văn hóa khác nhau để giúp giải thích sự thay đổi trong hồ sơ khảo cổ tương ứng với thời gian trôi qua. Không có gì đáng ngạc nhiên, các quá trình mà họ đề cập đến là những quá trình tiêu chuẩn của dân tộc học lịch sử. Vào những năm 1950, các loại quá trình khác đã được đề cập, và những quá trình này có thể bắt nguồn từ sự thay đổi trong nhân học nói chung từ dân tộc học lịch sử sang tiến hóa luận của White và Steward, cùng với các liều lượng của cấu trúc luận và chức năng luận của Malinowski và Radcliffe-Brown. Sự thay đổi bắt đầu kết tinh trong khảo cổ học vào những năm 1960 với sự xuất hiện của khảo cổ học quá trình. Người ta đã nói rằng khảo cổ học quá trình “đặt để [nhấn mạnh] vào việc giải thích về biến đổi hoặc ổn định nhằm nhận thức về các quá trình văn hóa nói chung” (Sterud, 1978: 295). Nhưng khái niệm chủ chốt - quá trình văn hóa – lại hiếm khi được thảo luận chi tiết.
________________________________________
Còn nữa…
Nguồn: Nguồn:
Lyman, R. Lee (2007). What is the `process' in cultural process
and in processual archaeology?. In Anthropological Theory· June 2007.
Tác giả: Richard Lee Lyman
(sinh ngày 13 tháng 1 năm 1951 tại Dayton, Washington) là một nhà khảo cổ học
người Mỹ, ông đặc biệt
có công trong mai
tàng học và cổ sinh học và xác lập các tiêu chuẩn về phương pháp luận
và công nghệ. Ông học tại Đại học bang Washington và lấy bằng Cử nhân Nhân học vào tháng 6
năm 1973, vào tháng 6 năm 1976, có bằng Thạc sĩ Nhân học và
vào tháng 6 năm 1982, bằng tiến sĩ Nhân học, và đặc biệt quan tâm nghiên cứu xương cốt. Đề tài Luận văn Thạc sĩ của ông là
Phân tích Văn hóa về Di tích Quần động vật vùng Alpowa. Đề tài Luận án Tiến sỹ là Mai tàng học Quần động vật cổ có Xương sống. Từ tháng 9 năm 1982 đến tháng 8 năm 1986, ông là trợ lý giáo sư tại Khoa
Nhân học tại Đại học bang Oregon. Sau đó, ông chuyển đến Đại học
Missouri-Columbia, và từ tháng 8 năm 1989 đến tháng 8 năm 1995 là Phó Giáo sư; từ tháng 8 năm
1995 là Giáo sư. Năm 2002, ông là học giả thỉnh giảng đầu tiên của William D.
Lipe về Phương pháp và lý thuyết khảo cổ học tại Đại học bang Washington. Ông
là thành viên của Hiệp hội Khoa học Tây Bắc, Hiệp hội Khảo cổ học Hoa Kỳ, Hiệp
hội Sinh học Động vật có xương sống Tây Bắc, Hiệp hội Dân tộc học và Hiệp hội
Khảo cổ học Washington.
Các lĩnh vực quan tâm khác của
ông là lịch sử phương pháp luận và lý thuyết về khảo cổ học Bắc Mỹ, cũng như
lịch sử văn hóa và tự nhiên của miền tây Hoa Kỳ, đặc biệt là quê hương
Washington.
Tài liệu dẫn
Adams,
R.M. (1956). Some Hypotheses on the
Development of Early Civilizations, In American Antiquity 21(3):
227–32.
Adams,
R.M. (1960). The Evolutionary Process in
Early Civilizations, in S. Tax (ed.) Evolution After Darwin, vol. 2:
The Evolution of Man: Mind, Culture, and Society, pp. 153–68. Chicago,
IL: University of Chicago Press.
Arnold,
D.E. (1985). Ceramic Theory and Cultural Process. Cambridge University
Press.
Barnard,
A. (2000). History and Theory in Anthropology. Cambridge University
Press.
Barnett,
H.G. (1940). Cultural Processes, In American
Anthropologist 42(1): 21–48.
Barnett,
H.G. (1942). Invention and Culture Change,
In American Anthropologist 44(1): 14–30.
Barnett,
H.G. (1953). Innovation: The Basis of Cultural Change. New York:
McGraw-Hill.
Beals,
A.R., G. Spindler and L. Spindler (1967). Culture in Process. New York:
Holt, Rinehart and Winston.
Bee,
R.L. (1974). Patterns and Processes. New York: Free Press.
Bender,
S.J. and G.A. Wright (1988). High-Altitude
Occupations, Cultural Process, and High Plains Prehistory: Retrospect and
Prospect, In American Anthropologist 90(3): 619–39.
Bidney,
D. (1953). Theoretical Anthropology. New York: Columbia University
Press.
Binford,
L.R. (1962). Archaeology as Anthropology,
In American Antiquity 28(2): 217–25.
Binford,
L.R. (1965). Archaeological Systematics
and the Study of Cultural Process, In American Antiquity 31(2):
203–10.
Binford,
L.R. (1968a). Archeological Perspectives,
in S.R. Binford and L.R. Binford (eds) New Perspectives in Archeology,
pp. 5–32. Chicago, IL: Aldine.
Binford,
L.R. (1968b). Some Comments on Historical
versus Processual Archaeology, In Southwestern Journal of Anthropology 24(3):
267–75.
Binford,
L.R. (1977). General Introduction, in
L.R. Binford (ed.) For Theory Building in Archaeology, pp. 1–10. New
York: Academic Press.
Binford,
S.R. and L.R. Binford, eds (1968a). New Perspectives in Archeology.
Chicago, IL: Aldine.
Binford,
S.R. and L.R. Binford (1968b). Archeological
Theory and Method, in S.R. Binford and L.R. Binford (eds) New
Perspectives in Archeology, pp. 1–3. Chicago, IL: Aldine.
Boas,
F. (1896). The Limitations of the
Comparative Method in Anthropology, In Science 6: 901–8.
Boas,
F. (1924). Evolution or Diffusion?, In
American Anthropologist 26(3): 340–4.
Bohannan,
P. (1995). How Culture Works. New York: Free Press.
Bray,
W. (1973). The Biological Basis of
Culture, in C. Renfrew (ed.) The Explanation of Culture Change: Models
in Prehistory, pp. 73–92. London: Duckworth.
Caldwell,
J.R. (1959). The New American Archeology,
In Science 129(3345): 303–7.
Carneiro,
R.L. (1960). The Culture Process, in
G.E. Dole and R.L. Carneiro (eds) Essays in the Science of Culture in Honor
of Leslie A. White, pp. 145–61. New York: Thomas Y. Crowell.
Carneiro,
R.L. (1981). Leslie A. White, in S.
Silverman (ed.) Totems and Teachers: Perspectives on the History of
Anthropology, pp. 209–51. New York: Columbia University Press.
Clarke,
D.L. (1968). Analytical Archaeology. London: Methuen.
Cohen,
R. and E.R. Service, eds (1978). Origins of the State: The Anthropology of
Political Evolution. Philadelphia, PA: Institute for the Study of Human
Issues.
Cohen,
Y.A. (1968). Culture as Adaptation,
in Y.A. Cohen (ed.) Man in Adaptation: The Cultural Present, pp. 40–60.
Chicago, IL: Aldine.
Cordell,
L.S. (1994). The Nature of Explanation in
Archaeology: A Position Paper, in G.J. Gumerman and M. Gell-Mass (eds) Understanding
Complexity in the Prehistoric Southwest, pp. 149–59. Reading, MA:
Addison-Wesley.
Cunningham,
J.J. (2003). Transcending the “Obnoxious
Spectator”: A Case for Processual Pluralism in Ethnoarchaeology, In Journal
of Anthropological Archaeology 22(4): 389–410.
Darwin,
C. (1859). On the Origin of Species by Means of Natural Selection; or the
Preservation of Favoured Races in the Struggle for Life. London: Murray.
Deetz,
J. (1965). The Dynamics of Stylistic Change in Arikara Ceramics. Urbana:
University of Illinois Press.
Dickens,
R.S. Jr. and T.H. Ward, eds (1985) Structure and Process in Southeastern
Archaeology. Tuscaloosa: University of Alabama Press.
Eisenberg,
L. (1971) ‘Anthropological Archaeology: Ethnography or Ethnology?’, Plains
Anthropologist 16(54): 298–301.
Flannery,
K.V. (1967) ‘Culture History v. Culture Process: A Debate in American
Archaeology’, Scientific American 217(2): 119–22.
Flannery,
K.V. (1968) ‘Archeological Systems Theory and Early Mesoamerica’, in B.J.
Meggers (ed.) Anthropological Archeology in the Americas, pp. 67–87.
Washington, DC: Anthropological Society of Washington.
Flannery,
K.V. (1972) ‘The Cultural Evolution of Civilizations’, Annual Review of
Ecology and Systematics 3: 399–426.
Flannery,
K.V. (1999) ‘Process and Agency in Early State Formation’, Cambridge
Archaeological Journal 9(1): 3–21.
Fried,
M.H. (1967) The Evolution of Political Society: An Essay in Political
Anthropology. New York: Random House.
Glasow,
M.A. (1978) ‘The Concept of Carrying Capacity in the Study of Culture Process’,
Advances in Archaeological Method and Theory 1: 31–48.
Gluckman,
M. (1968) ‘The Utility of the Equilibrium Model in the Study of Social Change’,
American Anthropologist 70(2): 219–37.
Gould,
S.J. (1987) Time’s Arrow and Time’s Cycle: Myth and Metaphor in the
Discovery of Geological Time. Cambridge, MA: Harvard University Press.
Griffin,
J.B. (1956) ‘The Study of Early Cultures’, in H.L. Shaprio (ed.) Man,
Culture and Society, pp. 22–49. New York: Oxford University Press.
Harris,
M. (1968) The Rise of Anthropological Theory. New York: Crowell.
Hawkes,
C.F.C. (1954) ‘Archaeological Theory and Method: Some Suggestions from the Old
World’, American Anthropologist 56(2): 155–68.
Hegmon,
M. (2003) ‘Setting Theoretical Egos Aside: Issues and Theory in North American
Archaeology’, American Antiquity 68(2): 213–43.
Herskovits,
M.J. (1943) ‘Education and Cultural Dynamics’, American Journal of Sociology
48(6): 737–49.
Herskovits,
M.J. (1945) ‘The Processes of Cultural Change’, in R. Linton (ed.) The
Science of Man in the World Crisis, pp. 143–70. New York: Columbia
University Press.
Herskovits,
M.J. (1948) Man and His Works. New York: Alfred A. Knopf.
Hill,
J.N. (1977) ‘Introduction’, in J.N. Hill (ed.) Explanation of Prehistoric
Change, pp. 1–16. Albuquerque: University of New Mexico Press.
Hole,
F. and R.F. Heizer (1965) An Introduction to Prehistoric Archeology. New
York: Holt, Rinehart and Winston.
Hole,
F. and R.F. Heizer (1969) An Introduction to Prehistoric Archeology (2nd
edn). New York: Holt, Rinehart and Winston.
Hole,
F. and R.F. Heizer (1973) An Introduction to Prehistoric Archeology (3rd
edn). New York: Holt, Rinehart and Winston.
Hole,
F., and R.F. Heizer (1977) Prehistoric Archeology: A Brief Introduction.
New York: Holt, Rinehart and Winston.
Hsu,
F.L.K. (1959) ‘Structure, Function, Content, and Process’, American
Anthropologist 61(5): 790–805.
Huxley,
J.H. (1958) ‘Cultural Process and Evolution’, in A. Roe and G.G. Simpson (eds) Behavior
and Evolution, pp. 437–54. New Haven, CT: Yale University Press.
Johnson,
A.L. (2004) ‘The Goals of Processual Archaeology’, in A.L. Johnson (ed.) Processual
Archaeology, pp. 11–27. Westport, CT: Praeger.
Johnson,
A.W. and T. Earle (1987) The Evolution of Human Societies: From Foraging
Group to Agrarian State. Stanford, CA: Stanford University Press.
Johnson,
M. (1999) Archaeological Theory: An Introduction. Oxford: Blackwell.
Judge,
W.J. (1982) ‘Will the Real Archeology Please Stand Up? Comments on the Status
of American Archeology, ca. AD 1982’, George Wright Forum 2(4): 17–34.
Kaplan,
D. and R.A. Manners (1972) Culture Theory. Englewood Cliffs, NJ:
Prentice-Hall.
Keegan,
W.F. (1991) ‘Culture Processes and Culture Realities’, in R.W. Preucel (ed.) Processual
and Postprocessual Archaeologies: Multiple Ways of Knowing the Past, pp.
183–96. Carbondale, IL: Center for Archaeological Investigations, Southern
Illinois University at Carbondale (Occasional Paper No. 10).
Kluckhohn,
C. (1951) ‘The Study of Culture’, in D. Lerner and H.D. Lasswell (eds) The
Policy Sciences, pp. 86–101. Stanford, CA: Stanford University Press.
Kroeber,
A.L. (1948) Anthropology (rev. edn). New York: Harcourt, Brace and
Company.
Kroeber,
A.L., ed. (1953a) Anthropology Today. Chicago, IL: University of Chicago
Press.
Kroeber,
A.L. (1953b) ‘Concluding Review’, in S. Tax, L.C. Eisley, I. Rouse and C.F.
Voegelin (eds) An Appraisal of Anthropology Today, pp. 357–76. Chicago,
IL: University of Chicago Press.
Landres,
P.B. (1992) ‘Temporal Scale Perspectives in Managing Biological Diversity’, Transactions
of the North American Wildlife and Natural Resources Conference 57:
292–307.
Lerner,
M. (1934) ‘Social Process’, Encyclopaedia of the Social Sciences 14:
148–51.
Linton,
R. (1936) The Study of Man. New York: Appleton-Century.
Longacre,
W.A. (1966) ‘Changing Patterns of Social Integration: A Prehistoric Example
from the American Southwest’, American Anthropologist 68(1): 94–102.
Longacre,
W.A. (1968) ‘Some Aspects of Prehistoric Society in East-Central Arizona’, in
S.R. Binford and L.R. Binford (eds) New Perspectives in Archeology, pp.
89–102. Chicago, IL: Aldine.
Lowie,
R.H. (1912) ‘On the Principle of Convergence in Ethnology’, Journal of
American Folk-Lore 25(95): 24–42.
Lyman,
R.L. (2004) ‘The Concept of Equifinality in Taphonomy’, Journal of Taphonomy
2(1): 15–26.
Lyman,
R.L. (2007) ‘Cultural Transmission in North American Anthropology and
Archaeology, ca. 1895–1965’, in M.J. O’Brien (ed.) Cultural Transmission and
Archaeology: Issues and Case Studies. Washington, DC: Society for American
Archaeology.
Lyman,
R.L. and J.L. Harpole (2002) ‘A.L. Kroeber and the Measurement of Time’s Arrow
and Time’s Cycle’, Journal of Anthropological Research 58(3): 313–38.
Lyman,
R.L. and M.J. O’Brien (2002) ‘Classification’, in J.P. Hart and J.E. Terrell
(eds) Darwin and Archaeology: A Handbook of Key Concepts, pp. 69–88.
Westport, CT: Bergin & Garvey.
Lyman,
R.L. and M.J. O’Brien (2003) ‘Cultural Traits: Units of Analysis in Early
Twentieth-Century Anthropology’, Journal of Anthropological Research 59(2):
225–50.
Lyman,
R.L. and M.J. O’Brien (2004) ‘Nomothetic Science and Idiographic History in
Twentieth-Century Americanist Anthropology’, Journal of the History of the
Behavioral Sciences 40(1): 77–96.
MacWhite,
E. (1956) ‘On the Interpretation of Archeological Evidence in Historical and
Sociological Terms’, American Anthropologist 58(1): 3–25.
Maruyama,
M. (1963) ‘The Second Cybernetics: Deviation-Amplifying Causal Processes’, American
Scientist 51(2): 164–79.
Matthews,
F. (1989) ‘Social Scientists and the Culture Concept, 1930–1950: The Conflict
between Processual and Structural Approaches’, Sociological Theory 7(1):
87–101.
McGregor,
J.C. (1941) Southwestern Archaeology. New York: Wiley.
McGregor,
J.C. (1950) ‘Weighted Traits and Traditions’, in E.K. Reed and D.S. King (eds) For
the Dean, pp. 291–97. Tucson: Hohokam Museums Association, and Santa Fe:
Southwest Museums Association.
Mead,
M. (1943) ‘Our Educational Emphases in Primitive Perspective’, American
Journal of Sociology 48(6): 633–9.
Meggers,
B.J. (1955) ‘The Coming of Age of American Archaeology’, in B.J. Meggers and C.
Evans (eds) New Interpretations of Aboriginal American Culture History,
pp. 116–29. Washington, DC: Anthropological Society of Washington.
Moore,
H.C. (1954) ‘Cumulation and Cultural Processes’, American Anthropologist 56(3):
347–57.
Murdock,
G.P. (1955) ‘Changing Emphases in Social Structure’, Southwestern Journal of
Anthropology 11: 361–70.
Murdock,
G.P. (1956) ‘How Culture Changes’, in H.L. Shapiro (ed.) Man, Culture, and
Society, pp. 247–60. New York: Oxford University Press.
O’Brien,
M.J. and R.L. Lyman (2000) Applying Evolutionary Archaeology: A Systematic
Approach. New York: Kluwer Academic/Plenum.
Ogburn,
W.F. (1930) ‘Change, Social’, Encyclopaedia of the Social Sciences 3:
330–34.
Phillips,
P. (1955) ‘American Archaeology and General Anthropological Theory’, Southwestern
Journal of Anthropology 11(3): 246–50.
Plog,
F.T. (1973) ‘Diachronic Anthropology’, in C.L. Redman (ed.) Research and
Theory in Current Archeology, pp. 181–98. New York: Wiley.
Plog,
F.T. (1974) The Study of Prehistoric Change. New York: Academic Press.
Plog,
F.T. (1975) ‘Systems Theory in Archeological Research’, Annual Review of
Anthropology 4: 207–24.
Plog,
F.T. (1977) ‘Explaining Change’, in J.N. Hill (ed.) Explanation of
Prehistoric Change, pp. 17–57. Albuquerque: University of New Mexico Press.
Plotkin,
H. (2003) The Imagined World Made Real: Towards a Natural Science of Culture.
New Brunswick, NJ: Rutgers University Press.
Preucel,
R.W. (1991) ‘The Philosophy of Archaeology’, in R.W. Preucel (ed.) Processual
and Postprocessual Archaeologies, pp. 17–29. Carbondale, IL: Center for
Archaeological Investigations, Southern Illinois University at Carbondale
(Occasional Paper No. 10).
Radin,
P. (1933) The Method and Theory of Ethnology: An Essay in Criticism. New
York: McGraw-Hill.
Redfield,
R. (1934) ‘Culture Changes in Yucatan’, American Anthropologist 36(1):
57–69.
Redfield,
R. (1941) The Folk Culture of Yucatan. Chicago, IL: University of
Chicago Press.
Redfield,
R. (1953) The Primitive World and Its Transformations. Ithaca, NY:
Cornell University Press.
Redman,
C.L., ed. (1973) Research and Theory in Current Archeology. New York:
Wiley.
Redman,
C.L. (1991) ‘Distinguished Lecture in Archeology: In Defense of the Seventies –
The Adolescence of New Archeology’, American Anthropologist 93(22):
295–307.
Renfrew,
C. (1969) ‘Trade and Culture Process in European Prehistory’, Current
Anthropology 10(2/3): 151–69.
Renfrew,
C., ed. (1973) The Explanation of Culture Change: Models in Prehistory.
London: Duckworth.
Renfrew,
C. (1982) ‘Explanation Revisited’, in C. Renfrew, M.J. Rowlands and B.A.
Segraves (eds) Theory and Explanation in Archaeology: The Southampton
Conference, pp. 5–23. New York: Academic Press.
Renfrew,
C. (1994) ‘Concluding Remarks: Childe and the Study of Culture Process’, in
D.R. Harris (ed.) The Archaeology of V. Gordon Childe: Contemporary
Perspectives, pp. 121–33. London: University College London Press.
Rohner,
R.P. and E.C. Rohner (1969) ‘Franz Boas and the Development of North American
Ethnology and Ethnography’, in R.P. Rohner (ed.) The Ethnography of Franz
Boas, pp. xiii–xxx. Chicago, IL: University of Chicago Press.
Rosenswig,
R.M. (2000) ‘Some Political Processes of Ranked Societies’, Journal of
Anthropological Archaeology 19(4): 413–60.
Rouse,
I. (1953) ‘The Strategy of Culture History’, in A.L. Kroeber (ed.) Anthropology
Today, pp. 57–76. Chicago, IL: University of Chicago Press.
Rouse,
I. (1977) ‘Pattern and Process in West Indian Archaeology’, World
Archaeology 9(1): 1–11.
Rowe,
J.H. (1959) ‘Archaeological Dating and Cultural Process’, Southwestern
Journal of Anthropology 15(4): 317–24.
Rowlands,
M.J. (1982) ‘Processual Archaeology as Historical Social Science’, in C.
Renfrew, M.J. Rowlands and B.A. Segraves (eds) Theory and Explanation in
Archaeology: The Southampton Conference, pp. 155–74. New York: Academic
Press.
Sackett,
J.R. (1968) ‘Method and Theory of Upper Paleolithic Archeology in Southwestern
France’, in S.R. Binford and L.R. Binford (eds) New Perspectives in
Archeology, pp. 61–83. Chicago, IL: Aldine.
Salmon,
M.H. (1978) ‘What Can Systems Theory Do for Archaeology?’, American
Antiquity 43(2): 174–83.
Salmon,
M.H. (1982) Philosophy and Archaeology. New York: Academic Press.
Schiffer,
M.B. (1976) Behavioral Archeology. New York: Academic Press.
Schiffer,
M.B. (1987) Formation Processes of the Archaeological Record.
Albuquerque: University of New Mexico Press.
Schiffer,
M.B. (1988) ‘The Structure of Archaeological Theory’, American Antiquity 53(3):
461–85.
Sebastian,
L. and R.H. McGuire (2001) ‘History, Contingency, and Process: Ways of Thinking
about Change in the Past’, in D.A. Phillips Jr and L. Sebastian (eds) Examining
the Course of Southwest Archaeology: The Durango Conference, September 1995,
pp. 11–17. Albuquerque: New Mexico Archaeological Council (Special Publication
No. 3).
Sengör,
A.M.C. (2001) Is the Present the Key to the Past or the Past the Key to the
Present? Geological Society of America (Special Paper 355).
Service,
E.R. (1969) ‘Models for the Methodology of Mouthtalk’, Southwestern Journal
of Anthropology 25(1): 68–80.
Shanahan,
T. (2004) The Evolution of Darwinism: Selection, Adaptation, and Progress in
Evolutionary Biology. Cambridge: Cambridge University Press.
Spencer,
C.S. (1997) ‘Evolutionary Approaches in Archaeology’, Journal of
Archaeological Research 5(3): 209–64.
Spindler,
L.S. and G.D. Spindler (1959) ‘Culture Change’, in B.J. Siegel (ed.) Biennial
Review of Anthropology 1959, pp. 37–66. Stanford, CA: Stanford University
Press.
Sterud,
E.L. (1978) ‘Changing Aims of Americanist Archaeology: A Citations Analysis of American
Antiquity’, American Antiquity 43(2): 294–302.
Steward,
J.H. (1929) ‘Diffusion and Independent Invention: A Critique of Logic’, American
Anthropologist 31(3): 491–5.
Steward,
J.H. (1949) ‘Cultural Causality and Law: A Trial Formulation of the Development
of Early Civilizations’, American Anthropologist 51(1): 1–27.
Steward,
J.H. (1955) Theory of Culture Change. Urbana: University of Illinois
Press.
Steward,
J.H. (1968) ‘Causal Factors and Processes in the Evolution of Pre-Farming
Societies’, in R.B. Lee and I. DeVore (eds) Man the Hunter, pp. 321–34.
Chicago, IL: Aldine.
Steward,
J.H. and F.M. Setzler (1938) ‘Function and Configuration in Archaeology’, American
Antiquity 4(1): 4–10.
Strong,
W.D. (1943) Cross Sections of New World Prehistory. Smithsonian
Miscellaneous Collections 104(2).
Struever,
S. (1968) ‘Problems, Methods and Organization: A Disparity in the Growth of
Archeology’, in B.J. Meggers (ed.) Anthropological Archeology in the
Americas, pp. 131–51. Washington, DC: Anthropological Society of Washington
Tax,
S., ed. (1964) Horizons of Anthropology. Chicago, IL: Aldine.
Tax,
S., L.C. Eisley, I. Rouse and C.F. Voegelin, eds (1953) An Appraisal of
Anthropology Today. Chicago, IL: University of Chicago Press.
Taylor,
W.W. (1948) A Study of Archeology. American Anthropological Association,
Memoir 69.
Taylor,
W.W. (1972) ‘Old Wine and New Skins: A Contemporary Parable’, in M.P. Leone
(ed.) Contemporary Archaeology: A Guide to Theory and Contributions, pp.
28–33. Carbondale: Southern Illinois University Press.
Terrell,
J. (1986) ‘Causal Pathways and Causal Processes: Studying the Evolutionary
Prehistory of Human Diversity in Language, Customs, and Biology’, Journal of
Anthropological Archaeology 5(2): 187–98.
Thompson,
R.H., ed. (1956) ‘An Archaeological Approach to the Study of Cultural
Stability’, in R. Wauchope (ed.) Seminars in Archaeology: 1955, pp.
31–57. Society for American Archaeology (Memoir no. 11).
Thompson,
R.H. andW.A. Longacre (1966) ‘The University of Arizona Archaeological Field
School at Grasshopper, East-Central Arizona’, The Kiva 31(4): 255–75.
Vogt,
E.Z. (1960) ‘On the Concepts of Structure and Process in Cultural
Anthropology’, American Anthropologist 62(1): 18–33.
Watson,
P.J. (1973) ‘The Future of Archeology in Anthropology: Culture History and
Social Science’, in C.L. Redman (ed.) Research and Theory in Current
Archeology, pp. 111–24. New York: Wiley.
Watson,
P.J., S.A. LeBlanc and C.L. Redman (1971) Explanation in Archeology: An Explicitly
Scientific Approach. New York: Columbia University Press.
Watson,
P.J., S.A. LeBlanc and C.L. Redman (1984) Archeological Explanation: The
Scientific Method in Archeology. New York: Columbia University Press.
Wauchope,
R. (1966) Archaeological Survey of Northern Georgia, with a Test of Some
Cultural Hypotheses. Society for American Archaeology (Memoir no. 21).
White,
L.A. (1947) ‘Culturological vs. Psychological Interpretations of Human
Behavior’, American Sociological Review 12(6): 686–98.
White,
L.A. (1948) ‘The Individual and the Culture Process’, Science 108(2813):
585–6.
White,
L.A. (1949) The Science of Culture. New York: Farrar, Straus, and
Company.
White,
L.A. (1950) ‘The Individual and the Culture Process’, in Centennial, pp.
74–81. Washington, DC: American Association for the Advancement of Science.
White,
L.A. (1959) The Evolution of Culture. New York: McGraw-Hill.
Willey,
G.R. (1945) ‘Horizon Styles and Pottery Traditions in Peruvian Archaeology’, American
Antiquity 10(1): 49–56.
Willey,
G.R. (1950) ‘Growth Trends in New World Cultures’, in E.K. Reed and D.S. King
(eds) For the Dean, pp. 223–47. Tucson, AZ: Hohokam Museums Association,
and Santa Fe, NM: Southwest Museums Association.
Willey,
G.R. (1953) ‘Archaeological Theories and Interpretation: New World’, in A.L.
Kroeber (ed.) Anthropology Today, pp. 361–85. Chicago, IL: University of
Chicago Press.
Willey,
G.R. and P. Phillips (1958) Method and Theory in American Archaeology.
Chicago, IL: University of Chicago Press.
Willey,
G.R. and J.A. Sabloff (1993) A History of American Archaeology (3rd
edn). New York: W.H. Freeman.
Willey,
M.W. (1931) ‘Continuity, Social’, Encyclopaedia of the Social Sciences 4:
315–18.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét