Nicholas
Rescher
Người dịch: Hà
Hữu Nga
Triết
học quá trình là một cuộc phiêu lưu vào siêu hình học, một lý thuyết tổng quát
về hiện thực. Triết học quá trình quan tâm đến những gì tồn tại trên thế giới
và các điều khoản tham chiếu trong đó hiện thực này được hiểu và được lý giải.
Sau rốt, nhiệm vụ của siêu hình học là đưa ra một lối lý giải hợp lý và có sức
thuyết phục về bản chất của hiện thực ở cấp độ toàn diện, rộng nhất và khái
quát nhất. Và nhiệm vụ của nó là tạo điều kiện cho chúng ta đặc trưng hoá, miêu
tả, phân loại và lý giải những đặc điểm chung nhất của hiện thực mà triết học
quá trình tự xác định theo cách riêng của nó. Ý tưởng hướng dẫn cho cách tiếp
cận này là ở chỗ tồn tại tự nhiên bao gồm và được hiểu biết rõ ràng nhất
trong khuôn khổ các quá trình chứ không phải là các sự vật – trong
khuôn khổ của những phương thức thay đổi chứ không phải là những ổn định đông
cứng. Đối với các nhà quá trình, bất cứ loại thay đổi nào – vật lý, hữu cơ, tâm
lý - đều là đặc điểm thống trị và phổ biến của hiện thực.
Triết
học quá trình đối lập tuyệt đối với quan điểm – cũng cổ xưa như Parmenides và
Zeno và những nhà nguyên tử luận Hy Lạp tiền Socrate – từ chối
các quá trình hoặc hạ cấp các quá trình nhằm làm cho chúng trở thành hoặc tìm
hiểu chúng bằng cách làm cho chúng lệ thuộc vào các sự vật bản chất. Ngược lại
triết học quá trình xoay quanh chủ đề là bản chất quá trình của tồn tại là một
sự kiện cơ bản mà với nó bất cứ một triết học siêu hình tương xứng nào cũng
phải biến thành các giới hạn.
Triết
học quá trình đặt các quá trình vào hàng đầu các mối quan tâm triết học và đặc
biệt là mối quan tâm về hữu thể luận. Trong bối cảnh này, quá trình cần phải
được phân tích theo khá nhiều cách thông thường – như là một sự liên tục được
cấu trúc của các giai đoạn hoặc các pha liên tục. Có thể đưa ra ba nhân tố sau:
i) Một quá trình là một phức hợp – một sự thống nhất của các giai đoạn hoặc các
pha riêng biệt. Một quá trình luôn luôn là một vấn đề này, vấn đề kia; ii) Phức
hợp này có một sự cố kết và thống nhất tạm thời, và quá trình đó cũng có một
chiều kích tạm thời; iii) Mỗi quá trình
đều có một cấu trúc, một khuôn khổ chung, mà thực chất của nó thì mỗi quá trình
cụ thể được trang bị bằng một khuôn khổ hoặc một hình thái.
Từ
thời Aristotle, siêu hình học phương Tây có khuynh hướng rõ ràng thiên về các
sự vật hoặc các bản chất. Tuy nhiên một tuyến tư tưởng khác cũng đã rất phổ
biến từ những thời kỳ sớm hơn. Hơn nữa, việc tập trung vào sự kéo dài trong
thời gian của các sự kiện vật lý như là những tồn tại thực chất là xem nhẹ
những đòi hỏi tương đối hợp lý về các loại hữu thể luận khác, được gọi là các
quá trình, các sự kiện, các sự cố – các hạng mục được xác định bằng các động từ
chứ không phải các danh từ. Và rõ ràng là các cơn giông tố và sóng nhiệt đều ít
nhiều hiện thực như những con chó, quả cam vậy.
Cái
tối hậu đặc trưng của triết học hoá quá trình là một lĩnh vực riêng của truyền
thống triết học không chỉ đơn giản là sự thừa nhận rất cũ rích về quá trình tự
nhiên như là kẻ khởi xướng cho cái tồn tại trong tự nhiên, nhưng vẫn cứ nhất
thiết coi quá trình là tạo thành một thuộc tính bản chất của bất cứ sự vật nào
tồn tại – một sự cam kết với thực chất quá trình cơ bản của hiện thực. Đối với
nhà triết học quá trình thì cái tồn tại trong tự nhiên không chỉ được phát sinh
và duy trì bởi các quá trình, nhưng thực tế vẫn luôn luôn không đổi, được đặc
trưng bởi các quá trình. Về quan điểm ấy, quá trình vừa phổ biến trong tự nhiên
lại vừa là nền tảng để tìm hiểu nó.
1. Các thuộc tính lịch sử
Giống
như rất nhiều vấn đề khác trong lĩnh vực này, triết học quá trình bắt đầu với
những người Hy Lạp cổ đại. Nhà lý thuyết Hy Lạp cổ đại Heraclitus xứ Ephesus
(b.ca. 540 BC.) – ngay từ thời cổ đại đã nổi tiếng là “người khó hiểu” – được
thừa nhận rộng khắp là người sáng lập các tiếp cận quá trình. Cuốn sách “Về Tự
nhiên” của ông miêu tả thế giới là một bản sao của các lực lượng đối lập kết
hợp với nhau trong sự cạnh tranh lẫn nhau, xen cài vào nhau trong sự xung đột
và tranh đấu thường hằng. Lửa, lực lượng dễ thay đổi và hư phù nhất trong các
lực nguyên tố này, là cơ sở của toàn thể: “Trật tự thế giới này … là … một ngọn
lửa sống vĩnh cửu, cháy lên bằng nhiều cách và tắt lịm bằng nhiều cách khác
nhau” (Fr 217, Kirk-Raven-Schofield). “Chất” cơ sở của thế giới không phải là
một loại bản chất vật chất nào đó, mà là một quá trình tự nhiên, có tên là
“lửa”, và tất cả mọi thứ đều là sản phẩm của các hoạt động của nó (puros
tropai). Sự phong phú của các trạng thái và điều kiện khác nhau của lửa –
cái thể hiện quá trình rõ ràng nhất của bốn nguyên tố Hy Lạp truyền thống – tạo
ra toàn bộ sự thay đổi tự nhiên. Vì vậy lửa là kẻ phá huỷ và làm thay đổi vạn
vật và “Vạn vật xuất hiện bởi sự xung đột và tất yếu” (Fr.221, ibid). Và
tính chất có thể thay đổi ấy xâm nhập vào toàn bộ thế giới, cái thế giới mà
“người ta không ai có thể hai lần tắm trong một dòng sông” (Fr. 215, ibid).
Như Heraclitus đã nhìn nhận, thực tại trong tận cùng của nó không hề là một tập
hợp các sự vật, mà là một tập hợp các quá trình: bằng mọi giá người ta
cần phải tránh ảo tưởng chất liệu hoá tự nhiên thành các sự vật vĩnh hằng, các
bản chất, vì đó không hề là các sự vật bền vững mà là các lực cơ sở vừa là
những hoạt lực đa dạng vừa thay đổi bất thường tạo dựng nên thế giới của chúng
ta. Quá trình là cơ sở: dòng sông không phải là một sự vật, mà là một dòng luôn
luôn biến đổi, mặt trời không phải là một sự vật, mà là một ngọn lửa đang bùng
cháy. Vạn vật trong tự nhiên là một chất quá trình, một hoạt chất, một biến
chất. Heraclitus dạy rằng panta rhei vạn vật đều trôi chảy, và nguyên lý
này đã gây ra một ảnh hưởng sâu sắc đến thời đại cổ điển. Ngay cả Plato dù
không thích thú gì nguyên lý đó, “chẳng khác nào những cái bình thủng đáy”, ông
thêm vào Cratylus 440 BC, cũng phải đặt ông thành ngoại lệ – “ý niệm” là
vĩnh cửu và bất biến – trong một địa hạt toàn thể tách rời khỏi lĩnh vực thực
tiễn vật chất.
Heraclitus
có lẽ vẫn được coi là cha đẻ của triết học quá trình, ở bất kỳ cấp độ nào của
truyền thống tri thức phương Tây. Và cái hệ thống tĩnh của Parmenides đã tạo
thành một đối lập cấp tiến nhất và mạnh mẽ nhất của nó. Tuy nhiên bộ môn triết
học bản chất mô hình của thời cổ điển là nguyên tử luận của Leucippus và
Democritus và Epicurus đã vẽ nên toàn bộ bức tranh tự nhiên như một cấu trúc
bất biến và là những nguyên tử vật chất trơ ỳ mà mối quan hệ duy nhất của chúng
với các quá trình chỉ là một sự hoán đổi vị trí của chúng trong không gian và
trong thời gian. Trong đó các thuộc tính của các chất không bao giờ biến
đổi, mà chỉ tác động ảnh hưởng đến các mối quan hệ của chúng mà thôi. Ở
đây chúng ta duy trì loại quan điểm cho rằng Heraclitus đã tìm được cách đối
lập xuất chúng.
Trong
những năm trước đây “triết học quá trình” đã thực sự trở thành chiếc chìa khoá
cho luận đề của Alfred North Whitehead và các môn đệ của ông. Nhưng tất nhiên
đó không thực sự là triết học quá trình. Nếu thực sự có một triết học quá trình
thì nó không phải xoay quanh một nhà tư tưởng, mà là một học thuyết.
Vậy thì cuối cùng một lập trường triết học phải là cái có một đời sống rộng lớn
bất kể sự lý giải và người lý giải nào. Và thực ra thì triết học quá trình là
một khuynh hướng tư tưởng được xác định rõ ràng và có ảnh hưởng lớn mà ta có
thể vạch trở lại nguồn gốc từ tiền Socratics. Các đại biểu hàng đầu của nó là
Heraclitus, Leibniz, Bergson, Peirce và William James – và có thể bao gồm cả
Whitehead và trường phái của ông, Charles Hartshorne, Paul Weis, và cả các nhà
triết học thế kỷ XX như Samuel Alexander, C. Lloyd Morgan, và Andrew Paul
Ushenko.
2.
Diễn tiến của Triết học Quá trình
Ngược
lại với nền tảng lịch sử của mình, “triết học quá trình” có thể được hiểu là
một luận thuyết viện đến một số tiền đề cơ bản: 1) thời gian và sự thay đổi là
các phạm trù nguyên lý của việc tìm hiểu siêu hình, 2) quá trình là một phạm
trù nguyên lý của việc miêu tả hữu thể luận, 3) Còn hơn cả nền tảng, hoặc ở bất
cứ một cấp độ nào quá trình cũng là cơ sở cho các mục đích lý thuyết hữu thể
luận, 4) một số, nếu không nói là toàn bộ các yếu tố chính của vốn liếng hữu
thể luận (Thượng đế, tự nhiên – như là - một toàn thể, con người cá nhân, các
bản chất vật chất) được hiểu rõ ràng nhất trong các khuôn khổ liên kết quá
trình và 5) cái ngẫu nhiên, sự xuất hiện, tính chất mới lạ và tính sáng tạo là
những phạm trù cơ bản của việc tìm hiểu siêu hình. Đối với một nhà triết học
quá trình thì tính nhất thời, hoạt tính và biến tính – của sự hoán đổi, phấn đấu,
vượt qua và tân-hiện là những yếu tố quyết định cho sự hiểu biết của chúng ta
về hiện thực.
Cái
chết của nguyên tử luận cổ điển đã xảy ra bởi quá trình giải vật chất hoá vật
chất bằng sự xuất hiện của lý thuyết lượng tử đã trợ giúp rất nhiều và tạo thuận
lợi cho một siêu hình học định hướng quá trình. Vật chất ở kích cỡ nhỏ, như vật
lý hiện đại đã thể hiện, không phải là một hệ thống hành tinh Rutherford của
các vật thể dạng hạt, mà là một tập hợp các quá trình dao động được tổ chức
thành các cấu trúc bền vững, ở mức độ thực sự có một chút bền vững nào đó, bằng
những qui tắc thống kê - tức là bằng các qui tắc xử thế ở cấp độ các hiện tượng
tập hợp. Vì vậy vật lý thế kỷ 20 đã giành lại ưu thế cho nguyên tử luận cổ
điển. Thay cho các vật cực nhỏ, nguyên tử, kết hợp lại để tạo ra các quá
trình chuẩn như bão chẳng hạn, vật lý hiện đại đã hình dung các quá trình rất
nhỏ, hiện tượng lượng tử, kết hợp lại để tạo ra các vật chuẩn, các đối tượng vĩ
mô thông thường, như là kết quả của một modus operandi cách hành động
của chúng.
Đối
với nhà vật lý quá trình, nguyên tắc operari
sequitur esse vận hành những thứ sau đây là nhờ vào tồn tại, lại hoàn toàn
ngược lại: phương châm của ông ta là ngược lại esse sequitur operari tồn
tại là nhờ vận hành của những thứ sau đây. Vì ông ta cho rằng bằng một sự phân
tích rốt ráo thì tất cả đều là sản phẩm của các quá trình. Vì vậy quá trình
phải được ưu tiên so với sản phẩm – cả về phương diện bản thể luận lẫn tri thức
luận. Theo cách nhìn nhận của các nhà triết học đó thì quá trình là cơ sở và
những vật dẫn xuất vì nó đưa một quá trình tinh thần, trong tình trạng chia
cắt, để tách lấy “các vật” khỏi sự lộn xộn quá mức từ các quá trình vật chất
của thế giới. Đối với triết học quá trình, sự vật chỉ tồn tại trong hoạt động.
Và chừng nào bản thân hiện thực còn là một vĩ trình hàm chứa vô vàn vi trình
thì cái mới, sự đổi mới và sự xuất hiện của tiêu điểm mới vẫn là một đặc điểm
cố hữu của vũ trụ cảnh.
3.
Một viễn cảnh Tiến hoá
Đối
với triết học quá trình, tiến hoá là một quá trình mang tính tượng trưng và mô
hình. Một quá trình không chỉ là một sự tiến hoá để có được triết học và các
nhà triết học, mà nó còn thể hiện một mô hình rõ ràng rằng cái mới và sự đổi
mới có tính chất quá trình mãi vận hành trong một sơ đồ tự sinh và tự hằng của
vạn vật trong tự nhiên. Tiến hoá, dù là cơ thể sống hay là tư duy, dù là vật
chất hạ nguyên tử hay là các vũ trụ như một tổng thể, thì cũng đều phản ánh vai
trò phổ biến của quá trình mà các nhà triết học thuộc trường phái này vừa cho
là trung tâm đối với bản chất thế giới của chúng ta, vừa cho là thuộc vào các
khuôn khổ mà một quá trình có thể được nhận thức. Thay đổi là bản chất của tự
nhiên. Sự vận hành của thời gian không để lại các cá thể, cũng không để lại các
loại, các loài, sự vật tĩnh tại bất biến. Khi quá trình làm thế giới biến đổi
thì cũng là lúc nó trở thành lát cắt mở đường cho cái mới. Và tiến hoá ở mọi
cấp độ, vật lý, sinh học và vũ trụ đều chất chứa sự vận hành ở đây. Nhưng có
phải nó vận hành một cách mù quáng không?
Về
vấn đề tính mục đích của tự nhiên, các nhà triết học quá trình chia thành hai
phái chính. Một phái theo tự nhiên chủ nghĩa, và nói chung là thế tục chủ
nghĩa, coi tính quá trình của tự nhiên là một chất đẩy bên trong hoặc một nỗ
lực để một sự vật trở nên mới và khác biệt. Phái khác theo mục đích luận,
thường là thần học luận, coi tính quá trình của tự nhiên như là một chất định
hướng mục đích hướng tới một cái đích tích cực. Cả hai phái đều đồng ý chấp
thuận một vai trò trung tâm đối với cái mới và sự đổi mới trong tự nhiên. Nhưng
phái tự nhiên chủ nghĩa nhìn nhận vấn đề này trong khuôn khổ của tính ngẫu
nhiên do may rủi điều khiển đi trật khỏi các công thức cố định của một quá khứ
đã thành, trong khi phái mục đích luận lại nhìn nhận vấn đề trong khuôn khổ của
một tính mục đích hướng đích tiền định bởi một lực lượng định hướng kết nối giá
trị.
Triết
học quá trình do đó mà có một một quan hệ phức hợp hai phái với lý thuyết tiến
hoá. Đối với các nhà quá trình thế tục vô thần thì tiến hoá là điển hình của
những hành động sáng tạo của một tự nhiên tự tại không cần đến các mục vụ của
Chúa. Đối với các nhà quá trình thần học như Teilhard de Chardin thì tiến hoá
biểu dương tự dạng của Chúa trong cuốn sách tự nhiên. Nhưng tất cả các nhà quá
trình thuộc mọi trường phái đều coi tiến hoá không chỉ là một công cụ quyết
định cho việc tìm hiểu vai trò của trí tuệ trong sơ đồ vạn vật của thế giới mà
còn như một thuộc tính chủ chốt sự trong phát triển tự nhiên của thế giới. Và
khái quát hơn, quá trình tiến hoá đã cung cấp cho triết học quá trình một trong
những mô hình chủ yếu của nó vì các quá trình tập thể lớn đến mức nào, trong
trật tự phát triển hữu cơ nói chung, thì mới có thể thuộc về và có kết quả từ
sự vận hành của vô số quá trình riêng có qui mô nhỏ, trong trật tự của những đời
sống cá thể, vì vậy giải thích về đổi mới và tính sáng tạo cũng là lý giải về
một phạm vi ở cấp độ vĩ mô.
Nhưng
ở đây vẫn còn một tính chất phức hợp khác. Nơi nào mà trí tuệ nhân loại được
quan tâm thì không nghi ngờ gì nữa, tiến hoá sinh học là tiến hoá theo kiểu
Darwin với sự chọn lọc tự nhiên mù quáng mang tính mục đích luận vận hành liên
quan đến những đột biến ngẫu nhiên mù quáng mang tính mục đích luận. Tiến hoá
văn hoá, mặt khác nói chung là theo lối Teilhardien, thống trị bởi sự chọn lọc
được dẫn dắt bởi lý tính trong số các đột biến được sắp đặt có tính mục đích.
Cuối cùng, tiến hoá nhận thức liên quan đến cả hai bộ phận, khi đặt chọn lọc
duy lý trên chọn lọc sinh học. Khả năng và năng lực nhận thức của chúng ta là
một phần thiên bẩm mà chúng ta mang nợ tiến hoá sinh học. Nhưng các phương
pháp, tiêu chuẩn, thao tác, kỹ thuật nhận thức của chúng ta chính là những
nguồn lực được phát triển về phương diện văn hoá-xã hội tiến hoá thông qua chọn
lọc duy lý trong quá trình truyền văn hoá thông qua các thế hệ kế tiếp
nhau. Phần cứng nhận thức của chúng ta, các cơ chế và khả năng, phát triển qua
chọn lọc tự nhiên của Darwin, nhưng phần mềm nhận thức của chúng ta, các phương
pháp và các thao tác ta dùng để giải quyết công việc, lại phát triển theo nghĩa
quá trình chọn lọc lý tính Teilhardien gắn liền với sự chọn lọc và biến đổi
mang tính mục đích do trí tuệ dẫn dắt. Sinh học sản sinh ra công cụ, chẳng hạn,
còn văn hoá thì viết nên âm nhạc – trong đó rõ ràng là sinh học giới hạn một
cách mạnh mẽ văn hoá. Bạn không thể chơi trống bằng một chiếc piano.
Những
người Hy Lạp cổ đại đã phải vật lộn với câu hỏi: Có phải mọi thứ đều bất biến,
vĩnh hằng và thoát khỏi sự huỷ diệt hoàn toàn của thời gian. Phản đối ý tưởng
về các nguyên tử vật chất vĩnh hằng, Plato đã lựa chọn các vũ trụ bất biến vĩnh
hằng như “hình thức”, “ý niệm”, còn những người Khắc kỷ thì lựa chọn những qui
luật bất biến vĩnh hằng. Nhưng bức tranh thế giới của khoa học hiện đại dường
như lại chặn đứng các giải pháp đó. Vì vậy, như vật chất thể hiện, các loài,
các loại trong tự nhiên, cũng chỉ là những đứa con của thời gian, không hiện
diện bất biến mà vĩnh viễn biến đổi dưới sự che chở của các nguyên tắc tiến
hoá. Quá trình tiến hoá vũ trụ cũng đưa các qui luật tự nhiên vào quĩ đạo quá
trình, bằng cách cung cấp cho các qui luật này một chiều kích phát triển, rốt
cuộc là di truyền học đã ở đâu trong một phần triệu giây sau Vụ nổ lớn?. Đối
với triết học quá trình, không có cái gì là vĩnh hằng và thoát khỏi những biến
đổi được rèn đúc bởi thời gian và qui luật thép của nó là vạn vật đều bị phá
huỷ, vì vậy tất tử là phổ biến và bàn tay lạnh giá của thần chết với tới vạn
vật trong tự nhiên – mà các qui luật cũng là các vật.
Tuy
nhiên, triết học quá trình không coi chân lý ảm đạm này là kết cục của câu
truyện. Vì triết học quá trình mong muốn dùng thuyết tiến hoá để lôi quả mận
của tiến bộ tập thể ra khỏi chiếc bánh tất tử phổ quát. Trong những vật
nhỏ – vật này tiếp vật kia – các quá trình của tự nhiên tự tắt nghỉ: cái gì
xuất hiện trong dòng thời gian thì cũng sẽ bị huỷ diệt trong dòng thời gian.
Tuy nhiên tổng thể dòng biến đổi quá trình luôn nhắm tới sự phát triển một điều
kiện luôn luôn phong phú, phức tạp và tinh vi hơn cho vạn vật trên cái sân khấu
vĩ đại của thế giới. Vì vậy mãi mãi xuất hiện các quá trình, rồi lại các quá
trình mới: các quá trình tăng trưởng và suy tàn, các quá trình bành trướng và
co cụm, các quá trình sống và chết. Khi thừa nhận rằng điều đó là tất yếu,
triết học quá trình luôn luôn nhấn vào tính xác thực và chấp nhận một sắc thái
chắc chắn lạc quan. Vì vậy nó coi các vi trình của tự nhiên như là các cấu phần
của một vĩ trình tổng thể vận động đi lên chứ không phải đi xuống. Cú hích toa
tàu của nó lên đến tận ngôi sao của tiến hoá luận sáng tạo, triết học quá trình
coi tự nhiên là sự đổi mới sáng tạo hoàn thiện, là động lực sinh thành và một
sự phát triển đột xuất của những hình thái tồn tại tự nhiên phong phú, phức tạp
và tinh tế hơn.
Chắc
chắn rằng về mặt lý thuyết, có cả các quá trình sinh thành và huỷ diệt, quá
trình thoái hoá và suy tàn luôn luôn song hành với sự sinh trưởng và phát
triển. Tuy nhiên về phương diện lịch sử hầu hết các nhà triết học quá trình đều
có thái độ lạc quan và hình dung ra một mối quan hệ chặt chẽ giữa quá trình
và tiến bộ. Đối với họ, mối quan hệ này được xác định bởi chính cái vĩ
trình mà chúng ta gọi là tiến hoá. Trong mỗi cấp độ của lịch sử thế
giới – cấp độ vũ trụ, sinh học, xã hội, trí tuệ – các nhà triết học quá trình
đều hình dung ra một động năng phát triển trong đó cấp độ sau hoàn thiện hơn
cấp độ trước – vì một lý do nào đó chưa rõ lại cao hơn vì càng trở nên khu biệt
và tinh xảo hơn. Dưới ảnh hưởng của tiến hoá luận Darwin, hầu hết các nhà triết
học quá trình đều hình dung một dòng phát triển theo thời gian trong đó vì một
lý do nào đó, giá trị vẫn tạo sinh đến mức những sắp đặt tạo nên tính liên tục
trong việc tự tạo lập và vĩnh tồn bản thân như một khuynh hướng phổ quát, sẽ cố
gắng thực hiện như vậy bởi vì chúng là hiện thân của những quá trình cải thiện
thực sự theo cách khác. Một chiều hướng rõ ràng là lạc quan đã thịnh hành suốt
trong triết học quá trình.
Cuối
cùng, sự khu biệt chính là một quá trình tinh xảo hoá; cụ thể là sự phong phú
hoá. Một người chỉ thấy một con chim thì không thấy được nhiều như một người
thấy một con chim sẻ, và đến lượt mình cô ta sẽ không thấy được nhiều như một
người thấy một con chim sẻ Darwin. Hiện thực hoá và sự đề cao chi tiết không
chỉ đưa lại tính chất phức tạp hoá như vậy mà còn cả sự tinh xảo hoá nữa. Như
triết học quá trình đã nhìn nhận, tính chất quá trình của thế giới không chỉ
liên quan đến sự biến đổi mà còn cả sự cải thiện nữa – hiện thực hoá tiến hoá -
theo nghĩa rộng và về mặt tổng thể – mà về nó không chỉ khác biệt mà theo một
nghĩa nào đó lại còn tốt hơn. Tiếp theo, tính chất mới mẻ và tính chất sinh
thành vẫn bù đắp cho tính nhất thời và tất tử trong sơ đồ của triết học quá
trình về vạn vật.
4.
Một cách ứng dụng thực tế
Việc
viện đến quá trình là một phương cách hữu hiệu để xử lý vấn đề cổ điển về những
tính chất phổ biến. Chúng ta bị vây quanh mọi phía bởi những thứ dễ nhận thức
như là các quá trình chứ không phải là các sự vật bản chất – không chỉ là những
danh mục mang tính vật chất giống như từ trường hay một aurora borealis
bắc cực quang, mà còn là các tạo vật khái niệm giống như bảng chữ cái alphabet,
các từ và các câu vậy. Cái phổ biến nổi tiếng – mở màn một vở kịch hoặc một
dáng đỏ – giờ đây không còn là một loại khách thể bí hiểm nào đó nữa, mà đã trở
thành một đặc điểm riêng biệt của các quá trình tương tự như đọc, cảm thụ,
tưởng tượng. Những trí tuệ khác biệt có thể cảm thụ như thế nào về cùng một vũ
trụ giờ đây không còn bí mật hơn những người đi bộ có thể có chung một kiểu đi
khập khiễng như thế nào - đó là một vấn đề hành động đang tiếp diễn theo một
cách riêng biệt nào đó. Vì các quá trình thực chất mang tính cấu trúc, nên
những cái phổ biến giờ đây đã bị đẩy ra khỏi vương quốc Plato để trở thành các
đặc điểm chung của giống loài có những cách thức mà chúng ta thực hiện các hoạt
động nhận thức của mình một cách cụ thể.
Triết học tư duy là một điểm mạnh khác
của triết học hoá quá trình. Người ta cảm thấy thật bất tiện khi khái niệm hoá mọi
người, các cá nhân, là các vật, các bản chất – trước hết là chính
mình – vì chúng ta kháng cự lại sự đồng nhất hoá hết mức với cơ thể của chúng
ta. Tuy nhiên lại không có vấn đề gì với lối tiếp cận kinh nghiệm đối với các
quá trình và các mô hình quá trình đặc trưng hoá chúng ta về phương diện nhân
cách – hành động và trải nghiệm của chúng ta cũng như về phương diện cá nhân
hoặc được mô thức hoá thành tài năng, kỹ năng, các khả năng, các đặc điểm,
những sắp đặt, các lề thói, thiên hướng và khuynh hướng hành động và không hành
động là cái xác định một con người một cách đặc trưng như một cá nhân mà ông ta
hoặc bà ta là. Khi chúng ta khái niệm hoá cái hạt nhân “bản ngã” của một cá
nhân như là một bản sao thống nhất của một quá trình tiềm tàng và thực sự – của
hành động và khả năng, khuynh hướng, và sự sắp đặt để hành động, cả về phương
diện vật lý và tâm lý – vì vậy mà chúng ta có được một khái niệm nhân cách. Và
chính nhân cách lại diễn tả bản ngã hoặc ego có thể tiếp cận về phương diện
kinh nghiệm khi cho rằng trải nghiệm tự thân đơn giản bao gồm các quá trình như
vậy. Cái làm cho kinh nghiệm của tôi trở thành của tôi không phải là một tính
cách mang tính định tính kỳ cục nào đó chỉ thể hiện phần tạo lập của chính quá
trình toàn diện đang diễn ra, mà quá trình này xác định và tạo dựng nên đời
sống của tôi. Tính thống nhất cá nhân chính là sự thống nhất kinh nghiệm – sự
liên kết của toàn thể kinh nghiệm vi mô phong phú của một con người như là một
bộ phận của một vĩ trình thống nhất. Đó chính là một loại thống nhất của quá
trình nối liền mỗi cấp độ thời gian với một cuộc hành trình toàn thể duy nhất.
Trên cơ sở đó, người theo phái Hume than phiền – “Người ta trải nghiệm cảm giác
về điều này và làm điều kia, nhưng người ta lại không bao giờ trải nghiệm tự
thân” – là rất giống với lời phàn nàn của một người nói rằng “Tôi thấy ông ta
nhặt viên gạch đó lên, và trộn mẻ vữa đó, rồi lấy bay trát vữa gắn viên gạch
vào bức tường, nhưng tôi không hề thấy ông ta xây một bức tường”. Ngay cả việc
“xây dựng bức tường” chính xác là một quá trình phức hợp được tạo bởi những
hành động khác nhau, vì vậy – xuất phát từ quan điểm quá trình – bản ngã của
một người phải là một quá trình phức hợp được tạo bởi những kinh nghiệm và hành
động tâm lý và vật lý khác nhau trong mối liên hệ hệ thống của chúng.
5. Tính đa dạng và tính phức hợp
Giống
như bất cứ một khuynh hướng triết học nào – chủ nghĩa duy thực, chủ nghĩa duy
tâm, chủ nghĩa duy vật, …vv – triết học quá trình là một phức hợp cơ bản có
tính chất lăng kính và có những biến đổi nội tại. Sự khác biệt đang còn tranh
cãi bắt nguồn từ vấn đề loại quá trình nào được dùng làm thông số và mang tính
mô hình. Một số người có công trong lĩnh vực này, đặc biệt là A.N. Whitehead và
Henri Bergson, đã coi các quá trình hữu cơ là trung tâm và những loại quá trình
khác là được mô hình hoá dựa trên hoặc được ghép vào chúng – việc khái niệm hoá
một lĩnh vực vật lý tích hợp tổng thể là chủ chốt ngay cả đối với những phản
ánh hữu cơ/sinh học của Whitehead. Những người khác, đặc biệt là William James,
xây dựng ý niệm quá trình của họ dựa trên một mô hình tâm lý và coi tư tưởng
của con người là có tính chất mô hình mang tính duy tâm. Nói cách khác về mặt
phương pháp luận, một số người, chẳng hạn Whitehead, đã khớp nối triết học quá
trình vào khuôn khổ khoa học về bản chất, trong khi những người khác, đặc biệt
là Bergson, lại chủ yếu dựa vào trực giác và thực sự là một loại đồng cảm hầu
như thần bí. Và tất nhiên là còn có những nhà quá trình văn hoá như John Dewey.
Nhưng tuy nhiên những khác biệt như vậy có những tập hợp chủ đề và tiêu điểm
đồng họ vẫn để lại những lời giảng của một số nhà quá trình theo lập trường
biến đổi trên một cách tiếp cận chung. Vì vậy cuối cùng rõ ràng là sự thống
nhất của triết học quá trình không mang tính chất học thuyết mà có tính chất
chủ đề; đó không phải là một sự đồng thuận hoặc một chủ đề mà chỉ là một vấn đề
rườm rà về loại hình và cách tiếp cận.
Do
đó triết học quá trình như vậy là một cái gì đó chứ không phải là một loại
triết học sơ đồ hoá. Có những cách tiếp cận khác nhau để thực hiện ý tưởng nòng
cốt về tính phổ biến và tính nền tảng của quá trình, bao gồm từ chủ nghĩa duy
vật các quá trình vật lý, với trường hợp Boscovitch, đến một thứ chủ nghĩa duy
tâm tư biện về các quá trình tâm lý, như trong một số trường phái khác nhau của
triết học Ấn Độ. Có nhiều cách khác nhau để trở thành một nhà triết học quá
trình, được phân biệt một cách đầy kịch tính theo thực chất của những ý tưởng
của ai đó liên quan đến tất cả những gì gọi là quá trình. Trong viễn cảnh lịch
sử, triết học quá trình vì vậy mà đã vận hành một tiến trình nào đó quanh co
khúc khuỷu, có thể lần ngược trở lại các cội nguồn của triết học thời kỳ triết
học tiền Socrate.
Nhiều
nghiên cứu như vậy đã chỉ ra rằng cách tiếp cận quá trình khiến cho nhiều người
mang nợ nó. Tuy nhiên bản thân nó cũng mang nợ không ít. Cũng không phải là bất
công đối với điều kiện lịch sử khi nói rằng hiện nay triết học quá trình không
còn gì hơn tia sáng trong ánh mắt trí tuệ của các nhà triết học khác nhau. Sự
đủ lông đủ cánh của học thuyết quá trình không còn đơn giản tồn tại như là một
sự kiện đã hoàn thành. Sự phát triển của nó đến một điểm có thể sánh vai được
với các dự án triết học như chủ nghĩa duy vật hoặc chủ nghĩa duy tâm tuyệt đối
vẫn còn cần phải được chờ đợi.
Cách
tiếp cận quá trình là một sự phát triển đặc biệt quan trọng trong và đối với
triết học Mỹ - đặc biệt là nó ngày càng mang nợ chủ nghĩa thực dụng trong các
nhà tư tưởng như Peirce, James và Dewey. Trong những thập kỷ gần đây, đại đa số
các nhà lý giải chủ chốt của nó đã thực hiện các công trình triết học của họ
tại Hoa Kỳ. Vấn đề là việc quan tâm đến cách tiếp cận triết học đó một cách sâu
rộng nhất bằng cách xây dựng một tiểu lĩnh vực rộng rãi trong triết học Mỹ nói
chung. Giống như triết học Mỹ nói chung, triết học quá trình cũng là một cuộc
kiếm tìm đầy phức tạp và đa dạng, thật khó mà bao quát hết được, và cũng khó mà
nói được rằng có trường phái tư tưởng nào có thể thống trị được nó; đó là một
bản sao rất đa dạng bao gồm các khuynh hướng tư tưởng đại biểu cho rất nhiều
nguồn rộng lớn khác.
Chỉ
tiếc là các tác giả của những bộ sử và của các cuộc khảo sát không phải bao giờ
cũng thành công trong việc làm cho triết học quá trình được thừa nhận đó là món
nợ đối với nó. Chẳng hạn như cuộc khảo sát tuyệt hảo triết học Mỹ của một học
giả có năng lực người Pháp Gerard Deledalle đã hoàn toàn bỏ qua triết học quá
trình như vừa nói, mà chỉ lưu ý chiếu lệ đến Whitehead trong phần Phụ lục. Cung
cách như vậy có lẽ chưa đến mức kể cho chúng ta thấy một Hamlet không có Hồn
ma, nhưng chí ít thì cũng tương đương với việc bỏ mất Horatio.
6.
Phê phán của Strawson
Trong
một cuốn sách rất có ảnh hưởng của mình về siêu hình học mà học thuyết quá
trình trong tất cả các phiên bản của nó đều bị kết tội thất bại vì các khách
thể vật lý- và nhất là các vật thể vật chất - P.F.Strawson cho rằng - đều là
các tất yếu cho ý tưởng về các đặc thù có thể xác định theo cách thực sự không
thể bỏ qua đối với bất kỳ một lập trường siêu hình có thể đứng vững nào.
Strawson cho rằng sự đồng nhất của các đặc thù trong giao tiếp giữa người nói
và người nghe, “đồng nhất qui chiếu” theo cách gọi của ông, nhất thiết đòi hỏi
qui chiếu vào các sự vật có các thuộc tính vật chất, sao cho “chúng ta nhận
thấy rằng các vật thể vật chất đóng một vai trò nền tảng và duy nhất trong sự
đồng nhất cái đặc thù” (Ibid., p. 56). Vì ông cho rằng các quá trình sẽ
không trở thành cơ sở cho tính đồng nhất đặc thù, vì: “Nếu người ta phải cấp
cho các chiều kích không gian một quá trình như vậy, có nghĩa là, vì một cái
chết hoặc một trận đánh, người ta chỉ có thể có được nét phác của người chết
hoặc chỉ có thể chỉ rõ cái nền không gian mà trận đánh đã xảy ra” (Ibid., p.
57). Vì vậy Strawson cho rằng các vật thể vật chất là một tiền đề cần thiết
cho bất cứ một khung cảnh nào mà tri thức khách quan về các đặc thù có thể tồn
tại. Tóm lại, quan điểm chính của ông là: i) Đối với các đặc thù khách quan và
có thể đồng nhất hoá khả tri thì nhất định một số loại 1) có thể phân biệt khỏi
những đồng tồn tại khác, và 2) có thể tái đồng nhất trong thời gian; ii) Các
điều kiện này, tức là tính chất có thể phân biệt, và tính chất có thể tái đồng
nhất, chỉ có thể được thoả mãn bởi các khách thể vật chất, tức là các đặc thù
với các vật thể vật chất.
Nếu cung cách duy lý hoá này thực sự chính xác thì quá trình luận không thể đứng vững được trong siêu hình học. Vì rất rõ ràng là bất cứ một siêu hình học có thể đứng vững nào cũng đều phải có chỗ cho các đặc thù có thể đồng nhất, và nếu nó chỉ dựa vào chủ nghĩa bản chất khách thể – duy vật thì siêu hình học quá trình là một sự nghiệp đã chết.
Tuy
nhiên cách lập luận ấy vẫn có vấn đề. Để bắt đầu, Strawson lẽ ra nên thêm vào
một mục thứ ba, tức là 3) các cá thể nhất thiết không chỉ có thể phân biệt và
tái đồng nhất bởi một người nhận thức đặc thù, mà còn phải có thể phân biệt và
tái đồng nhất về phương diện liên cá nhân và liên chủ thể thông qua một cộng
đồng những người nhận thức. Nhưng ngay cả với tiền đề 1 có được củng cố theo
cách này, thì tiên đề 2 cũng không đứng vững được.
Strawson
cho rằng: “Chỉ có những khách thể có thể tạo nên [khung không-thời gian thiết
yếu cho giao tiếp liên cá nhân] mới là những khách thể cấp cho nó những đặc
trưng cơ bản riêng. Thế có nghĩa là chúng phải là những khách thể ba chiều tồn
tại trong thời gian…Chúng phải có chung đầy đủ tính đa dạng, tính phong phú,
tính bền vững và khả năng kéo dài trong thời gian để tạo ra khả năng khái niệm
hoá một khung [không-thời gian] duy nhất mà chúng ta có được [tr 39].
Nhà
triết học quá trình sẽ không phải tranh cãi với bất cứ cái gì ở đây. Tuy nhiên,
Strawson sau đó đã thẳng thắn đưa ra một kết luận mang tính vấn đề rất sâu sắc:
“Về các phạm trù khác thể mà chúng ta thừa nhận, chỉ những phạm trù nào thoả
mãn được những yêu cầu này là, hoặc có, các vật thể vật chất – theo nghĩa rộng
của sự thể hiện đó. Vì vậy bất cứ một đặc điểm tổng quát nào của sơ đồ khái
niệm [không-thời gian có liên quan] mà chúng ta có, và những đặc trưng nhất
định của các phạm trù chính yếu đã có, các vật là, hoặc có vật thể vật chất về
phương diện tri thức luận nhất thiết phải có các đặc thù cơ bản”.
Đối
với tác hại mang tính quyết định của nó, luận đề của Strawson đơn giản là khuất
lụy vấn đề này. Đối với toàn bộ các đặc điểm mà sự phân tích của ông đòi hỏi
như tính bền vững không-thời gian và độ dài, tính đa dạng, tính phong phú, tính
chất có thể diễn giải liên cá nhân và những thứ khác nữa, có được từng tý cũng
như bởi các quá trình vật lý ấy bằng các vật “là hoặc có những vật
thể vật chất”. Đó không phải là các chất có tính vật chất, các vật,
có thể được phân biệt và tái đồng nhất trong khung không-thời gian của tự
nhiên, mà còn cả các khung cảnh sự kiện, các quá trình. Các quá trình được hiện
thực hoá về phương diện vật lý không được biểu hiện theo nghĩa đen. Và cái đó
thì cũng không ít thuận tiện và có khả năng về chỉ số hiện hiện hơn thứ khác,
“con sư tử đó”; “cái ngáp đó”. Chỉ bằng một hành động tán đồng có tính vấn đề
sâu sắc là Strawson có thể – thậm chí ngay trong những giới hạn ngặt nghèo của
các phân tích của riêng ông - tạo thuận lợi và ưu tiên cho các vật thể vật chất
đối với các quá trình vật lý. Thậm chí sự kiên trì của Strawson cho rằng các
đặc thù cơ bản về phương diện tri thức luận nhất thiết có thể được đồng nhất
bằng sự hiển hiện duy trì từng tý một như vậy, chẳng hạn như quá trình vật lý
là giành cho những vật thể vật chất đặc biệt hạn chế. Thực ra thì như
chúng ta sẽ thấy, về phương diện lý thuyết, hoàn toàn có khả năng để tái khái
niệm hoá như là những phức hợp của các quá trình vật lý, trong khi ngược lại –
việc tái khái niệm hoá các quá trình vật lý như là những phức hợp các khách thể
vật chất – không phải đều đáng tin cậy, “Reism”, hoặc “Cụ thể luận” của Kotarbinski
và Cụ thể luận của Bretano cũng vậy.
Lập
luận của Strawson đã đã phô bày, từ một quan sát hoàn toàn phù hợp của Kant về
tính chất có thể tái đồng nhất khách quan khả phân biệt, đòi hỏi cái cơ cấu ma
trận không-thời gian cho sự sắp đặt của các cuộc chạm trán kinh nghiệm của
chúng ta với các khách thể trong một khung bao quát thống nhất của sự kết hợp
không-thời gian. Nhưng trong vấn đề này lập luận của ông đã bị lạc lối. Như
chính ông đã nhìn nhận, một khung không-thời gian yêu cầu – và chỉ có thể được
xác định trong khuôn khổ sắp xếp các mối quan hệ giữa các khách thể vật chất.
Nhưng thực ra thì lại có những hạng mục khác được thể hiện về phương diện vật
lý phân biệt với các vật thể vật chất có thể sử dụng chức năng này ngang bằng
nhau – tức là các quá trình. Đến chừng nào các quá trình có cả vị trí
lẫn độ dài - đến chừng nào giống như một ngọn lửa, thay vì một âm thanh; hoặc
một đám cưới, thay vì một cái gì đó mang tính đạo đức chẳng hạn như một vụ ly
hôn – có những hạng mục có một vị trí đủ rõ ràng và một quãng đời đủ dài để
được sử dụng làm những dấu mốc phối hợp. Nói tóm lại, các quá trình cũng có thể
được sử dụng để xác định và tạo dựng khuôn khổ không-thời gian được yêu cầu.
Lập
trường của Strawson hợp lý chỉ vì ông đã chấp nhận Luận đề Tính khả giản Quá
trình, kiên trì cho rằng toàn bộ các quá trình trong khuôn khổ của những hành
vi sự vật, các bản chất. Từ quan điểm này, toàn bộ các quá trình đều được sở
hữu và chúng ta cần nhìn nhận chúng từ một quan điểm đặc biệt mang tính sở hữu
cách: cái chết của Caesar, hoặc cuộc đại xung đột của các quân
đoàn Napoleon và Vua Nga Alexander I ở Borodino. Nhưng tính tương quan-khách
thể được chỉ định – của, của người đó, của hai quân đoàn đó, đã
duy trì một quan điểm quá chật hẹp về vật chất. Nó chỉ phản ánh loại đặc thù,
tức là được sở hữu, của các quá trình đang được bàn đến, nhưng lại không phải
là tính quá trình của chúng. Ở đâu các quá trình cơ bản được quan tâm nhiều hơn
thì tính tương quan khách thể có thể biến mất.
Vấn
đề là ở chỗ trong khi chúng ta chỉ có thể đồng nhất hoá nhiều quá trình cụ thể
khác nhau về phương diện sở hữu cách – chẳng hạn như “sự ra đời này” =
“sự ra đời của Julius Caesar” – bao gồm trong khuôn khổ của loại – quá trình
cộng với quyền sở hữu tương quan-bản chất, chúng ta có thể không dễ dàng gì với
nhị nguyên luận trong việc đồng nhất hoá chúng về phương diện vị trí trong
khuôn khổ loại quá trình cộng với sự định vị: “sự sinh ra đó” = “sự sinh ra
trong một không gian thời gian nào đó”. Và đương nhiên là những dấu hiệu qui
chiếu định hướng chúng ta trong các nhu câu không-thời gian không mang tính bản
chất, trung tâm thị trấn Greenwich, nhưng lại có thể mang tính quá trình, điểm
cực = vị trí mà kim compass quay xung quanh. Vì vậy luận chứng của Strawson là
không có mục đích. Đó không đơn giản là trường hợp mà các khách thể vật chất là
cơ sở không thể thiếu được cho một khung các đặc thù có thể nhận thức. Các quá
trình vật lý của một loại thích hợp có thể hoàn thiện nhiệm vụ thiết yếu này
một cách ngang bằng.
7.
Các quá trình và Tính bền vững
Như
các nhà hữu thể luận quá trình đã nhìn nhận, các sự vật tồn tại trong thời gian
không bao giờ có gì khác hơn các mô thức của tính bền vững trong một biển cả
quá trình. Giống như một mô thức sóng trong nước, chúng đơn giản là những đồng
hình chưa quyết định trong một vương quốc của đổi thay. Chính ý tưởng về một
quá trình liên quan đến các tính bất biến xuyên thời gian. Nước luôn bốc hơi.
Có nghĩa là sự bốc hơi của nước là một quá trình mang đặc điểm giống loài. Có rất
nhiều trường hợp xảy ra giống như sau một cơn giông tố ở Lima thế kỷ 16 và ở
Atlanta thế kỷ 20. Bất cứ quá trình đặc thù nào và mỗi quá trình đặc thù đều là
một sự minh hoạ bằng một ví dụ cụ thể về một mô thức tổng quát. Người ta không
thể chỉ đơn giản đồng nhất hoá một quá trình không thể trở thành một loại
quá trình và kết quả là nó – trong cấp độ trừu tượng hoá đó - không thể
tái diễn. Như vậy các chi tiết lịch sử được nhìn nhận trong một viễn cảnh tri
thức luận, thực sự có thể cố gắng để siêu vượt các môi trường không-thời gian
của chúng để cụ thể hoá các mô hình tổng quát. Mặc dù những biểu hiện của chúng
rõ ràng là cụ thể và có tính thời gian thì bản thân các quá trình đó vẫn có thể
là phi thời gian và mang đặc trưng chung.
Và
tất nhiên những trường hợp cụ thể khác nhau của một quá trình cũng có thể tạo
ra các sản phẩm thuộc cùng một loại. Các nhà máy khác nhau có thể và thường sản
xuất cùng một loại ô tô, còn những người đầu bếp khác nhau thì lại có thể và
cần phải nấu được một loại súp có chất lượng tốt ngang nhau. Và nói một cách
chặt chẽ thì là như vậy, khi sản phẩm lại là thông tin: các máy in khác nhau có
thể in một văn bản giống hệt nhau, những người được phỏng vấn khác nhau có thể
đưa ra cùng một câu trả lời cho cùng một vấn đề, những cái miệng khác nhau có
thể cùng nói ra một câu, những trí tuệ khác nhau có thể thưởng thức cùng một ý
tưởng. Vấn đề là ở chỗ trong lãnh địa của các sản phẩm mang tính trừu tượng của
thông tin có thể thoát khỏi những giới hạn của các nguồn gốc sản sinh của chúng,
lúc nào cũng được tương đối hoá. Sự tương đối hoá lịch sử của quá trình
sản xuất trong một khung cảnh văn hoá-lịch sử đặc thù – sự thật là tư duy hoặc
sự khẳng định về một chân lý được tương đối hoá như vậy – về bản ngã không có
gì hạn chế sản phẩm, chân lý ấy được suy nghĩ hoặc được khẳng định như vậy,
trong một khung cảnh văn hoá-lịch sử. Một khi được sản sinh ra, nói chung là
vốn có – và chừng nào vẫn là trừu tượng, sẽ có thể tiếp cận được theo cách liên
thời gian theo cách minh hoạ bằng các ví dụ và những biểu lộ ở các không gian
và thời gian khác nhau.
Một
số loại sự vật tồn tại bên ngoài không gian mà không phải là thời gian –
việc một người sở hữu một mẩu kim cương chẳng hạn, hoặc một người có
quyền lựa chọn để mua một khoảnh đất. Những loại sự vật khác không hề tồn tại
trong không gian cũng như trong thời gian – những con số, những sự kiện, và
những mối quan hệ khái quát hoá chẳng hạn. Tháp Eiffel được dựng lên ở Parris
vào thế kỷ thứ 19, nhưng sự kiện Julius Caesar đã không thực được điều này chính
là một cái gì đó không có chỗ trong không-thời gian. Còn thông tin thì cũng
giống như vậy. Những sự vật có sự hiện diện của thông tin có thể có tính chất
không-thời gian, khi sẽ là diễn ngôn hoặc một bài viết chuyển tải được thông
tin từ người này đến người khác. Nhưng bản thân thông tin lại hoàn toàn phi
không-thời gian. Nó chỉ đơn giản nằm trong bản chất của những loại sự vật nào
đó, mà thông tin thì được bao gồm không được đặt trong không gian và thời gian
– mà là “trừu tượng”.
Phải
thừa nhận rằng, khi chúng ta xem xét một cái gì đó thì chỉ có những cái nhìn mà
chúng ta có được mới là những cái nhìn từ đâu đó, và từ những quan điểm thuộc
về chúng ta chứ không thuộc về Chúa. Nhưng khi hành động nhìn nhận được thực
hiện bằng con mắt của trí tuệ, còn đối tượng của nó lại là lĩnh vực thông tin
chứ không phải là lĩnh vực của thực thể vật lý, thì cái nhìn chính là cái nhìn
về một cái gì đó phi lịch sử. Vì thông tin được hiểu theo nghĩa thông thường là
tồn tại bên ngoài lịch sử cho dù chúng ta dùng thông tin làm một giao dịch mang
tính lịch sử. Chúng ta phải tránh nhầm lẫn phạm trù của quá trình lộn xộn với
sản phẩm ở đây: nhầm lẫn về việc đúc kết thông tin mà chúng ta tiếp cận với
những hành động lịch sử và các sự kiện mà chúng ta tiếp cận. Tất nhiên chúng ta
không có cách gì để xâm nhập vào cái trừu tượng, niềm tin, trừ cái lịch sử -
hành động tin tưởng. Nhưng cái mà chúng ta đạt được - sản phẩm, là một cái gì
đó thuộc về một bản chất khác và vị thế khác với phương thức hiện thực hoá của
nó - quá trình. Khi chúng ta tự cam kết trong các quá trình tri thức đưa chúng
ta vào lĩnh vực thông tin mà chúng ta thúc ép mình từ lịch sử đi vào địa hạt
phi lịch sử. Cùng một ý tưởng, cùng quá trình-tư duy, cùng niềm tin, đều có thể
tiếp cận với những con người trong những thời gian và không gian khác nhau. Nếu
không phải như vậy thì sự giao tiếp sẽ hoàn toàn là không thể.
Tình
huống tổng thể trong các vấn đề trừu tượng là bộ ba, để sử dụng thuật ngữ mà
C.S. Peirce rất thích. Có i) những đồ vật linh tinh màu xanh cụ thể; ii) thuộc
tính trừu tượng đang được tranh luận, tức là thuộc tính hoặc đặc trưng là xanh;
và iii) khái niệm hoá hoặc ý tưởng dàn xếp về tính chất xanh là công cụ tính-tư
tưởng thông qua nó thuộc tính trừu tượng bắt đầu được qui vào những hạng mục cụ
thể thể hiện nó một cách giả định. Cuộc tranh luận siêu hình học thời trung cổ
giữa phái duy danh, phái duy niệm và phái theo học thuyết Plato cần phải được
giải quyết một cách liên tục: tất cả ba luận thuyết đó đều cần: một học thuyết
duy danh được yêu cầu cho những đặc thù cụ thể, một học thuyết duy niệm cần cho
các khái niệm ứng dụng đặc thù, và một học thuyết Platonism cần cho những sự
trừu tượng hoá, chẳng hạn như trong toán học sơ cấp. Tình huống đó không phải
là tình huống cũng/hoặc; chúng ta phải xác nhận toàn bộ các lập trường mang
tính học thuyết đó – mà mỗi lập trường đều có vị trí riêng của nó.
Nhưng
có thể xử lý như thế nào tư tưởng được thời gian hoá trong thông tin không có
thời gian? Nhưng tư tưởng phân đoạn đặc thù hoá đó có thể thực hiện những khái
quát hoá trừu tượng –phân đoạn như thế nào? Độ dài ngắn của nó lại chính là tư
tưởng hoạt động như thế nào. Việc cố gắng giải đáp vấn đề này cũng giống như
việc giải đáp về bất cứ sự kiện bạo tàn nào của thế giới. Và khi những thực thể
này được đưa vào sự tiến bộ thì vấn đề đó đã được vượt qua rồi. Người ta cũng
có thể hỏi “Có thể dùng món tiền đó như thế nào để mua được các đồ vật? Hoặc
những từ đó có thể được sử dụng để nói không?”. Không hề có vấn đề là chúng ta
có thể tự hỏi bao nhiêu về các hiện tượng mà chúng ta phải chấp nhận chúng như
một bộ phận của các thực thể thế giới.
Thực tế thì cũng có những vấn đề cơ bản nằm
trong nền tảng ở đây: sự trao đổi được tiêu chuẩn hoá có thể thực hiện như thế
nào hoặc giao tiếp bằng lời có thể thực hiện như thế nào. Nhưng một khi những
vấn đề nền tảng cơ bản như vậy được giải quyết thì vấn đề gốc gác lại bị hoà
tan theo nghĩa thông thường: một cái gì đó không phải là trung gian của sự trao
đổi thì sẽ không được gọi là tiền, và một cái gì đó có lẽ không đóng một
vai trò khái quát hoá trong giao tiếp bằng chữ viết hoặc bằng lời để được gọi
là một từ. Cho dù như vậy thì một cái gì đó sẽ không được gọi là tư
tưởng nếu nó không thể hoạt động một cách trừu tượng để chuyển tải thông tin
khái quát siêu vượt những sự cố phân đoạn đang được bàn đến.
8. Các vấn đề lượng tử
Như sự phản ứng của Whitehead cho thấy, sự
xuất hiện của lý thuyết lượng tử đã đặt tiền vào tài khoản ngân hàng của nhà
triết học quá trình. Quá trình khái niệm hoá cổ điển một nguyên tử đã được dự
báo dựa trên nguyên tắc là “căn cứ vào định nghĩa, các nguyên tử không thể bị
cắt nhỏ hoặc bị đập vỡ thành những phần tử nhỏ hơn”, vì vậy “việc chia tách
nguyên tử” nhìn từ quan điểm truyền thống là mâu thuẫn về mặt khái niệm.
Trong bối cảnh đó cái chết của nguyên tử luận cổ điển đã xảy ra bởi quá trình
giải vật chất hoá vấn đề vật lý trong sự thức giấc của thuyết lượng tử đã không
giúp được gì nhiều và không tạo thuận lợi cho một siêu hình học định hướng quá
trình. Vì học thuyết lượng tử dạy rằng ở cấp độ vi mô, cái thường được cho là
một sự vật vật lý, một đối tượng tồn tại trong thời gian thì không có gì
hơn là một mô thức thống kê - một làn sóng có tính bền vững trong một biển cả
trào dâng của quá trình. Những cái gọi là “sự vật” sống lâu đó đã xuất hiện
thông qua sự xuất hiện của những tính chất bền vững trong các giao động thất
thường của môn thống kê. Quan điểm lượng tử về thế giới vốn có tính chất xác
suất – thực tế thì nó cũng chứa đựng những rắc rối đối với các thuật ngữ có
tính xác định rõ rang, với “sự sụp đổ của vấn đề gói sóng”. Và điều đó cũng
thích hợp với các nhà quá trình khi nhìn nhận rằng triết học quá trình phản đối
một quyết định luận phổ biến về luật-cưỡng bức. Các nhà quá trình coi các qui
luật của tự nhiên là được ấn bừa vào từ bên dưới chứ không phải là từ bên trên
– như là những kẻ hầu hạ chứ không phải là ông chủ của các tồn tại của thế
giới.
Vì vậy vật lý học thế kỷ 20 đã giành lại ưu
thế so với nguyên tử luận cổ điển. Thay cho những vật rất nhỏ, các
nguyên tử, kết hợp lại để tạo ra các quá trình chuẩn, các cơn bão hoặc những
thứ như vậy, vật lý học hiện đại đã hình dung ra các quá trình rất nhỏ, các
hiện tượng lượng tử, kết hợp trong các cách thức hành động của chúng để
tạo ra các vật chuẩn, những đối tượng vĩ mô thông thường. Quan điểm lượng tử về
tính hiện thực vì vậy đã dẫn tới việc làm sáng tỏ nguyên tử luận mà ngay từ
xuất phát điểm đã là mô hình cho môn siêu hình học bản chất. Siêu hình học quá
trình hình dung một giới hạn đối với quyết định luận vốn vẫn giành chỗ cho tính
tự phát sáng tạo và tính mới trong thế giới, có hiện tượng đó là vì có những
đột biến ngẫu nhiên với các nhà quá trình theo chủ nghĩa tự nhiên hoặc sự đổi
mới có tính mục đích với những ai thiên về một lập trường mục đích luận thần
học.
Tuy
nhiên các nhà triết học quá trình có lý do để thích vật lý lượng tử hơn vật lý
tương đối. Vì tương đối tính coi thời gian không gian là một khối bao chứa toàn
bộ các sự kiện hiện thực một cách đồng thời khi bỏ qua sự khác biệt thời gian
sớm-muộn do các nguồn chủ quan của người quan sát cung cấp liên quan tới phương
thức sắp đặt của họ trong cái đại sơ đồ của sự vật. Thuyết tương đối hẹp với
thiên kiến về các mối quan hệ lượng thời gian bất biến thực sự đã triệt tiêu
thời gian với tư cách là một yếu tố trong thực tiễn vật lý và chuyển giao nó
cho trạng thái tranh tối tranh sáng của một hiện tượng chủ quan. Điều đó được
sử dụng để lý giải tại sao Whitehead tìm cách để tạo ra một cơ sở lý thuyết mới
cho lý thuyết tương đối và tái cấu trúc không-thời gian, cũng như là việc khái
niệm hoá các đối tượng vật lý khác như là một cấu trúc được tạo ra từ “những
mảnh kinh nghiệm cá nhân”. Các quá trình không phải là những mưu toan của những
sự vật bền vững; các sự vật là những mô thức bền vững của các quá trình luôn
thay đổi. Toàn bộ những viễn cảnh như vậy của vật lý học hiện đại ở cấp độ cơ
sở đã hoàn toàn ăn khớp với cách tiếp cận quá trình.
9. Thần học quá trình
Chúa
của thần học Thiên chúa giáo kinh viện, giống như Thượng đế của Aristotle mà
chính quan niệm này đã phần nào có cơ sở từ mô hình của Aristotle, là một cá
nhân phi vật chất, được đặt bên ngoài thời gian – hoàn toàn ngoại tại đối với
lĩnh vực của biến đổi và quá trình. Ngược lại các nhà thần học quá trình tuy
nhiên vẫn không đồng ý về các vật chất khác, đã thực hiện một bước đi quyết
định, nhưng chắc chắn không hề là dị giáo, chấp nhận Chúa cũng đóng một vai trò
năng động trong khung không-thời gian của thế giới trần tục. Họ đã hình dung ra
một chỗ đứng cho Chúa trong toàn bộ trật tự quá trình của thực tại mà thực tại
đó lại được giả định là sự sáng tạo của Chúa. Sau rốt, sự tham gia tích cực vào
nhu cầu giao tiếp quá trình của thế giới đã không nhất thiết làm cho Chúa phải
trở thành một khách thể vật chất hoặc vật lý. Trong khi thế giới thực sự chứa
đựng nhiều quá trình vật lý như sự tiến hoá của dải ngân hà, nó cũng chứa đựng
những quá trình phi vật chất chẳng hạn như sự truyền bá tri thức hoặc sự xuất
hiện của trật tự.
Vậy thì đối với thần học quá trình Chúa đã
không tạo dựng việc kiến tạo các quá trình vật lý của thế giới, tuy nhiên bằng
cách nào đó hoặc kẻ khác đã tham dự vào đó. Rõ ràng là không có sẵn một
mô hình tương tự cho phương thức tham gia này, khán giả, nhân chứng, trọng tài,
vv, có thể bắt đầu thực hiện sự công bằng đầy đủ cho tình huống đó. Nhưng dưới
góc độ của thần học quá trình thì trước hết và sau rốt những vấn đề nào là sự
kiện mà Chúa và thế giới của ông ta được liên kết về phương diện quá trình
– vấn đề về thái độ như thế nào là một cái gì đó thứ sinh có thể được để
ngỏ cho sự phản ánh tiếp theo. Hiểu như vậy, Chúa không chính xác là của
thế giới hiện thực vật lý, nhưng lại thực sự can dự vào đó về phương
diện quá trình – bất cứ chỗ nào việc chạm vào, ảnh hưởng, và thông tin về các
hoạt động của nó. Vì vậy trong khi không được đặt vào thế giới, Chúa của các
nhà quá trình luận vẫn gắn bó với nó trong một quá trình kinh nghiệm của sự can
thiệp với nó. Nói chung các nhà thần học quá trình không hề tin tưởng rằng Chúa
thực sự kiểm soát thế giới. Vị Chúa quá trình gây ảnh hưởng một cách thuyết
phục bằng các tác động nh]g không bao giờ đơn phương ép buộc quá trình của thế
giới.
Vì vậy thần học quá trình mời chúng ta tư duy
về mối quan hệ của Chúa với thế giới trong khuôn khổ của một quá trình gây ảnh
hưởng giống như “sự bành trướng của việc học tiếng Hy Lạp trong thế giới Hồi
giáo Trung cổ”. Việc học tiếng Hy Lạp đã không thực sự là nội tại đối
với thế giới Hồi giáo, nhưng lại gây một ảnh hưởng cơ bản và mạnh mẽ lên và
trong thế giới đó. Tương tự như vậy, Chúa không là của thế giới này nhưng lại
tác động và mở rộng ảnh hưởng phổ biến lên và trong thế giới này. Sau hết, các
quá trình không phải tự thân chúng cần phải có tính không gian để có một ảnh
hưởng lên sự vật trong không gian, chẳng hạn trường hợp lạm phát giá cả đối với
nền kinh tế một quốc gia. Ý niệm quá trình đưa lại một phạm trù cho việc nhận
thức mối liên hệ của Chúa với thế giới đã chặn đứng được nhiều khó khăn và rắc
rối của mô hình bản chất truyền thống.
Ngay
cả khi đứng tách ra khỏi triết học quá trình thì những nhà thần học có ảnh
hưởng khác nhau trong những năm gần đây cũng đã thúc đẩy nhu cầu và khát vọng
nhìn Chúa không thông qua lăng kính của sự tĩnh tại bất biến, mà với tính động,
biến đổi, phát triển và quá trình. Nhưng các nhà lý thuyết quá trình trong số
các nhà thần học quá trình lại muốn đi quá điều đó. Đối với họ, Chúa không chỉ
liên quan đến các quá trình của thế giới trong một phương cách sản sinh, mà bản
thân ông ta, trong khuôn khổ quá trình, cũng như tính chất quá trình phổ quát,
cần phải được coi là khía cạnh nổi bật nhất của tự nhiên thần thánh.
Chắc
chắn rằng các nhà thần học quá trình trở nên khác nhau khi nhấn mạnh vào
những vấn đề khác nhau. Whitehead nhìn Chúa trong khuôn khổ vũ trụ luận như là
một “duyên cớ thực sự” vận hành trong tự nhiên, phản ánh sự thôi thúc vĩnh hằng
của khát vọng đó hành động mãnh liệt và tĩnh lặng bằng tình yêu thương” để dẫn
dắt dòng sự vật trong thế giới này vào “sự tiến bộ sáng tạo tiến tới cái mới”.
Đối với Hartshone, ngược lại, Chúa vẻ như không phải là một lực năng động trong
mối liên hệ quá trình của thế giới mà là một tồn tại trí tuệ hoặc là chính là
trí tuệ tương tác với nó. Chúa của ông vẻ như không phải là một loại lực nào
đó, mà là một tồn tại nhân vị tương tác với các tác nhân trí tuệ khác thông qua
sự tiếp xúc nhân vị và tình yêu. Hartshone cũng không muốn tách Chúa ra khỏi
cái thế giới này một cách quá rành rẽ và cũng không muốn ông ta tồn tại ở mọi
nơi trong tự nhiên theo thuyết phiếm thần luận. Ông coi Chúa là một tồn tại trí
tuệ tách biệt khỏi thế giới, nhưng lại can dự một cách kinh nghiệm luận
vào vạn vật xuất hiện trong tự nhiên và cộng hưởng với nó theo cách can dự kinh
nghiệm luận.
Những
cách tiếp cận khác nhau ấy tuy nhiên lại chỉ có tầm quan trọng thứ sinh. Sự
kiện quyết định chính là mưu mẹo của việc nhận thức Chúa trong khuôn khổ của
một quá trình đang vận động trong và vượt ra khỏi thế giới tạo ra khả năng vượt
qua chủ thể toàn bộ của những khó khăn của bộ hộp số bản chất trong một cú tăng
tốc. Vì giờ đây vấn đề đã trở nên quá dễ để tìm hiểu Chúa có thể hoạt động thế
nào và Chúa hoạt động thế nào. Chắc chắn rằng quan điểm quá trình về Chúa liên
quan đến một nguồn cung cấp cho các quá trình thuộc loại đặc biệt. Nhưng các
quá trình bình thường, hoặc thậm chí siêu tự nhiên, đã gặp nhiều khó hăn hơn so
với các bản chất bình thường, hãy để cho siêu tự nhiên được đứng một mình, bằng
cách cho rằng quá trình là một nhận thức vốn linh hoạt hơn. Cuối cùng nhiều
loại quá trình thống nhất theo cách riêng của chúng – hoặc ở bất cứ cấp độ nào
cũng đều khác biệt hẳn với tất cả những loại khác. Rõ ràng là các quá trình
giống như sự sáng tạo của một thế giới hoặc sự mở đầu của trật tự hợp pháp của
nó bởi chính ranh giới tự nhiên là bất thường nhưng bất cứ loại quá trình đặc
thù nào cũng được coi là rất giống như vậy. Hơn nữa thông qua nguồn cung cấp
của nó cho ý tưởng về một vĩ trình bao gồm rất nhiều phụ quá trình, thì thần
học quá trình có thể đưa ra được một cơ sở hợp lý cho việc tái hoà giải ý tưởng
về một phương thức toàn phổ và thời gian vạn năng của thực tiễn mà với nó chính
là phương thức về một bản sao của các cấu phần thời gian hoá một cách hạn chế.
Quan
điểm quá trình về tự nhiên như là một tổng thể không-thời gian tạo nên một quá
trình vũ trụ toàn phổ để lộ ra dưới sự che chở trực tiếp của một trí tuệ nhân
từ theo nhiều cách, hài hoà với quan điểm Dòng tên về sự vật. Vì truyền thống
này luôn luôn coi Chúa là năng động trong quá trình lịch sử, mà quá trình ấy
không chỉ đại diện cho một trật tự nguyên nhân mà còn cho một trật tự kết quả
nữa. Cuối cùng loại Chúa duy nhất có thể có nghĩa và có ý nghĩa đối với chúng
ta chính là Chúa tồn tại trong mối quan hệ năng động với chính chúng ta và thế
giới của chúng ta. Hãy suy ngẫm về cú ngữ Kinh tin kính Nicene: “Người làm ra
vạn vật …Người cho chúng ta những người con và cho chúng ta sự cứu rỗi linh
hồn…”. Nhưng đương nhiên một “mối quan hệ năng động” như vậy là một vấn đề của
các quá trình tạo nên sự can dự và mở ra một cánh cửa linh thánh đi vào cái sơ
đồ vạn vật của thế giới – và ngược lại.
Và đương nhiên là không chỉ vì nó khả thi và
mang tính xây dựng cho mối quan hệ của Chúa với thế giới và các tạo vật của nó
được tri nhận trong khuôn khổ của các quá trình, mà nó cũng được tri nhận như
vậy bằng mối quan hệ của mọi người với Chúa. Ở đây thần học quá trình cũng nhìn
nhận một mối quan hệ như một mối quan hệ quá trình vì nó căn cứ vào sự cảm
thông tương tác được thiết lập trong trầm tưởng, thờ cúng và nguyện cầu …vv.
Đặc biệt đối với các nhà quá trình có đôi chút khó khăn trong việc tri nhận
Chúa là một nhân vị. Vì một khi chúng ta lý giải về nhân cách nói chung
trong khuôn khổ quá trình như một phức hợp hệ thống các hành vi đặc trưng thì
nó không còn là một cái gì đó xa lạ để cũng nhìn nhận Chúa trong khuôn khổ đó.
Nếu chúng ta quá trình hoá cá nhân con người thì chúng ta có thể đã sẵn sàng
tri nhận về cái nhân vật linh thánh như một nguồn tiêu điểm của một trí tuệ
sáng tạo đã sinh ra và duy trì cái thế giới này và ban cho nó qui luật, cái
đẹp, hài hoà và trật tự, giá trị và ý nghĩa. Cũng còn có vấn đề Chúa Ba ngôi
với bí tích về sự ráp nối ba nhân vật vào một tồn tại hoặc bản chất, vẫn luôn
luôn là một sự lầm lỡ đối với bản chất chủ nghĩa của các Cha cố Công giáo. Một
cách tiếp cận quá trình tạo ra khả năng bỏ qua tính chất rắc rối đó. Vì các quá
trình có thể tương tác và thâm nhập vào nhau. Bằng việc xếp đặt một nhành cây,
một người tiều phu có thể đang xây một bức tường, dựng một căn nhà, và mở rộng
một ngôi làng. Một hành động, nhiều quá trình; một phương thức hành động nhiều
loại trung gian.
Vậy
là đối với thần học quá trình thì Chúa hành động trong mối liên hệ với thế
giới, và con người trần tục có thể và cần phải hành động trong mối liên hệ với
Chúa. Mối liên hệ của con người với thần thánh là một con đường hai chiều, tạo
ra sự chăn dắt của một Chúa lòng lành cho các tạo vật của thế gian và cho phép
những tạo vật trí tuệ đó khả năng hiện thực hoá điều đó để tạo ra sự tiếp xúc
với Chúa thông qua lễ bái, phụng thờ, và giao tiếp tinh thần. Vì vậy thần học
quá trình đã trầm tưởng về một vương quốc rộng hơn của các quá trình bao chứa
cả các vương quốc tự nhiên và tinh thần và tương liên Chúa với một cộng đồng
rộng lớn những người sùng kính trong một vương quốc cộng đồng của vĩ trình bao
dung hết thảy cái tổng toàn đó. Để đảm bảo, các nhà thần học quá trình thường
coi thần thánh là một quyền năng trong số các quyền năng và nhìn nhận vai trò
của Chúa trong mối liên hệ với thế giới hơn là phổ biến, gián tiếp và giới hạn.
Nhưng như vậy có lẽ đã là nhiều vì một viễn cảnh mới đã để lộ ra đối với những
gì thuộc về sự định hướng phi chính thống và tự do về phương diện thần học hơn
là với những nhu cầu cố hữu của một các đánh giá quá trình. Về mặt lý thuyết,
một thần học quá trình có thể có một hình thức bảo thủ hơn về phương diện thần
học so với thực tế.
10. Một câu hỏi về tính chính thống
Ngay
từ thời hoài nghi chủ nghĩa cổ đại Pyrro người ta đã dạy đi dạy lại chúng ta về
lịch sử triết học rằng việc hệ thống hoá tư biện là không thích hợp – rằng tri
thức như con người chúng ta có thể thu lượm được luôn bị hạn chế vào vương quốc
của đời thường và/hoặc điềm báo của nó thông qua khoa học. Được lặp lại trong
mỗi kỷ nguyên, sự chỉ trích này cũng bị nhiều người phản đối trong mỗi thời.
Động lực để tìm hiểu bức đại họa này, động lực cho một cái nhìn toàn cảnh mạch
lạc về vạn vật gắn vô số mảnh miếng rời rạc lại với nhau, thể hiện một nhu cầu
không thể kìm nén được về tri thức nhân loại như là một tài sản của “con vật lý
trí”. Một siêu hình học quá trình đưa đến hàng loạt chọn lựa hứa hẹn nhất để
thoả mãn nhu cầu này.
11. Thể chế hoá
Tư
tưởng quá trình tạo ra một, dù chỉ một lĩnh vực nổi bật của nền cảnh triết học
hành động Mỹ hiện nay. Ngoại trừ sự ra đời ồ ạt của những cuốn sách và bài báo
về đề tài đó, nó đã đạt được thể chế hoá đáng kể trong những năm sau Thế chiến
II. Những chỉ số của hiện tượng này bao gồm sự ra đời Hội Nghiên cứu Quá trình
cũng như tiếng tăm của triết học hoá quá trình trong sự bảo hộ của Hội Triết
học Mỹ và Hội Siêu hình học Mỹ. Một dấu hiệu rõ ràng khác là tạp chí Nghiên cứu
Quá trình do Trung tâm Nghiên cứu Quá trình ở Claremont CA xuất bản và được
Lewis S. Ford và John B. Cobb, Jr. thành lập vào năm 1971. Trong những
năm gần đây, xuất bản phẩm này đã trở thành một đầu tàu chính chuyển tải các
cuộc thảo luận dài hơi về lĩnh vực quá trình. Các đại diện của triết học quá
trình đã chiếm được những vị trí đầy ảnh hưởng trong các khoa triết và nghiên
cứu tôn giáo trong nhiều trường đại học và cao đẳng Mỹ và hàng loạt luận văn
tiến sỹ vẫn được bảo vệ hàng năm. Trong bước ngoặt lịch sử, triết học Mỹ là một
sự tích tụ những kỹ nghệ thủ công, và triết học quá trình đã nổi bật lên trong
số đó.
___________________________________________
Nguồn: Rescher, Nicholas, "Process
Philosophy", The Stanford
Encyclopedia of Philosophy (Winter 2009 Edition), Edward N. Zalta (ed.),
URL.
Tác
giả: Tiến sĩ Nicholas
Rescher, Giáo sư Danh dự Đại học Pittsburgh, sinh ở Hagen, Cộng hòa Liên bang
Đức năm 1928, cùng gia đình chuyển đến nước Mỹ sống từ năm 1938. Ông là một
Tiến sĩ Triết học trẻ nhất trong lịch sử Đại học Princeton ở tuổi 22, sau đó
trở thành chủ nhiệm khoa Triết học, và giám đốc Trung tâm Triết học Khoa học
của Đại học Pittsburgh. Ông cũng đã từng nhiều năm là Chủ tịch Hội Triết học
Mỹ; Tổng thư ký Liên đoàn Quốc tế về Lịch sử và Triết học Khoa học.
References
Browning,
Douglas 1985. Philosophers of Process (New York: Random House).
Cobb,
John B.1985. A Christian Natural Theology (Philadelphia: Westminster
Press).
Cobb,
John B. and David R. Griffin 1976. Process Theology: An Introductory
Exposition (Philadelphia, Westminster Press).
Cobb,
John B. and David R. Griffin 1982. Process Theology as Political Ecology
(Philadelphia, Westminster Press).
Gray,
James R.1982. Modern Process Thought (Lanham, MD.: University of
America).
Hartshorne,
Charles, "Contingency and the New Era in Metaphysic," Journal of
Philosophy, vol. 29 91932), pp. 421-431 and 457-469.
Hartshorne,
Charles 1970. Creative Synthesis and philosophic Method (La Salle, IL.:
Open Court).
Hartshorne,
Charles 1971. "The Development of Process Philosophy," in Process
Theology, ed. Ewert H. Cousins (New York, Newman Press).
Hartshorne,
Charles 1948. The Divine Relativity: A Social Conception of God (New
Haven: Yale University Press).
Hartshorne,
Charles 1967. A Natural Theology for Our Time (La Salle, IL.: Open
Court).
Hartshorne,
Charles 1972. Whitehead's Philosophy: Selected Essays, 1935-1970
(Lincoln, NB.: University of Nebraska Press).
Lucas,
George R. Jr.1979. Two View of Freedom in Process Thought: A Study of Hegel
and Whitehead (Missoula, MN: Scholar's Press).
Lucas,
George R. Jr. 1983. The Genesis of Modern Process Thought (Metuchen,
NJ.: Scarecrow Press).
Lucas,
George R. Jr. 1986. Hegel and Whitehead: Contemporary Perspectives on
Systematic Philosophy (Albany: SUNY Press).
Lucas,
George R. Jr. 1989. The Rehabilitation of Whitehead: An Analytical and
Historical Arsenal of Process Philosophy (Albany, NY.: SUNY Press).
Palter,
Robert M.,1979. Whitehead's Organic Philosophy of Science (Albany, NY.:
SUNY Press).
Rescher,
Nicholas 1996. Process Metaphysics: An Introduction to Process Philosophy
(New York: SUNY Press, 1996).
Rescher,
Nicholas 2000. Process Philosophy: A Survey of Basic issues (Pittsburgh,
Pa.: University of Pittsburgh Press).
Seibt,
Johanna 1990. Properties as Processes: A Synoptic Study of W. Sellars'
Nominalism (Reseda, CA.: Ridgeview).
Strawson,
P. F. 1959. Individuals (London: Methuen).
Whitehead,
A. N., 1920. The Concept of Nature (Cambridge: Cambridge University
Press).
Whitehead,
A. N., 1922. The Principle or Relativity (Cambridge: Cambridge
University Press).
Whitehead,
A. N., 1925. Science and the Modern World (New York: Macmillan, 1925).
Whitehead,
A. N., 1926. Religion in the Making (New York: Macmillan, 1926).
Whitehead,
A. N.,1929. Process and Reality: An Essay in Cosmology (New York:
Macmillan, 1929). Critical edition by D. R. Griffin and D. W. Sherbourne (New
York: Macmillan).
Whitehead,
A. N.,1929. The Function of Reason (Boston: Beacon Press).
Whitehead,
A. N., 1933. Adventures of Ideas (New York: Macmillan).
Whitehead,
A. N., 1934. Nature and Life (Cambridge: Cambridge University Press).
Whitehead,
A. N., 1938. Modes of Thought (New York: Macmillan).
Whitehead,
A. N., 1948. Essays in Science and Philosophy (New York: Philosophical
Library).
Whitehead,
A. N., 1959. Symbolism: Its Meaning and Effect (New York: Macmillan;
reprinted New York: G. P. Putnam's Sons.).
Whitehead,
A. N., 1982. An Enquiry Concerning the Principles of Natural Knowledge
(Cambridge: Cambridge University Press, 1919; reprinted New York: Kraus
Reprints).
Whittemore,
Robert C., (ed.) 1974. Studies in Process Philosophy (New Orleans:
Tulane University Press).
Whittemore,
Robert C., 1975. Studies in Process Philosophy, III (New Orleans: Tulane
University Press).
Whittemore,
Robert C., 1976. Studies in Process Philosophy, II (New Orleans: Tulane
University Press).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét