Đọc quá khứ – những
cách tiếp cận
lý giải Khảo cổ học
hiện nay (XVII)
Ian Hodder
Người dịch: Hà Hữu Nga
9. Kết luận: Khảo cổ học là Khảo cổ học
Thuật ngữ Hậu quá trình cố thử nắm bắt một
nét mới cho cuộc tranh luận trong KCH – một sự mở rộng để bao gồm những chiều
kích mới với 4 chủ đề đã được thảo luận ở chương 8, bằng cách kết hợp một loạt
ảnh hưởng bao gồm Chủ nghĩa Marxism, Cấu trúc luận, Chủ nghĩa duy tâm, Những
phê phán nữ quyền và Khảo cổ học công chúng. Đồng thời còn nhắm tới mục đích
xác lập một bộ môn KCH có thể đóng góp một tiếng nói độc lập cho cả các cuộc
tranh luận của giới trí thức lẫn công chúng. Cách tiếp cận Ngữ cảnh được thảo
luận ở chương 7 là một cách thực hiện cái mà cá nhân tôi thấy hấp dẫn, đưa lại
cho tôi những quan điểm riêng về xã hội mà tôi sống và về cái phải xảy ra đối
với nó và đưa lại cho tôi ý kiến về sự phát triển của KCH trong vòng 20 năm
qua.
Trong sự đóng góp và can dự vào cuộc tranh
luận liên bộ môn rộng rãi hơn, các nhà KCH đã đọc được những loại ý nghĩa khác
nhau từ tập dữ liệu của họ. Bằng các thuật ngữ của Patrick (1985) tôi đã biện
hộ cho hai loại ý nghĩa ngữ cảnh. Một là ý nghĩa về các đối tượng là vật chất
liên quan đến những trao đổi vật chất, năng lượng hoặc thông tin; đối tượng cần
quan tâm ở đây là một nguồn tài nguyên vận hành theo sự sản xuất của nó, để tạo
ra những nhu cầu tổ chức. Loại thứ hai là ý nghĩa của các đối tượng liên quan
tới nội dung cấu trúc của các truyền thống lịch sử. Trong khi thừa nhận cả hai
quan điểm (đối tượng là hiện vật, và đối tượng được tạo nghĩa) cần thiết cho
KCH, tôi không tán thành chính sách “sống và để cho sống” trong đó cả hai cách
tiếp cận đều có thể tồn tại một cách tách biệt bên cạnh nhau. Chỉ có chút ít có thể thực hiện bằng cách tập trung vào đối
tượng như là một hiện vật vật chất. Có lẽ khoảng cách từ nguồn của vật được
trao đổi, khối lượng thịt so với xương, hiệu quả của các công cụ trong
việc cắt da thú...vv, có thể được đánh giá mà không cần qui chiếu vào các ngữ
nghĩa mang tính lịch sử; nhưng tôi cũng đã chứng minh bằng rất nhiều ví dụ rằng
hầu hết những trình bày về quá khứ đều liên quan đến việc đưa ra những định đề
về những ý nghĩa như vậy – phải chăng người ta đang nói về việc trao đổi uy
tín, sự hoạt động kinh tế hoặc qui mô dân số của một nơi cư trú. Ngay cả những
từ như “bức tường”, “cái hố” hoặc “nơi cư trú” cũng hàm nghĩa mục đích. Chúng
ta không thể luôn luôn coi “phụ nữ”, và “nông nghiệp” có nghĩa là cùng một sự
vật trong những ngữ cảnh khác nhau. Các nhà KCH luôn luôn hoạt động bằng tư duy
của chính bản thân họ đối với những ngữ cảnh văn hoá quá khứ – mặt khác người
ta không thể đi quá xa. Hai cách tiếp cận không thể tách rời nhau vì mỗi cách
đều cần thiết cho cách kia và thường liên quan đến cách kia. Mối quan tâm của
tập sách là biện hộ cho tính cần thiết của mối quan hệ này, và chúng ta nên rõ
ràng hơn, khắt khe hơn trong việc phục dựng lại ý nghĩa lịch sử, và chúng ta
nên thảo luận về những vấn đề lý thuyết và phương pháp luận nảy sinh.
Tuy nhiên việc phản ứng lại những cuộc thảo
luận như vậy vẫn luôn luôn tồn tại trong KCH. Hiện nay nhiều bài viết của
Binford vẫn tập trung vào chủ đề này. Trong một lý giải về các hoạt động chế
biến nhựa ở người thổ dân Australia Ayawara, Binford (1984) đã lưu ý đến những
khác biệt giữa các nhóm thổ dân. Ông hỏi xem liệu những khác biệt này có mang
tính thực dụng và tình thế hay có tính chất văn hoá, vì vậy mà tiếp tục cách
chia tách cũ giữa quá trình và chuẩn mực, và xây dựng bộ khung vấn đề dựa trên
định đề là có tồn tại một tình trạng chia tách như vậy. Binford cho rằng sự
khác nhau trong quá trình xử lý nhựa cây phải chăng phụ thuộc vào công việc
được tiến hành bởi những nhóm giới tính hỗn hợp khi sử dụng những công đoạn phụ
nữ - trợ giúp, hoặc phải chăng nó được thực hiện bởi những nhóm toàn đàn ông
cách xa nơi ở. Ông kết luận rằng việc xử lý nhựa là mang tính tình huống chứ
không phải được quyết định về phương diện văn hoá.
Rõ ràng việc xử lý nhựa có thể khác nhau tuỳ
thuộc vào việc phụ nữ có mặt ở đó hay không, và phụ thuộc vào nơi tiến hành
công việc. Nhưng việc miêu tả sự biến đổi và đồng biến đổi này là để tiến hành
một phân tích đầy đủ về cả hai cách đặt vấn đề của Binford đều không
đúng – sự thích nghi mang tính tình huống và văn hoá. Tôi đã cho rằng việc ra
quyết định tình huống là phần trung tâm của ngữ cảnh; nhưng để xem xét tính
thay đổi tình huống chúng ta cần xem xét ngữ cảnh xã hội hoạt động của các
chiến lược của đàn ông và đàn bà trong mối liên hệ với nhau. Cái mà những người
đàn ông và những người đàn bà cố thử làm bằng cách từ chối thực hiện nhiệm vụ
này trong khu cư trú này, nhưng lại không như thế ở nơi cư trú khác, vân vân?
Binford không đưa ra câu trả lời cho các vấn đề như vậy. Để xem xét vai trò của
văn hoá chúng ta cần xem xét thái độ của người thổ dân đối với các loại công cụ
được sử dụng trong việc chế biến nhựa, xem chúng có thể hay không thể được sử
dụng bên trong hay bên ngoài nơi ở; thái độ của họ đối với nhựa cây và đối với
bản thân việc chế biến nhựa cây; đối với đàn ông và đàn bà. Chúng ta cần xem
xét những thái độ và những chiến lược như vậy bằng cách quan sát nhiều hơn nữa
bối cảnh văn hoá (người đàn ông và người đàn bà còn làm gì nữa, họ chọn những
vị trí nào để thực hiện công việc gì...vv).
Hơn nữa khi xem xét văn hoá và việc ra quyết
định tình thế tách biệt nhau một cách lầm lẫn, chúng ta có thể thấy cả hai đều
xoắn xuýt lấy nhau trong mỗi “hành động” xã hội. Bằng các thuật ngữ của
Collingwood, chúng ta cần đạt tới cách tiếp cận của người trong cuộc đối với
các sự kiện của thổ dân Ayawara. Như trong nghiên cứu người Nunamiut của mình,
Binford đã cung cấp cho chúng ta những thông tin không đầy đủ để coi văn hoá
như là trung gian của hành động – các quyết định tình thế như đã được mô tả,
xảy ra trong một chân không văn hoá đến nỗi mà chúng ta không thể lý giải nổi
nét đặc trưng của chúng, những nguyên nhân hoặc kết quả của chúng. Sự nghèo nàn
của lối lập luận như vậy đã quá rõ ràng. Binford rất muốn có những đóng góp
chung nào đó vào một cuộc tranh luận lý thuyết trừu tượng cho rằng “chủ thuyết”
thì chính xác chứ không phải là ông đang tìm hiểu về cái sự kiện đặc thù kia
trong toàn bộ tính chất phong phú và phức tạp của nó. Trò chơi quyền lực đương
đại đang cử khúc tiễn đưa, nhưng sự nghiệp khoa học thì không nhất thiết đã
tiến lên phía trước. Tất nhiên chúng ta sẽ còn trở lại với những vấn đề lý
thuyết rộng lớn hơn sau khi đã thảo luận về công việc chế biến nhựa cây của
người Ayawara một cách trọn vẹn, còn các lý thuyết tổng quát lại cần thiết cho
tiếp cận ban đầu với tập dữ liệu và việc lý giải dữ liệu, nhưng trong toan tính
của Binford thì mối quan hệ biện chứng giữa lý thuyết và dữ liệu, việc so sánh
có tính phê phán các ngữ cảnh đã không bao giờ xảy ra. Binford đã lảng tránh
luận lý ấy bằng phép “thử”các lý thuyết dựa trên các tiêu chuẩn đã được lựa
chọn trước, mà không hề cố thử đặt các lý thuyết một cách trọn vẹn hơn vào các
bối cảnh của chúng. Binford đã không “đọc” được “văn bản” xử lý nhựa cây của
người Ayawara. Việc thảo luận về các chủ thuyết vì vậy mà trở thành phản tác
dụng, dựa trên những định đề tiên thiên và dựa vào quyền lực. Công lao mà người
Ayawara lẽ ra đã có thể đóng góp cho cuộc tranh luận giữa các “isms” (chủ
thuyết) đã không bao giờ được thực hiện.
Phép thử các Lý giải
Tôi không muốn đưa ra một ấn tượng về toan
tính trên của Binford, là thứ mà chúng ta không thể nào làm phép “thử” các lý
thuyết được. Đôi khi một tình trạng phân đôi xuất hiện giữa việc thử và việc lý
giải. Thực ra thì sự phân đôi đó có lẽ liên quan đến một số cách tiếp cận với
phép thử. Một số nhà KCH Quá trình đã dựng lên một bức tranh không chính xác và mâu
thuẫn về cái cung cách mà các nhà KCH thực hiện phép thử các lý thuyết của họ.
Trong tập sách này tôi cũng đã nhận rằng với
tư cách là các nhà KCH chúng ta cần kiểm tra các lý thuyết bằng cách đối sánh
nó với các dữ liệu theo nghĩa chúng ta cố gắng đưa ra các lý lẽ có sức thuyết
phục bằng cách chứng tỏ làm thế nào để chúng lý giải các dữ liệu tốt hơn những
lý thuyết khác. Có hai vấn đề thuộc về thao tác thích ứng này. Trước hết chúng
ta có thể chứng tỏ rằng bản thân các lý thuyết mà chúng ta sử dụng là chưa đủ
trong mối liên hệ với các lý thuyết khác, chẳng hạn như lý thuyết xã hội. Chúng
ta chứng tỏ rằng chúng không thích hợp với một sự hiểu biết lý thuyết rộng lớn
hơn và chúng ta điều chỉnh quan điểm của mình, thường là thông qua những đối
lập trong cộng đồng KCH, bằng cách chú ý đến câu hỏi: thế nào là một lý thuyết
đầy đủ. Thứ hai chúng ta chứng tỏ rằng các lý thuyết trước đó đã để lại quá
nhiều dữ liệu không được lý giải so với các lý thuyết mới, hoặc chúng ta chứng
tỏ rằng những lý thuyết trước đây đã sử dụng các dữ liệu không chính xác (chẳng
hạn như các niên đại không chính xác) hoặc chúng dựa trên cơ sở thừa nhận các
mô hình không có ý nghĩa về phương diện thống kê...vv.
Thật dễ lẫn lộn các thao tác khoa học với
cách tiếp cận kiểm tra giả thiết. Nhưng sự thật thì việc sử dụng phương tiện
phân tích khoa học, phải chăng liên quan đến việc sử dụng môn thống kê, lượng
hoá, các nghiên cứu hoá lý là tương đối thích hợp với một cách tiếp cận giải
thích. Những phương pháp khoa học như vậy được sử dụng để nhận rõ và kiểm
nghiệm các mô hình (chẳng hạn như dựa vào quan niệm về tính ngẫu nhiên), các
mối quan hệ, niên đại và các nguồn. Các phương pháp giúp chúng ta phát hiện các
mô hình dựa vào cái mà chúng ta có thể đánh giá những yêu cầu của mình. Nhưng
chúng lại không đem đến một phương cách né tránh lĩnh vực chú giải. Chúng giúp
ta miêu tả mô hình một cách chính xác hơn, và tìm kiếm được nhiều phương biến
đổi hơn, nhưng cái mô hình đó vẫn cần phải được lý giải. Chúng ta vẫn phải viện
tới tính mạch lạc và sự tương hợp. Tuy nhiên chúng ta sử dụng khá nhiều phương
pháp khoa học và thống kê, phải chăng trước hết chúng ta quan tâm tới các vấn
đề sinh thái hoặc các vấn đề văn hoá mà tất cả chúng ta đều theo một lối lý
giải như đã phác ra ở chương 7.
Diện mạo đó của KCH bị một số nhà KCH chỉ
trích công khai là phi khoa học vì nó cho rằng chúng ta đặc biệt sử dụng những
lập luận thích nghi (Binford 1982). Các nhà KCH ấy cảm thấy rằng một luận lý
khoa học chính xác cần phải đạt tới một trình độ chắc chắn, bền vững và phổ
quát lớn hơn, và cấu trúc xã hội của tri thức KCH có thể bị coi nhẹ. Luận lý
của họ ủng hộ cho những công cụ đo lường phổ biến không thể thay đổi về phương
diện lịch sử.
Tôi cũng đồng ý rằng Lý thuyết Tầm trung
(chương 6) có thể được xây dựng với sự thành công nhất định gắn liền với các
quá trình phi-văn hoá khác nhau tác động tới di tích KCH. Chẳng hạn tri thức về
lực phản tác động của các loại đá, xương và đất sét khi đập vào nó cho phép
chúng ta đánh giá được hiệu lực của các giả thuyết về quá khứ. Chúng cung cấp
cho ta một phép thử dựa trên những quá trình phi văn hoá phổ biến và độc lập vì
dựa trên các lý thuyết không liên quan đến những thứ được đánh giá. Không thể
đưa ra các đòi hỏi cho các quá trình văn hoá. Tôi cũng thừa nhận rằng chúng ta
cần khái quát hoá các quá trình văn hoá để tạo ra những trừu tượng và xây dựng
các lý thuyết. Các khái quát hoá này bao gồm những gì liên quan đến ý nghĩa, hệ
tư tưởng, và quyền lực. Nhưng lại xuất hiện một mâu thuẫn khi cách tiếp cận
được sử dụng cho những quá trình phi văn hoá được triển khai để kiểm nghiệm
những giả thiết về tư duy, ý nghĩa và sự biểu hiện. Một mặt một số nhà KCH Quá
trình đồng ý rằng những mối liên hệ phổ biến trong việc tổ chức nghi lễ và tôn
giáo (Renfrew 1985) cho phép nhà KCH kiểm nghiệm các lý thuyết dựa vào các dữ
liệu. Nhiều dự báo đã được xây dựng trên cơ sở tìm hiểu lý thuyết Tầm trung và
các dữ liệu được nhìn nhận xem có phù hợp hay không. Để thao tác này mang tính
khoa học đáp ứng được những đòi hỏi về nó, thì giả thuyết về quá khứ, Lý thuyết
Tầm trung và các dữ liệu tất cả cần phải độc lập với nhau và tri thức Tầm trung
phải là tri thức phổ quát. Mặt khác, như đã lưu ý ở chương 2, các tác giả như
Renfrew, Flannery và Macus, Binford và Sabloff cho rằng mỗi văn hoá đều có “sự
phát sinh loài” của riêng mình, hoặc mỗi cách tiếp cận đều có mô hình của riêng
nó. Hai quan điểm này đơn giản không phải là ước định. Tính chất ngữ cảnh của
tri thức vẫn làm sói mòn đi tính phụ thuộc vào những phương cách đo lường phổ
biến, sự độc lập của các lý thuyết và những đối đầu mang tính khách quan của lý
thuyết và dữ liệu.
Một vấn đề khác là việc tiến thoái giữa lý
thuyết và dữ liệu khi cố gắng làm cho cái này thích hợp hoặc thích nghi với cái
kia theo một phương cách rõ ràng và nghiêm nhặt. Một mặt là nhạy cả với tính
đặc thù và mặt khác phải có tính phê phán đối với các định đề và các lý thuyết.
KCH đã từng chứng kiến những đổ vỡ bởi tính thô thiển của việc kiểm nghiệm giả
thuyết và sự nông cạn của “phương pháp khoa học”, mặc dù trong thực tế thì hầu
hết các nhà KCH đã liên tục phát hiện ra rằng cái mà họ phát hiện là thuộc về
một sự quan tâm lớn hơn và phức tạp hơn những gì họ mong đợi. Luôn luôn có một
số dư về nghĩa đòi hỏi một sự lý giải nhạy cảm hơn, theo cách chú giải một cổ
bản vậy. Một cách tiếp cận khoa học chính xác chấp nhận đòi hỏi lý giải được
toàn bộ các dữ liệu trong toàn bộ tính đặc thù của nó, và chấp nhận đòi hỏi
khảo sát kỹ lưỡng có tính phê phán đối với tính độc lập bộ phận của lý thuyết
và dữ liệu.
Tuy nhiên rất nhiều người lại suy nghĩ khác,
vì các nhà KCH hiếm khi làm việc như những nhà khoa học tự nhiên thực chứng.
Tôi cũng đồng ý rằng về tổng thể, cái mà họ định thực hiện là tuân thủ những
thao tác chú giải văn bản trong một dòng lý giải biến đổi. Việc thực hiện như
vậy được phân loại bằng nhu cầu lý giải những ý nghĩa nội tại, nhưng lại tương
đối phù hợp với toàn bộ các loại hình KCH.
Bất cứ một cuộc thảo luận nào về việc “đọc”
quá khứ hoặc về những ý nghĩa nội tại thì cũng đều hàm ý về sự thông cảm, và
thiếu khoa học đến mức là việc thể hiện “điều đó đối với tôi có nghĩa” tỏ ra
bắt đầu trở thành người trọng tài cuối cùng của cuộc tranh luận. Vì vậy KCH trở
thành con mồi cho những lợi ích riêng. Tuy nhiên các nhà KCH hậu quá trình sẽ
bác bỏ sự thông cảm và sẽ bác bỏ quan niệm cho rằng sự lý giải của bất kỳ người
nào về quá khứ, tuy không liên quan đến dữ liệu nhưng cũng vẫn giá trị như có
dữ liệu. Một số người có lẽ sẽ nhấn mạnh vào sự đóng góp của cuộc tranh luận
giữa những quan điểm khác nhau về quá khứ như là một cơ chế cho việc phê phán
những lợi ích được ban tặng và những lý giải vô giá trị. Những người khác,
(chẳng hạn như Shanks và Tilley 1987a, b) sẽ miêu tả các dữ liệu khảo cổ học
như những “mạng lưới phản kháng” ngăn trở những gì có thể nói về quá khứ. Quan
điểm riêng của tôi là ngay cả điều này cũng mang tính “hiện tại luận” và không
cho phép quan niệm của chúng ta về hiện tại được xây dựng một cách cục bộ ở bên
ngoài thực tại của quá khứ. Chẳng hạn như rõ ràng là các tư tưởng hiện tại của
chúng ta về tiến hoá và tiến bộ đã có công sức tìm tòi vất vả của các nhà KCH.
Tương tự như vậy, KCH là chính bản thân nó ngày hôm nay trong mỗi quốc gia bởi
cái đã được phát hiện. Cái đã được phát hiện là sản phẩm của cái đã được tìm
kiếm, nhưng nó cũng tác động vào cái cách mà chúng ta toan tính (chẳng hạn như
việc chúng ta tập trung nghiên cứu các di chỉ, những khu vực hoặc giai đoạn rõ
ràng hoặc phong phú hiện vật). Khảo cổ học, hiện tại và quá khứ, chủ thể và
khách thể đều nằm trong một mối quan hệ biện chứng trong sự vận động liên tục.
Họ, chúng ta tuỳ thuộc vào nhau và cùng đưa nhau vào tồn tại.
Khảo cổ học và vai trò riêng biệt của nó
Để KCH hậu quá trình phát triển rộng rãi hơn,
các nghiên cứu về hai loại ý nghĩa của các đối tượng vật chất (là các hiện vật
và các dấu hiệu) cần phải được kết hợp lại. Theo cách đó, 4 vấn đề chung của
KCH hậu quá trình (mối quan hệ giữa chuẩn mực và cá nhân, quá trình và cấu
trúc, duy tâm và duy vật, chủ thể và khách thể) có thể được xác định. Có lẽ là
trong khi trở thành một bộ phận của những cuộc tranh luận như vậy, và khi sử
dụng những lý thuyết từ những bộ môn khác, KCH đã để mất đi một vài biệt tính
và sự độc lập của riêng nó. KCH hậu quá trình là một bộ phận của những mối quan
tâm rộng lớn hơn trong lý thuyết xã hội, và việc phân tích ngữ cảnh mà đa phần
các phương pháp và lý thuyết của nó bắt nguồn từ việc phân tích ngôn ngữ học.
Nhưng tập sách này cũng cho rằng có thể xem
xét các dữ liệu KCH ngữ cảnh trong những khuôn khổ riêng của chúng, và chúng ta
có thể tiếp cận được đặc tính của các ý nghĩa quá khứ. Có lẽ KCH có thể đóng
góp những dữ liệu của riêng nó cho những cuộc tranh luận chung bằng cách sử
dụng những phương pháp và những lý thuyết của riêng nó để làm như vậy, với tư
cách là một bộ môn độc lập. Giờ đây tôi muốn xem xét cái đề xuất vừa khác với KCH quá
trình vừa khác với KCH truyền thống, cái KCH đó không phải là lịch sử, cũng
không phải là nhân học, mà nó chỉ là KCH.
David Clarke đặc biệt nhấn mạnh rằng “KCH là
KCH là KCH”. Cuốn “KCH Phân tích” (1968) của ông là một cố gắng có ý nghĩa lớn
lao nhằm phát triển một phương pháp luận KCH đặc biệt dựa trên các hiện vật
KCH, những liên tưởng và các mối quan hệ của chúng trong các ngữ cảnh KCH.
Trong công trình nghiên cứu Glastonbury của ông gần đây (1972; xem ở trên,
p.15) Clarke đã tiến hành một phân tích ngữ cảnh chi tiết đi liền với một thành
tố cấu trúc. Ngoại trừ việc ông không nhất trí với quan điểm cho rằng “KCH là
nhân học hoặc không là gì cả”, Clarke khác biệt với KCH quá trình hoặc KCH
“Mới” vì ông vẫn duy trì một mối gắn bó với các thực thể văn hoá, sự truyền bá
và các liên tục tính của chúng. Dù trong công trình của ông có những yếu tố
khoa học tự nhiên rất rõ ràng, nhưng ông vẫn nghi ngờ sự bắt ép một cách quá dễ
dãi và phép “thử” những qui luật tổng quát. Vì vậy rõ ràng là có nhiều tính
tương đồng với một sự giải thích hạn chế hơn đối với cách tiếp cận ngữ cảnh
được đưa ra trong công trình này. Ngoại trừ việc sử dụng loại hình phương pháp
luận chi tiết, thì sự khác biệt chủ yếu là thất bại của Clarke trong việc xác
định những cung cách vận động vượt khỏi dữ liệu để lý giải chúng. Trong “KCH
phân tích” lược đồ của ông là có tính phân tích và kinh nghiệm. Các ý nghĩa văn
hoá và xã hội trong các mô hình KCH của ông thực sự còn chưa rõ ràng. Những lý
giải so sánh văn hoá giản đơn được ấn vào (chẳng hạn
liên quan đến các tập hợp nhóm văn hoá khu vực), ông cũng ít quan tâm đến nội
dung ý nghĩa và “lịch sử từ người trong cuộc” kể cả trong công trình này
hoặc bất cứ công trình nào khác sau này của ông.
Taylor cũng đã xác nhận (1948) rằng “KCH
không là lịch sử, cũng không là nhân học” (ibid, p.44). Ngoài ra còn có
nhiều tương đồng giữa quan điểm được đề xuất trong công trình này và cách tiếp
cận liên kết của ông với mục đích tiên quyết là “soi sáng các liên kết văn hoá,
các liên tưởng và những mối liên hệ, “những quan hệ”, bên trong sự biểu
hiện được tìm thấy” (ibid, p. 95-6). Mục đích là xem xét thông tin ngữ
cảnh trong mỗi đơn vị hoặc di chỉ như một thực thể riêng biệt bên trong cái
biểu hiện văn hoá riêng của nó, bằng cách nhấn vào ngữ cảnh văn hoá đối lập với
phương pháp so sánh. Hơn nữa, “văn hoá là một hiện tượng tinh thần, bao gồm nội
dung tư duy nhưng không bao hàm các đối tượng vật chất hoặc hành vi có thể quan
sát” (ibid, p. 98). Trong những ví dụ được áp dụng, Taylor thể hiện khả
năng của các nhà KCH trong việc phục dựng những tư tưởng trong một nền văn hoá
ẩn dấu của các xã hội quá khứ. Chẳng hạn như khi nghiên cứu về hoa văn trên vải
Taylor đã ghi chú xem các sợi vải được bện xoắn sang phải hay sang trái và tiếp
tục xác định các nguyên tắc cấu trúc trong đó vải của người Coahuila rõ ràng là
không quan tâm đến tổng thể hoa văn được làm theo đúng thể thức (Ibid., p.
182).
Mặc dù có những tương đồng rõ ràng với các
quan điểm đã được đề cập ở chương 7, nhưng vẫn có một số hạn chế đáng kể trong
cách tiếp cận của ông gợi lại những phê bình chỉ trích đã được thực hiện trong
tập sách này. Trước hết Taylor đã đòi hỏi một sự phân biệt kiểu loại giữa tư
tưởng và thực tiễn: “Văn hoá bản thân nó bao hàm tư tưởng, mà không phải là các
quá trình” (Ibid., p. 110). Đây là một quan điểm đối lập với Binford và cũng
vẫn không đầy đủ.
Thứ hai, quan điểm của Taylor là định chuẩn,
mặc dù không phải theo nghĩa bằng cách nào đó “các xã hội” đều có chung một lối
nhìn vào thế giới. Taylor gợi ý rằng văn hoá cũng có thể được chia sẻ hoặc mang
tính cá nhân và mang đặc tính riêng. Tuy nhiên tôi cũng không đồng ý với Taylor
về ý nghĩa thứ hai của định chuẩn – cho rằng hành vi bị luật tắc giới hạn. Các
cá nhân và các nhóm bị kiểm soát bởi các hệ thống hoặc các luật tắc, các cấu
trúc đến mức mà họ không thể nào chế ngự được. Taylor muốn nói rằng văn hoá được
làm ra bởi những loại luật tắc đó chứ không phải là bởi những quyết định mang
tính ngữ cảnh mang đậm các luật tắc và những sắp đặt. Theo nghĩa đó, cách tiếp
cận của ông không phải là ngữ cảnh (ngữ cảnh tình huống) mà là định chuẩn.
Mặc dù có những khác biệt này khác với cách
tiếp cận của Taylor (đặc biệt là Taylor không phát triển một tự ý thức về
phương diện xã hội và một lập trường phê phán gắn liền với tính chủ quan của
việc mô tả và lý giải các dữ liệu), rõ ràng là Taylor giống với Collingwood đã
đem lại cho các nhà KCH đương đại rất nhiều điều. Tôi không quan tâm đến việc
phủ nhận mối liên hệ với các nhà KCH trước đây – thực sự thì cần phải tái xây
dựng những cây cầu đã bị hư hại quá nhiều bởi KCH quá trình, và để định giá lại
cái cụm từ “giấc ngủ vùi của lý thuyết KCH” (Renfrew 1983b).
Trong tập sách này, quan niệm cho rằng KCH
cần có một sự tồn tại độc lập mặc dù nó liên quan đến cả lý thuyết tổng quát
lẫn phương pháp với những hợp phần sau đây. Trước hết, ở chương 8 tôi cho rằng
cần phải phân biệt KCH khỏi nghề buôn chơi cổ vật bằng mối quan tâm của nó đối
với những ngữ cảnh của các đối tượng vật chất. Người ta cho rằng các nhà KCH có
thể sử dụng phương pháp qui nạp trong việc vượt lên khỏi những mối liên kết ngữ
cảnh và các giao ước hướng tới một sự tìm hiểu mang tính phê phán về những ý
nghĩa lịch sử đặc trưng. Những cách đọc và lý giải như vậy là những phiên bản
của một thời đại khác; chúng tạo ra những định đề phổ biến, nhưng kết quả thì
lại không hoàn toàn tuỳ thuộc vào hiện tại. Những cách đọc ấy cung cấp thông
tin cho hiện tại và đóng góp cho hiện tại thông qua việc đánh giá có phê phán
quá khứ. Bao nhiêu nhà KCH có thể lý giải là tuỳ thuộc vào mức độ phong phú của
những hệ thống dữ liệu của họ, tuỳ thuộc vào tri thức và khả năng của họ, nhưng
rõ ràng là có một tiềm năng để KCH có những đóng góp độc lập.
Thứ hai là trong khi các nhà KCH có thể đọc
những văn bản văn hoá vật chất quá khứ bằng cách so sánh với cách đọc các văn
bản lịch sử thì vẫn có những khác biệt riêng giữa văn hoá vật chất với các ngôn
ngữ nói hoặc viết, những khác biệt này cần phải được nghiên cứu thêm. Văn hoá
vật chất thường có vẻ đơn giản hơn, nhưng ngôn ngữ lại mù mờ hơn, và so với
ngôn ngữ nói thì nó thường tỏ ra xác định và bền vững hơn. Hơn nữa hầu hết các
từ đều là những vật mang nghĩa một cách võ đoán cho những khái niệm được gán ý
nghĩa. Vì vậy mối liên hệ giữa từ “cây” khi được đối sánh với “ cây gỗ” hoặc “tarm” và khái niệm “cây” thì có tính qui ước và có
tính lịch sử. Nhưng một “từ” văn hoá vật chất chẳng hạn như một tấm ảnh hoặc
một điêu khắc hình người thì lại không phải là một thể hiện võ đoán của cái
được gán ý nghĩa; vì vậy trái ngược với đa số các từ, nhiều dấu hiệu văn hoá
vật chất lại mang tính hình tượng. Những khác biệt này kia đều hàm ý rằng các
nhà KCH phải phát triển các lý thuyết và phương pháp riêng của họ để đọc những
dữ liệu của riêng họ.
Thứ ba, KCH có thể tự tận dụng những bằng
chứng hoạt động văn hoá của con người từng trải trong một khoảng thời gian rộng
lớn. Viễn cảnh dài hạn này có khả năng đưa chúng ta tới nhưng hiểu biết sâu sắc
mới về 4 vấn đề chính trong KCH hậu quá trình. Chẳng hạn như trong một khuôn
khổ dài hạn các sự kiện riêng lẻ đóng vai trò gì trong các quá trình chung của
sự biến đổi xã hội và văn hoá; và cái gì là mối liên hệ giữa cấu trúc và quá
trình? Trong khuôn khổ ngắn hạn, có vẻ như là các yếu tố quyết định kinh tế và
xã hội lại quan trọng hơn, nhưng chỉ trong một
khuôn khổ dài hạn thì các quyết định kinh tế và xã hội mới có thể được
coi là tạo ra các mô thức lặp có một nhịp điệu văn hoá và cấu trúc cơ sở. Công
trình KCH khởi đầu theo hướng này đã được đề cập ở chương 5.
Bằng những cách thức đa dạng ấy, KCH có thể
được coi là một bộ môn độc lập đang mò mẫm hướng tới những lý thuyết và phương
pháp độc lập, nhưng cần thiết phải gắn liền với và đóng góp cho những lý thuyết
xã hội tổng quát. Vấn đề về mối liên hệ giữa cái phổ biến và cái đặc thù làm
nền tảng cho ba vấn đề được thảo luận trong các trang trên tự thân nó là một
vấn đề rộng lớn mà KCH có thể thực hiện được một đóng góp riêng.
Các đối tượng KCH đã làm nảy sinh các vấn đề
về mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng trong một hình thức cực đoan và đầy
tính liên tưởng. Mối liên hệ đã bị KCH hàn lâm hiện thời bỏ qua một cách hiển
nhiên ấy đã được Mags Harries tìm thấy lại trong nền nghệ thuật đại chúng trên
các hè phố Boston của bà (trang trí mặt tiền). Nghệ thuật của bà đòi hỏi chất
KCH trước hết vì bà nhận thấy rõ sự gần gũi của những vật dụng tầm thường hàng
ngày và đặc tính lịch sử của chúng. Thông thường các đồ vật được tạo ra và bị
bỏ lại vô mục đích và bị lãng quên, các hiện vật đó lại lưu giữ được một thời
khắc thoáng qua trong một dạng thức cụ thể. Thứ hai, tuy nhiên chúng ta vẫn có
cảm giác rằng chúng ta hiểu các đồ vật đó, rằng có một đặc tính tương đồng, gần
gũi thậm chí là trong những khoảng thời gian thật lớn. Chúng ta phải chạm trán
với sự tàn phá của thời gian và tính phổ biến của kinh nghiệm. Trong tập sách
này tôi đã cố thử luận giải rằng chúng ta chỉ có thể hiểu được tính phổ quát và
khoảng cách bằng cách thăm dò cái tổng thể cụ thể mang tính hàng ngày của bản
thân các hiện vật trong toàn bộ đặc tính của chúng.
Trên các đường phố Boston, Mags Harries đã
sáng tạo ra những hiện vật KCH. Nghệ thuật của bà mang tính KCH theo hai nghĩa
vừa mới xác định ở trên. Để KCH tự thân trở thành KCH một lần nữa sẽ liên quan
đến việc khai quật nhiều hơn nữa các hiện vật và đặt chúng vào trong các bảo
tàng và vào các phụ hệ thống văn hoá - xã hội – chúng ta cần phải xem xét các
ngữ cảnh riêng của các hiện vật trong quá khứ để cân nhắc về những ngữ cảnh
riêng của chúng ta đối diện với tính phổ quát dài hạn.
Trong khi thảo luận về những bước thử theo
các hướng này, tập sách của tôi muốn nêu lên một cách có chủ đích nhiều vấn đề
hơn là để trả lời về các vấn đề – về mối quan hệ giữa các cá nhân và các xã
hội, về sự tồn tại của các qui luật phổ biến, về vai trò của các nhà KCH trong
xã hội ...vv. ý nghĩa của quá khứ phức tạp hơn rất nhiều so với suy nghĩ của
chúng ta. Vì vậy mà giờ đây khi lựa chọn con đường đó, KCH đã tỏ ra là khó đến
vô vọng, còn thực tế thì tôi đã cho rằng các nhà KCH có thể quay trở lại với
các nguyên tắc cơ bản trong việc phiên dịch ý nghĩa các văn bản quá khứ ra thứ
ngôn ngữ đương đại riêng của chúng. Các phương pháp khai quật và lý giải dựa
trên quan niệm ngữ cảnh đã được phát triển tốt. Khi sử dụng các phương pháp như
thao tác hỏi – và - trả lời, những khái niệm về tính mạch lạc và tính tương hợp
của Collingwood thì cái ý tưởng cho rằng ý nghĩa được cấu tạo thông qua các tập
cấu trúc của những khác biệt – và khi thừa nhận tầm quan trọng của phân tích
phê phán người ta đã lập luận rằng thông tin ngữ cảnh từ quá khứ có thể dẫn tới
việc hiểu được các ý nghĩa chức năng và quá trình hình thành tư tưởng. Bằng
cách đó lịch sử dài hạn có thể được phục dựng và có thể đóng góp cho cuộc thảo
luận trong phạm vi các lý thuyết xã hội hiện đại và cả trong phạm vi xã hội nói
chung.
_______________________________________
Tác giả: GS. Ian Hodder sinh năm 1949,
tốt nghiệp cử nhân tại Đại học London năm 1971, nhận học vị tiến sĩ tại Đại học
Cambridge năm 1975, trở thành giáo sư Đại học Cambridge từ năm 1977.
Nguyên
bản: Reading
the Past – Current approaches to Interpretation in Archaeology. Second
Edition. Cambridge University Press 1991.
Tài liệu dẫn
Binford, L. R.,1982, Meaning, Inference and the Material Record,
in A. C. Renfrewand S. Shennan (eds.), Ranking,
Resource and Exchange, Cambridge University Press.
Binford, L. R., 1984, An Ayawara Day: Flour, Spinifex Gum, and
Shifting Perspectives, Journal of Anthropological Research 40, 157–82.
Clarke, D. L., 1968. Analytical Archaeology. London: Methuen.
Patrik, L. E., 1985, Is there an Archaeological Record?, in
M. B. Schiffer (ed.), Advances in
Archaeological Method and Theory, vol. 8, NewYork: Academic Press.
Renfrew, A. C., 1983b, Divided We Stand: Aspects of Archaeology and
Information, American Antiquity 48, 3–16.
Renfrew, A. C., 1985, The Archaeology of Cult, London: Thames and
Hudson.
Shanks, Michael, 1987a, Re-Constructing Archaeology, Cambridge
University Press 1987b, Social Theory and Archaeology, Cambridge: Polity Press.
Shanks, M. and Tilley, C. 1987b. Re-Constructing Archaeology:
Theory and Practice. Cambridge: Cambridge University Press. Introduction:
The Red Book .
Taylor, W., 1948, A Study of Archaeology, NewYork: Memoirs
of the American Anthropological Association 69.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét