Bi ký K1006 ở Phnom Kulên
Michael Vickery1
Người dịch: Hà Hữu Nga
Bi
ký K 1006 được công bố dưới đây đã được Jean
Boulbet phát hiện tại Phnom
Kulên năm 1967, trong một đống đá do một vị sư gom lại ở phía Nam Práh Thorn
trong thời gian xây dựng bậc thang “Đại Phật”; tấm bi ký chắc là ở trên đỉnh bức
tường và có lẽ có nguồn gốc từ chính ngôi đền bên cạnh Krôl Româs, nằm ở đỉnh
thác nước2. Người ta có thể tự hỏi tự hỏi tại sao lại chọn một nơi bất
tiện như vậy để chạm khắc một bi ký...Mặt khác người ta đã bỏ qua một vấn đề là
vào thế kỷ XVI tấm bi ký ấy đã được đặt ở đâu.
Kích thước hiện tại của viên đá này dài 0,75m,
cao 0,47m, và dày 0,17m; nhưng văn bản này không còn đầy đủ ở phía bên phải lẫn
bên trái, và vì vậy mà chắc chắn là nó có một nguồn gốc lâu đời hơn thế. Ngoài
ra hai chỏm góc còn lại cũng bị sứt mẻ, có vẻ như sau khi chạm khắc xong nó đã
bị va đập.
Bi ký được khắc thành ba phần kề bên nhau, tạo
thành ba văn bản khác nhau. Phần giữa là quan trọng nhất vì nó là phần nguyên vẹn
duy nhất còn lại, nhỏ hơn 2/3 con tem một chút và chỉ có 11 dòng. Phía trái có
5 dòng có thể đọc được và có các vết vạch tạo thành ba dòng nhỏ khác.
Cuối cùng ở bên phải có 11 vệt đầu dòng, hầu hết
còn có thể đọc được. Tấm bi ký này có tầm quan trọng đặc biệt về lịch sử ngôn
ngữ cụ thể, đó là phần giữa và phần bên phải là ngôn ngữ Thái được viết bằng chữ
Khmer điển hình thời trung cổ, trong khi phần bên trái lại được viết bằng cả
ngôn ngữ Thái. Thực tế được minh họa bằng hai phần đầu khá phổ biến ở Ayuthya
vào thế kỷ XV và XVI; có lẽ đó là một văn bản ngôn ngữ Khmer hoàn hảo của vương
quốc, trước khi bị triều đại Sukhotai chinh phục sau cuộc xâm chiếm của người Mianma
năm 15693. Tài liệu cuối cùng thời đó viết theo phong cách này và được
phát hiện trên lãnh thổ Thái là bi ký Dansai, năm 15634; còn tấm bi
ký K1006 của chúng ta tỏ ra là thú vị hơn nhiều thì có lẽ có niên đại muộn hơn khoảng
20 năm. Phát hiện về bi ký này được thực hiện bằng cách so sánh với ba bi ký
khác đồng thời cũng cho thấy tầm quan trọng của bi ký K1006 đối với thông sử
Cambodia. Đó là các bi ký K715, có niên đại 1508 saka (1586 SCN), cũng được
phát hiện ở Phnom Kulên5 – còn được gọi là K 1006, brah khbuň (kabaň ở bi ký К1006) – và cặp
bi ký К465 và К285 từ Phnom Bàkhèn, được tạo lập năm 1505 saka (1583 SCN)6.
Cả ba bi ký này đều cần phải được phục hồi
vì tình trạng vỡ mẻ.
Thực ra thì đặc trưng chủ yếu của bi ký
K465/K285 Samtec Brah Ràjamuni Pabitra, có thể có nhiều khả năng là Brah
Ràjamuni của bi ký К 1006, có nghĩa là có cùng niên đại và có thể xác định là một
phần các văn bản kia. Thêm vào đó, bi ký K1006 còn giúp chúng ta xác định rõ
nghĩa hơn đối với hai bi ký còn lại. Ở phần sau, một nhân vật, rõ ràng là Brah Samtec Ràjamuni “sẽ đến xứ
Cambodge này”7,
trong khi bi ký К1006 lại nói rằng Brah Ràjamuni
“đã đến từ Sri Yuddhanà”, ý muốn nói là từ Ayuthya, kinh đô Thái Lan. Chính tình
tiết này đã lý giải các văn bản ngôn ngữ Thái của bi ký K1006. Brah Ràjamuni là
một tăng lữ cao cấp của Ayuthya, đã hành hương đến các đền chùa nổi tiếng ở Cambodge
và đã có công lớn trong việc phục hồi lại các tượng đã bị hỏng. Trong khi các
bi ký Phnom Bàkhèn được viết bằng ngôn ngữ Khmer có vẻ cho thấy bằng chứng về
cuộc viếng thăm của Ràjamuni, thì bi ký К1006 lại phần nào thể hiện đặc trưng
tưởng niệm do đoàn tùy tùng của ông để lại, và chính cái đặc trưng hầu như
riêng tư ấy lại giúp giải thích cái đặc trưng cực kỳ cẩu thả của việc chạm khắc
bi ký.
Có vẻ như các mối quan hệ giữa hai nước - một
vài năm trước cuộc tấn công đầu tiên thất bại của Hoàng tử Naresvara/Naresuon - là thân thiện8, và các chùa
chiền Angkor, hoặc đối với người Thái thì “Nagara Hlvaň”, đô thành tuyệt hảo
luôn luôn bày tỏ mối quan tâm tôn giáo đối với người láng giềng phía tây Cambodge.
Cả ba văn bản trong bi ký K1006 cần tu chỉnh đều
đã được Brah Râjamuni và các tùy tùng của ông thực hiện trên một số linh tượng ở
các vùng thuộc Cambodge. Cách diễn đạt thì mộc mạc, đơn điệu và thấy nhiều câu
lặp lại nói về các bức tượng bị vỡ và được phục dựng.
Như trong các bi ký khác cùng thời do ông Khin
Sok dịch, đều có sự pha trộn giữa ngôn
ngữ Khmer và ngôn ngữ Thái9. Cũng cần phải lưu ý đến những cách viết
lạ thể hiện lối làm việc cẩu thả của người chạm khắc đá.
Việc phiên âm phần giữa và phần bên phải được
thực hiện theo hệ thống thông dụng đối với ngôn ngữ Khmer10, ngoại
trừ một chút thay đổi cho thấy phong cách của một hệ thống Thái không thể từ bỏ
được. Việc phiên âm nguyên âm [a] độc lập
với cách viết Thái thường được sử dụng kết hợp để chỉ nguyên âm [ïoe] hoặc sau
một phụ âm để chỉ nguyên âm [*] đặc hữu đối với một loạt phụ âm Khmer đầu
tiên. Để phiên âm được chính xác tôi sử dụng dấu hiệu – để làm rõ âm a tiếp
theo một ký hiệu nguyên âm khác hoặc nguyên âm là [*]. Một bản phiên âm bằng
các chữ tiếng Thái cho cả hai văn bản giống nhau để xem xét là không cần thiết.
Để đơn giản hóa vốn từ, dường như người ta ít chú ý đến những chữ bất quy tắc,
mà chỉ các từ khó hoặc các từ đặc biệt được chú ý mới được chú giải. Trong các
trường hợp có từ brah “bậc thánh”, “tôn kính” là danh từ chung cho mọi thứ linh
thiêng hoặc thuộc về hoàng gia, để thể hiện ý nghĩa lớn lao như “vua”, “thượng
đế”, “tượng Phật”, thì những từ đó không được dịch.
Văn bản (Phần giữa)
Theo Tôn đức... người mang danh hiệu Brah
Râjamuni Sri Ayudhya
đến chiêm bái tượng Phật ở Ràjadravya. Cổ và tay tượng bị gãy vỡ, nhưng đã được sửa lại nguyên vẹn, Tôn đức đã sơn mài, tô lại hoàn toàn màu son và màu nâu. Sau đó Tôn đức leo lên bày tỏ lòng tôn kính đức vua Brah Nagara Hlvaù, và đến chiêm bái tượng Phật ở
Bàkhèn, thì thấy tay và cổ bức tượng đã bị gãy vỡ, nhưng đã được sửa lại
nguyên vẹn, Tôn đức đã sơn mài, tô lại hoàn toàn màu son và màu nâu. Rồi Tôn đức
đến chiêm bái tượng Phật ở Jetavana, thì
thấy tay và cổ bức tượng đã bị gãy vỡ, rồi lại được Tôn đức sửa sang
nguyên vẹn, đã sơn mài, tô lại hoàn toàn màu son và màu nâu. Sau đó Tôn đức đi
tiếp để dựng tượng Phật và bắt đầu sơn bức tượng ... tiếp tục sơn mài, tô lại
hoàn toàn màu son và màu nâu. Rồi lại đến Y aram.
_____________________________________
_____________________________________
Nguồn: Michael Vickery 1982. L'inscription K 1006 du Phnom Kulên, Bulletin de l'Ecole française d'Extrême-Orient. Tome 71, 1982. pp. 77-86.
Ghi chú của người dịch:
* Tác giả sử dụng ký hiệu toán right propto symbol cho âm này.
Chú thích
1. Claude Jacques, «Supplément au tome VIII
des Inscriptions du Cambodge», BEFEO LVIII (1971), p. 180. Je voudrais
remercier sincèrement M. Jacques pour m'avoir signalé cette inscription et pour
m'avoir offert l'occasion de la présenter ici. Il est l'auteur des deux
premiers paragraphes de cet article.
2. Appelé aujourd'hui Pràsàt Tu'k Thlák (Dik
Dhlàk'), «temple de la cascade». Cf. J. Boulbet et B. Dagens, «Les sites
archéologiques de la région du Bhnam Gûlen», Arts Asiatiques, t. XXVII, 1973,
p. 38 et 49, ainsi que photos 99 et 100. Sur la photo 100, on voit la crête de
la muraille.
3. Au sujet de l'usage traditionnel de la
langue ou de l'écriture khmère sur le territoire du royaume d'Ayuth'ya, voir M.
Vickery, «The Khmer Inscriptions of Tenasserim: a Reinterpretation», Journal of
the Siam Society, 61, 1 (January 1973), p. 51-70; et compte rendu de Robert B.
Jones, Thai titles and Banks dans JSS 62, 1 (January 1974), p. 165, n. 8.
D'autres inscriptions en langue thaïe et écriture khmère sont les numéros (du
corpus thaï) 9 (A.D. 1406), 48 (1408), 52, 54 (1548), 55, 86 (1528), 108
(1480). Voir G. Coedès, Recueil des inscriptions du Siam I ; Bangkok, Bureau du
Premier ministre, Prahjum éilâcdroek III-IV.
4. L. Finot, «Notes d'épigraphie XIV, les
inscriptions du Musée de Hanoï», BEFEO XV (2) (1915), p. 28-36 ; A. B. Griswold
and Prasert na Nagara, «Epigraphical and Historical Studies n° 24 : An
Inscription of 1563 A.D. recording a Treaty between Laos and Ayudhya in 1560»,
JSS 67, 2 (July 1979), p. 54-69.
5. Khin Sok, «L'inscription de Prah Thom du
Kulên К 715 », BEFEO LXVII (1980), p. 133-134.
6. Khin Sok, «Deux inscriptions tardives du
Phnom Bàkhèn К 465 et К 285», BEFEO LXV, 1 (1978), p. 271-280.
7. Du moins les mots mok luh tal sthàn kâmbuja
ne... (Khin Sok, p. 278), «venir jusqu'à ce lieu Kambujà», se laissent lire
clairement sur l'estampage. Quant au groupe de mots ge ram des, M. Khin Sok a
eu pleinement raison d'hésiter à le traduire. A mon avis, ge ram des est une
lecture impossible et en tout cas ne pourrait se traduire «on fait errer». Le
préfixe causatif ram- ne se joint qu'aux verbes et aux adjectifs (ou, si l'on
préfère, aux verbes à sens adjectival, «être avare», être ambitieux», etc.),
jamais aux substantifcsom me des, «direction». Donc le groupe ge ram des, à
supposer même qu'il fût possible dans la langue, voudrait dire autre chose.
D'ailleurs l'estampage de l'inscription montre-sa comme élément final du mot
que M. Khin Sok a transcrit des.
8. Khin Sok, «L'inscription de Vatta Romlok К
27», BEFEO LXVII (1980), 125-132. Il est à rappeler que Naresuon ne devint roi
qu'en 1590. Cette attaque est également enregistrée dans la chronique thaïe de
Hlvaň Prahsroet, à voir dans Prahjum banèavalâr, édition de Guru Sabhà, tome I,
p. 155, mais ne se trouve mentionnée dans aucune des chroniques cambodgiennes,
même pas dans celle de Vaň Thiounn, l'officielle, qui de maint point de vue est
la pire. Les événements qui se trouvent enregistrés aux environs de la date de
1587 ont été déplacés par des procédés que j'ai expliqués dans mon Cambodia
after Angkor: the Chronicular Evidence for the Fourteenth to Sixteenth
centuries, Thèse de doctorat, Yale University, 1977.
9. Voir surtout «L'inscription de Vatta Romlok
К 27».
10. Saveros Lewitz, «Note sur la
translittération du cambodgien», BEFEO LV (1968), 163-169.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét