Champa
Nhìn lại (III)
Michael Vickery
Người
dịch: Hà Hữu Nga
II. Vấn đề Lâm Ấp
Đối với những người châu Âu đầu
tiên quan tâm đến vấn đề này thì lịch sử Champa được bắt đầu bằng một chính thể
có tên gọi Lâm Ấp (âm cổ là Liem-.iep) lần đầu tiên được ghi trong sử liệu
Trung Quốc là đã dấy loạn chống lại chính quyền Giao Chỉ vào thế kỷ thứ III
SCN. Trong suốt các thế kỷ tiếp theo cho đến khi cái tên Lâm Ấp biến mất khỏi
các sử sách Trung Quốc (và sau này là cả sử sách Việt Nam) sau năm 757, thì nó
được mô tả là một thực thể hiếu chiến thường gây sức ép về phía bắc chống lại
các tỉnh do người Trung Quốc cai quản, mà ngày nay là bắc Việt Nam. Vì vậy các
ghi chép đầu tiên bằng chữ Hán xác định nó thuộc phía Bắc, nhưng các sử gia chẳng
hạn như Maspéro thì lại tin rằng bia Võ Cạnh gần Nha Trang là thuộc về chính thể
này, và vì vậy mà Lâm Ấp gốc mở rộng từ xa về phía Bắc cho đến tận vùng Nam
Trung bộ Việt Nam ngày nay. Các bi ký bằng chữ Phạn và chữ Chăm thấy có từ thế
kỷ V tại vùng lưu vực sông Thu Bồn, trong số đó quan trọng nhất là bia Mỹ Sơn,
và tiếp tục phát triển về số lượng và tầm quan trọng cho đến thế kỷ VIII đều được
coi là thuộc chính thể mà người Trung Quốc gọi là Lâm Ấp này, và giả thuyết đó
đã củng cố cho quan điểm coi Lâm Ấp và Champa là một.
Sử sách Trung Quốc không diễn giải
gì về Lâm Ấp, tối thiểu như đã mô tả trong các văn liệu hiện thời, chẳng hạn
như việc cung cấp các chỉ dẫn cụ thể về tộc thuộc hoặc ngôn ngữ. Nếu các di
tích khảo cổ học về Sa Huỳnh thực sự đại diện cho người Chăm thì các di tích xa
về phía Nam của vùng này dường như lại được phản ánh trong các sử liệu Trung Quốc
viết về Lâm Ấp. Hơn nữa, ngoài các di tích khảo cổ học ra thì không có ghi chép
đương thời nào khác của địa phương (chẳng hạn bi ký) cho đến khi có tấm bia chữ
Chăm đầu tiên có niên đại giả định thuộc thế kỷ IV, và muôn hơn đôi chút là các
bi ký chữ Phạn gắn liền với Champa, nhưng toàn bộ các bi ký này dường như cũng
là phía nam Lâm Ấp như các văn liệu Trung Quốc mô tả. Stein cũng đã lưu ý về
các vấn đề này, và sau khi đọc kỹ các nguồn tư liệu Trung Quốc liên quan, ông
cho rằng trung tâm của Lâm Ấp sớm là ở Qusu [區鷫* Khu Túc?]/Ba Đồn, phía bắc của cái có vẻ được
coi là trung tâm chủ yếu của người Chăm, và cho rằng sự hợp nhất giữa hai vùng
– nếu điều đó đã xảy ra – không phải mãi cho đến thế kỷ thứ VI. Tuy nhiên ông
cũng nhận rằng, thủ đô của Lâm Ấp mà người Trung Quốc đã cướp phá năm 605 có lẽ
là Trà Kiệu, nơi mà các phát hiện khảo cổ học dường như cho thấy là thuộc về
Champa, và có thể là trung tâm của Champa từ thế kỷ I hoặc thế kỷ II 34.
Trong một xuất bản phẩm trước đây,
tôi cho rằng Lâm Ấp về mặt ngôn ngữ là thuộc Mon – Khmer, nhưng có lẽ tôi thấy
rằng một bộ phận của nó có thể bị hấp thu vào Champa trong thời gian người
Trung Quốc vẫn còn đang sử dụng cái tên Lâm Ấp, và điều đó được thể hiện trong
cuộc xâm chiếm năm 605 như đã được Stein phân tích 35. Có lẽ tôi vẫn
thiên về ý kiến cho rằng nhóm ngôn ngữ-tộc người chủ yếu của Lâm Ấp là
Mon-Khmer, có lẽ thuộc ngành Katu, hoặc thậm chí thuộc ngành Việt hoặc Việt Mường
chuyển về phía bắc khi người Trung Quốc lần đầu tiên biết về họ, cho đến khi họ
hợp nhất thành cái mà cuối cùng trở thành Việt Nam đầu tiên. Giờ đây các nhà
ngôn ngữ cho rằng địa bàn gốc của các ngôn ngữ Việt – Mường là Nghệ An, và Urheimat
[Nguyên quán*] của ngành Katu là ở Trung Lào 36. Cùng với quá
trình này, người Chăm, mà trung tâm đầu tiên có nhiều khả năng nhất là Trà Kiệu,
cũng đã mở rộng về phía bắc đến cái được gọi là lãnh thổ Lâm Ấp cổ, mà người
Trung Quôc không biết hoặc không quan tâm đến nó, chính là các phức hợp ngôn ngữ-tộc
người được tiếp tục gọi là “Lâm Ấp” cho đến giữa thế kỷ VIII.
Gợi ý buổi đầu của tôi là Lâm Ấp
là Mon-Khmer căn cứ vào tước vị Fan được người Trung Quốc sử dụng cho cả thủ
lĩnh Lâm Ấp lẫn một số thủ lĩnh sớm của Phù Nam, và đối với Phù Nam, tôi thấy
tương ứng với tước vị poñ được sử dụng cho thủ lĩnh địa phương, vẫn thường
thấy trong các bi ký Khmer thế kỷ VII, nhưng lại không bao giờ thấy kể từ giữa
thế kỷ VIII. Poñ là tước vị Khmer duy nhất hoàn toàn tương đồng về nghĩa
với Fan, cách phát âm cổ là b’iwAm 37. Fan đầu tiên ở Lâm Ấp là Fan Xiong/Phạm Hùng [范 熊* Phạm Hùng] được ghi lại vào thế kỷ
IV còn Fan cuối cùng là thế kỷ VII. Về
sau không thấy Fan xuất hiện trong danh
mục sử liệu Trung Quốc và Việt Nam viết về các thủ lĩnh Lâm Ấp và Champa nữa. Hệt
như một Fan nào đó trong sử liệu Trung Quốc về Phù Nam đã được mô tả là “tướng”
nhưng lại không phải là các thủ lĩnh trị vì, còn các poñ nào đó trong
các bi ký Khmer thế kỷ VII lại là những hình tượng tối cao khác trong vùng của
họ, vì vậy tại Lâm Ấp cũng có Fan, không được coi là những người trị vì. Một
Văn nào đó, xuất thân nghèo khổ nhưng cuối cùng đã trở thành Fan, được mô tả là
đã trở thành thủ lĩnh tại Tây Quyển, nhưng lại không phải là người trị vì Lâm Ấp,
có tên là Fan Chui [范神成* Phạm Chút, Phạm Trần Thành]
; có một nhân vật Fan Jian 范健* [Phạm Kiện]
, là tướng của thủ lĩnh Lâm Ấp Fan
Huda [范胡達* Phạm Hồ Đạt]; hai Fan khác không phải là vua cũng thấy dưới triều Fan Yang Mah [范陽邁* Phạm Dương Mại]; một sứ
thần của Fan Yang Mah II đã được phong tước Fan Long Pa; và một Phạm (= Fan)
nào đó tên Côn Sa Đạt ... không được Maspéro đề cập đến, nhưng lại được ghi
trong chính sử Việt. Còn có một Fan Xiong [范 熊* Phạm Hùng] thứ hai dường như đã cạnh tranh với
người trị vì Lâm Ấp Fan Huda [范胡達* Phạm Hồ Đạt] bằng việc gửi một sứ thần đến Trung Quôc, khiến
cho Maspéro đã có đôi chút hư cấu lịch sử 38.
Từ thế kỷ thứ V đến giữa thế kỷ
VIII có hai tập hợp sử liệu – các bi ký bằng chữ Chăm và các bi ký chữ Phạn ghi
lại các hoạt động (thường là gây chiến) của Lâm Ấp dưới sự lãnh đạo của các
Fan. Đối với Maspéro, và đối với hầu hết các sử gia sau này, hai tập ghi chép ấy
liên quan đến cùng một chính thể, và những cái tên Ấn Độ trong các bi ký được đồng
nhất với những cái tên Fan như đã thấy qua các sử liệu Trung Quốc. Các di tích
kiến trúc thế kỷ VII – VIII phía nam Huế, thuộc lưu vực sông Thu Bồn rõ ràng
thuộc về một chính thể có thể có lý để gọi là “Champa”, bổ sung cho các bi ký,
trong khi các nguồn sử liệu Trung Quốc và sau này là Việt Nam tiếp tục cho biết
những cái tên mà Maspéro đồng nhất với cùng các nhân vật trị vì thường với nhiều
tưởng tượng.
Lẫn lộn nghiêm trọng trong cách xử
lý của Maspéro về các sử liệu Trung Quốc và các bi ký Champa bắt đầu từ sớm,
trong “triều đại thứ hai” (336 - 420) của mình, ông đã kê ra cái tên Bhadravarman
[भद्रवर्मन्*] đầu
tiên (rõ ràng là thấy trong ba bi ký được định niên đại dựa vào khoa nghiên cứu
cổ bản thuộc thế kỷ V) được tiếp tục bởi một गंगाराज* Gaïgārāja nào đó mà ông đã đồng nhất
với một Di Zhen nào đó trong văn liệu Trung Quốc ghi chép về Lâm Ấp; tuy nhiên गंगाराज* Gaïgārāja
chỉ được đề cập theo cách hồi tưởng trong bi ký C96 năm 658 của Vikrāntavarman
[विक्रान्तवर्मन्*].
Sau đó trong toàn bộ giai đoạn từ đầu thế kỷ V đến thế kỷ VII ngay cả bi ký C96
cũng không có bi ký nào, vì vậy mà cái tên chữ Phạn không chắc chắn, có thể được
phân tích để thể hiện một Fan trị vì cho đến रुद्रवर्मन्* Rudravarman
I, lại được đặt tên theo cách hồi tưởng trong bi ký năm 658 và cái tên đó đã được
phiên âm một cách đáng tin cậy bằng chữ Hán là Lu-tuo-luo-ba-mo [庐陀罗跋摩* Lư Đà La Bạt Ma*] trong
một sử liệu ghi năm 529 39. Một cái tên वर्मन्*
varma (chữ Hán là ba-mo 跋摩*) khác Pi-cui-ba-mo
[范弼毳跋摩* Phạm Bật Thuế
Bạt Ma*] xuất
hiện sớm hơn đôi chút trong sử liệu Trung Quốc, được Maspéro định niên đại
526-7 và dịch ra chữ Phạn không phải là không có lý विजयवर्मन्*
Vijayavarman – nhưng lại không hề thấy trong bi ký. Tuy nhiên cái tên của
người kế vị Vijayavarman được khôi phục lại - Devavarman देववर्मन्* từ Fan Tiankai [范天凱* Phạm Thiên
Khải*]
thì lại không thể chấp nhận được, cho dù Pelliot hoàn toàn không
phản đối 40. Vì vậy, đối với cái mà Maspéro gọi là “triều đại thứ
ba” (420 – 530), tôi sẽ nói rằng cái mà chúng ta có là Lâm Ấp theo sử liệu
Trung Quốc , nhưng có lẽ lại không hề có gì về Champa. Đối với “triều đại thứ
tư” (529 – 757), toàn bộ những cái tên tiếng Phạn đều là của những người kế vị
trong bi ký Vikrāntavarman năm 658, ngoại trừ रुद्रवर्मन्* Rudravarman
đệ nhị.
Cách xử lý mới mẻ và triệt để nhất
về chủ đề này là Southworth. Ông chấp nhận các bằng chứng văn bản Trung Quốc
cho rằng Lâm Ấp gốc là ở phía bắc Huế và trình bày một phát hiện mới từ các nguồn
Trung Quốc – “một trong những điều ngạc nhiên nhất của đề tài này”, cụ thể là “có
các tư liệu nói về mười vương quốc dọc ven biển Việt Nam, bao gồm cả vương quốc
Tây Đồ...[通典,卷一八八林邑國條,又注引,林邑國記之西屠國* -
Sách Thông điển quyển nhất bát bát Lâm Ấp điều, hựu chú dẫn Lâm Ấp quốc ký chi Tây Đồ quốc* - Sách
Thông điển, quyển 188, hạng mục Lâm Ấp, có chú dẫn Lâm Ấp quốc ký nói về nước Tây Đồ*]...là nước
đầu tiên trong số các quốc gia độc lập cách Lâm Ấp 200 dặm (100 – 120km) về
phía nam, “cho thấy một cách khá chắc chắn vị trí của quốc gia này nằm trong hệ
thống lưu vực sông Thu Bồn” 41. Sau đó vào các thế kỷ V-VI (giai đoạn
mà cả Stein và Boisselier đều đồng ý là Lâm Ấp gốc có thể đã hợp nhất với
Champa sớm), “sự phân biệt giai đoạn đầu giữa Lâm Ấp và Tây Đồ trong các sử liệu
Trung Quốc đã dần dần trở nên lẫn lộn và các ghi chép về lịch sử của họ đã hợp
nhất lại”. Điều này thấy rõ trong các mâu thuẫn giữa hai bộ sử Trung Quốc khác
nhau cùng ghi về giai đoạn này. Trong Nam sử thì vua Lâm Ấp Fan Hu-da, tài liệu muộn nhất xác
định niên đại là năm 413, đã nhường ngôi cho người con trai Fan Yang-mai, mà
niên đại đầu tiên của vị này lại là niên đại mà một phái bộ được gửi đến Trung
Quốc, năm 421. Tuy nhiên trong Lương thư, Fan Hu-da lại truyền ngôi cho con là
Di-zhen, là người đã thoái vị để nhường cho ngôi cho một người cháu, rồi người
này bị giết, sau đó một người anh em của Di-zhen [敵真* Địch
Chân] đã lên ngôi có tên gọi là Wen-di [文敵 Văn Địch].
Đến lượt mình, ông lại bị người con trai của vua Phù Nam giết chết; một Fan
khác là Fan Zhou-nong, [范諸農* Phạm Chư Nông] đã
trở thành vua và con trai ông là Fan Yang-mai [范陽邁* Phạm Dương Mại] kế vị, rồi gửi sứ bộ sang Trung Quốc vào năm 421 42. [文敵後為扶南王子當根純所殺,大臣范諸農平其亂,而自立為王. 諸農死,子陽邁立*. Văn Địch hậu vi Phù Nam vương tử đương căn thuần sở sát, đại thần Phạm Chư
Nông bình kỳ loạn, nhi tự lập vi vương. Chư Nông tử, tử Dương Mại lập – Sau đó
Văn Địch bị con của Phù Nam vương là Đương Căn Thuần giết, đại thần Phạm Chư
Nông dẹp xong loạn ấy, tự lập làm vua. Chư Nông chết, con là Dương Mại kế vị*].
Như Southworth đã lưu ý, khó mà có
đủ thời gian cho bấy nhiêu sự kiện xảy ra trong vòng từ năm 413 – 421, và người
Trung Quốc chắc chắn đã đưa nhầm câu truyện của một chính thể khác vào đó. Cái
tước vị Di/Địch trong tiếng Hán và tiếng Việt hoàn toàn không có trong truyền
thống Lâm Ấp như cách ghi của người Trung Quốc, còn báo cáo của họ thì ghi lại
rằng Di Zhen/Ðịch Chân đã từ bỏ ngai vàng và đi hành hương đến sông Hằng tại Ấn
Độ đã đồng nhất ông với Gaïgārāja trong bi ký C96 Mỹ Sơn. Vậy là người có tên Địch
là thuộc lưu vực sông Thu Bồn, có thể là Tây Đồ, và đó được gọi là “sự trùng hợp
rõ ràng sớm nhất giữa một vị vua Lâm Ấp được sử sách Trung Quốc cung cấp với một
người trị vì được ghi trong bi ký thuộc lưu vực sông Thu Bồn” 43. Có
lẽ tôi vẫn muốn coi Gaïgārāja không phải là một vị vua lịch sử, mà là tổ tiên
huyền thoại của dòng dõi Thu Bồn đầu tiên, không chỉ được đề ập đến trong bi ký
C96, mà còn cả trong bi ký C73A là Gaïgeśa, còn trong bi ký C81 là Gaïgeśvara. Vậy
là người Trung Quốc, trong tích truyện về Di-zhen đã ghi lại một huyền thoại
Thu Bồn. Nó đã không làm giảm giá trị kết luận của Southworth về sự trùng hợp
giữa các nguồn sử liệu Trung Quốc về Lâm Ấp và bi ký Thu Bồn.
Kể từ đó, theo Southworth, cái tên
Lâm Ấp có thể được coi là để chỉ vùng lưu vực sông Thu Bồn thuộc Champa; và ông
kết luận rằng cái nhà nước Tây Đồ được công nhận trước đây đã hấp thụ “lãnh thổ, các truyền thống chính trị
cũ, và hấp thụ cả các nhượng địa thương mại của người láng giềng phía bắc là
Lâm Ấp” 44. Tuy nhiên điều đó lại không có ích gì với tám thủ lĩnh
Fan được người Trung Quốc ghi lại từ khoảng năm 420 đến giữa thế kỷ VI, khi
không hề có bi ký Champa; và nếu sự thật là Lâm Ấp và tước vị Fan là Mon-Khmer
thì khó mà chấp nhận rằng Fan bị người Cham thay thế khi họ đã chấp nhận sử dụng
các tước vị Phạn varman và dharma. Tất nhiên sự thật thì yang (một
tước vị để chỉ thần hoặc hoàng gia) mai/mah (vàng) nghe có vẻ Nam Đảo, và bi ký
C96 – được cho là quay trở lại với thế kỷ V – đã cho thấy rằng người Chăm không
thể hoàn toàn chấp nhận một truyền thống những cái tên varma (chữ Hán là ba-mo 跋摩*) cho những
người trị vì của họ.
Southworth không quan tâm đến sự
khác biệt khả dĩ về ngôn ngữ-tộc người giữa Lâm Ấp và Champa. Ông thừa nhận rằng
chúng có thể là một – tức là ngôn ngữ - tộc người Nam Đảo – nhưng lại không hề
chú ý chút nào đến vấn đề này, mà chỉ nói rằng khi người Trung Quốc cướp phá thủ
đô Lâm Ấp vào năm 605, họ đã phát hiện được những cuốn sách bằng chữ Côn Lôn,
“có vẻ là một loại phương ngữ Chăm hoặc Nam Đảo” 45. Điều đó không
chắc đúng. Những gì liên quan đến Côn Lôn đều chỉ cho biết rằng đó có nghĩa là
một ngôn ngữ nào đó thuộc Đông Nam Á hải đảo mà thôi, và cũng có thể ám chỉ đến
Mon-Khmer cũng hệt như đối với Nam Đảo vậy. Thật ra thì nếu Côn Lôn là cách thể
hiện theo kiểu Trung Quốc của kuruï, như ai đó đã nói thì hầu như chắc
chắn đó là Mon-Khmer hơn là Nam Đảo. Southworth cho rằng thủ đô bị cướp phá
chính là Trà Kiệu, một di chỉ văn hóa Chăm được nghiên cứu sớm nhất về khảo cổ
học.
Trường hợp đầu tiên trong đó các sử
liệu Trung Quốc ghi về Lâm Ấp dường như thống nhất từng chữ với một cái tên thủ
lĩnh Champa trong một bi ký là 庐陀罗跋摩* Lu-tuo-ba-mo, Lư Đà La Bạt Ma*
cho रुद्रवर्मन्*
Rudravarman ngay từ thế kỷ VI. Sau đó các sử liệu Trung Quôc có ghi ba cái tên
Fan nữa, nhưng những cái tên này, pace [xin mạn phép] Maspéro, lại không hề phù hợp với các bi ký
Champa. Sau đó, ngoại trừ ba cái tên được đề cập ở trên, thì không hề còn bất cứ
Fan nào khác nữa tại Lâm Ấp hoặc Champa, nhưng cái tên Phạm (dịch âm tiếng Việt
từ chữ Hán Fan) lại rất quan trọng
trong lịch sử Việt Nam. Cho đến thế kỷ thứ VII toàn bộ Fan/ Phạm, với một ngoại
lệ khả dĩ, là những người trị vì, các vị tướng hoặc quan chức cao cấp Lâm Ấp.
Vua Lâm Ấp cuối cùng có cái tước vị đó là Fan Zhenlong [范鎮龍* Phạm Trấn Long] vào giữa thế kỷ VII; từ đó tước vị
này không bao giờ được dùng trong lịch sử Việt viết về Champa, nhưng chỉ đối với
tiếng Việt. Một trường hợp không rõ ràng duy nhất được sử dụng để chứng minh
cho quan điểm này là vào giữa thế kỷ VII, Phạm Tu, một vị tướng của cuộc nổi loạn
Lý Bí (Lý Bôn) được Maspéro mô tả là một Annamite,
là người đã lật đổ thứ sử Tiêu Tư của Trung Quốc. Phạm Tu đã đánh bại một cuộc
tấn công của vua Lâm Ấp Rudravarman 46. Phạm Tu rất có thể là một
người nào đó của Lâm Ấp cũ đã trở thành bè cánh của người Việt, kiên định với
cuộc bắc tiến của Lâm Ấp cũ, trong
khi người Trung Quốc lại sử dụng cái tên Lâm Ấp cho một trung tâm quyền lực
khác là Champa 47. Theo tôi thì vào thời Rudravarman, các thủ lĩnh
Mon-Khmer (Katu hoặc Việt Mường) của Lâm Ấp đã bắc tiến và hợp nhất với các tộc
Việt của Giao Chỉ, và tự tồn tại với tư cách là một nhóm có vị thế cao 48.
Sau đó, từ giữa thế kỷ VIII, Lâm Ấp
biến mất, bi ký mới xuất hiện ở phía Nam, và không có các sử liệu Trung Quốc
ghi về những người trị vì ở đó hoặc ở nơi được gọi là Hoàn Vương. Giai đoạn này
sẽ được thảo luận ở phần dưới. Trong phần giới thiệu, Tống Hội yếu (đã có bản dịch
tiếng Anh của Geoff Wade) nói rằng “trong các triều địa trước, đất nước này
[Chiêm Thành] hiếm khi tiếp xúc với Trung Quốc”, điều đó dường như cho thấy rằng
các sử gia Trung Quốc đời Tống đã không coi Champa là Lâm Ấp, mà lịch sử về quốc
gia này lại hoàn toàn dựa vào các ghi chếp về các mối quan hệ với Trung Quốc 49.
Một điều đáng ngờ khác về sự đồng nhất giữa Champa sớm và Lâm Ấp ngầm ẩn trong
các ghi chép của Huyền Trang và Nghĩa Tĩnh, trong đó có nói về “Chiêm Bà” rõ
ràng là cố gắng dịch âm “Champa” sang Hán ngữ. Điều đó cho thấy rằng các bộ sử
chính thức của Trung Quốc, sau đó chỉ viết về Lâm Ấp, đã bỏ qua Champa đã tồn tại
và tách riêng, có lẽ vì các trung tâm Champa chưa đủ phát triển để bắt đầu thu
hút được mối quan tâm của người Trung Quốc với tư cách là các đối tác thương mại
hoặc các chính thể thần thuộc 50.
Tất cả các sử gia buổi đầu đồng nhất Lâm Ấp với Champa sớm đều tin
tưởng rằng người Chăm đã di chuyển trên đất liền đến các khu sinh cư mới và vì
vậy mà đã có mặt ở vùng được gọi là bắc bộ và trung bộ Việt Nam ngày nay trong
hàng trăm năm, thậm chí có thể là hàng ngàn năm. Sự đồng thuận mới dựa trên
ngôn ngữ học cho rằng người Chăm chỉ đến đó bằng đường biển vào các thế kỷ cuối
cùng TCN, có lẽ với số lượng tương đối nhỏ, trong một vùng đã có người của các
nhóm ngôn ngữ-tộc người khác cư trú, và sau đó đã phát triển về phía tây, đến
vùng Tây Nguyên, dường như khó mà tin được rằng vào các thế kỷ đầu SCN họ đã có
thể thống trị một vùng xa hơn về phía bắc mà các lý giải của người Trung Quốc về
Lâm Ấp ngụ ý. Mãi về sau này họ đã thực sự mở rộng sang các lãnh thổ của của
lâm Ấp tại Quảng Trị và Quảng Bình và có thời người Trung Quốc dường như đã phải
sử dụng cái tên cũ “Lâm Ấp” cho cái thực sự là “Chiêm Bà” mới.
___________________________________
Nguồn: Michael Vickery 2005. Champa revised, Asia Research Institute Working Paper Series No. 37, 2005. The ARI Working Paper Series is published electronically by the Asia Research Institute of the National University of Singapore.
Tác giả: Chân thành cảm ơn Bruce Lockhart
đã giúp chuẩn bị bản thảo để công bố trong ARI Working Papers Series.
Ghi chú của người dịch: Các từ có đánh dấu sao [*] là do tôi, Hà Hữu Nga, trộm tìm, dịch sang tiếng Phạn, tiếng Hán và tiếng Việt để tiện cho bản thân trong việc nghiên cứu, so sánh và xác định nghĩa của từ mà thôi.
Tài liệu dẫn
34. Southworth, ‘Origins of
Campā’; Stein, Lin-yi, pp. 317-8.
35. Vickery, Society, economics and politics.
36. Về Việt-Mường và Katu, xem
Gérard Diffloth, ‘Vietnamese as a Mon-Khmer language’, in Papers from the
first annual meeting of the Southeast Asian Linguistics Society, ed. Martha
Ratliff and Eric Schiller (Tempe, AZ , Arizona State University Press, 1992),
pp. 125-39 và một bài của cùng tác giả trình bày tại Viện Ngôn ngữ học, Hà Nội,
dẫn trong Nguyễn Hữu Hoành, Tiếng Katu cấu tạo từ (Hà Nội: NXB Khoa học
Xã hội, 1995), tr. 21-2, 219.
37. Vickery, Society, economics
and politics; Vickery, ‘Funan reviewed’; Paul Pelliot, ‘Le Fou-Nan’, BEFEO,
3 (1903): 248-303, có cung cấp âm cổ.
38. Maspéro, Royaume de Champa, pp. 54-55, 62, 72, 74, 61
respectively; Phạm Côn Sa Đạt có trong Tt, Ngoại kỷ, 4:11b (v. 1,
p. 175).
39. Có những bi ký khác thuộc thế
kỷ VII không có niên đại theo năm, có kê têm một số trong bi ký C96 (Schweyer,
‘Chronologie des inscriptions’, p. 326).
40. Maspéro, Royaume de Champa,
pp. 245-6; Pelliot ‘Deux itinéraires’, p. 384, n. 3; trong trường hợp đặc biệt
này họ cho rằng thuật ngữ Trung Quốc đã thể hiện một từ dịch chứ không phải là
phiên âm của cái tên Chăm đó.
41. Southworth, ‘Origins of Campā’, pp. 335, 292-3, 291
respectively.
42. Ibid., pp. 303-4. Xem tóm tắt
các sự kiện này và các nguồn trong Pelliot, ‘Deux itinéraires’, pp. 382-3, n.
9, trong đó các mối quan hệ gia đình thể hiện rõ ràng hơn trong Southworth.
43. Southworth, ‘Origins of
Campā’, pp. 302-4. Maspéro, Royaume de Champa, pp. 63-5 đã nhận thấy sự
đồng nhất Địch Chân (‘Ti Tchen’) với Gaïgārāja, nhưng vì ông tin rằng Lâm Ấp và
Champa là một nên không bàn luận gì đáng kể về việc này.
44. Southworth, ‘Origins of Campā’, p. 318. ịch
45. Ibid., p. 312.
46. Maspéro, Royaume de Champa, p. 81; Keith W. Taylor, The
birth of Vietnam (Berkeley: University of California Press, 1983), pp.
136ff. Maspéro sử dụng chữ ‘Lý Bổn’, một cách đọc khác, vì một số vùng ở bắc Việt
Nam kiêng âm “Bí” để tỏ lòng kính ngưỡng ông.
47. Southworth, ‘Origins of
Campā’, p. 309, trong đó ông đã dịch nhầm Maspéro liên quan đến kết quả cuộc
chiến giữa Rudravarman và Phạm Tu, khi viết rằng Rudravarman là thắng lợi và điều
đó đánh dấu chiến thắng chung cuộc của Tây Đồ với Lâm Ấp. Trong khi đó Maspéro
(Royaume de Champa, p. 81) viết: "Il [Rudravarman] y rencontre
un général de Ly Bon, Phạm Tu, est défait et réintegre son royaume" (Ông chạm
trán tướng của Lý Bổn, là Phạm Tu, bị đánh bại và lui về vương quốc của mình”.
Còn Southworth (p. 309) thì lại dịch là: “Rudravarman ...[đã] tấn công một
trong những vị tướng của Lý Bôn có tên ... Phạm Tu, đánh chiếm lãnh thổ của vị này và gộp vào Lâm Ấp”. Taylor, Birth of Vietnam, p. 138, đã ghi
chú chính xác rằng “Quân đội Lâm Ấp đã bị đánh bại và phải rút lui”.
48. Cần phải nhấn mạnh rằng các
thuật ngữ “Mon-Khmer”, “Vietic”, và “Việt-Mường” là các thuật ngữ của ngành
ngôn ngữ và các nhà ngôn ngữ gộp vào đó toàn bộ nhóm ngôn ngữ Mon – Khmer. Điều
đó có nghĩa là nếu cái tên “Việt” có nguồn gốc từ “Yue” của vùng Nam Trung Quốc
cổ thì người “Mường” lại không phải là các tổ tiên ngôn ngữ học của Việt Nam
ngày nay, các ngôn ngữ và phương ngữ của nó (ngoại trừ nhóm Tai ở Tây Bắc và vài
nhóm nhỏ Tibeto-Burman và Kadai) có các nguồn gốc tại Nghệ An và các vùng xung
quanh Lào. Không nghi ngờ gì nữa, nếu tiếp cận từ phương diện này thì tiền sử Việt
Nam chắc chắn phải được xem xét lại.
49. Geoff Wade, bản dịch Song
Huiyao Tống Hội yếu. Như Wade đề xuất, “các tên gọi chính thể sớm mà ngày nay gắn liền với Champa, chẳng hạn như Lâm Ấp và Hoàn Vương lại
không được các trụ cột của SHYJG gắn với chính thể này của Chiêm Thành”. Cần
không được quên rằng hiện nay việc gắn những cái tên Lâm Ấp và Hoàn Vương với
các niên đại Champa chỉ mới có trong các nghiên cứu của giới học giả Châu Âu.
50. Stein, Linyi, pp. 234-5.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét