Powered By Blogger

Thứ Hai, 10 tháng 12, 2012

Đô thị và Vùng kinh tế*



Đô thị và Vùng kinh tế*

Hà Hữu Nga 

1. Vai trò đô thị trong phát triển vùng kinh tế

Sự tăng tốc, tăng phạm vi, qui mô và tính phức hợp của toàn cầu hoá ngày càng tác động mạnh mẽ đến quá trình chuyển đổi các cấu trúc không gian và cấu trúc xã hội. Trong những năm gần đây rõ ràng có rất nhiều cách định nghĩa, phân loại và quản lý các loại hình đô thị mới (thành phố thế giới, siêu đô thị, các vùng đô thị trung tâm mở rộng) gắn liền với các thực tiễn kết nối toàn cầu và kết nối các lực lượng kinh tế. Cùng với quá trình toàn cầu hoá người ta đã chú ý nhiều hơn đến các thành phố và các vùng đô thị khi phải đối mặt với những thách thức lớn hơn để cố chống lại những sức ép và những hệ luỵ của một nền kinh tế toàn cầu mới. Ngày nay có một loại hình không gian mới thu hút sự chú ý của các nhà nghiên cứu phát triển vùng, đó là hệ thống thành phố thế giới.

Theo Douglass [1998] thì “thành phố thế giới” là một thuật ngữ đã có từ lâu, do Geddes sáng tạo ra năm 1915 sau đó đã được Peter Hall sử dụng lại năm 1966. Tuy nhiên việc sử dụng thuật ngữ ấy không bao hàm các quá trình toàn cầu hoá đã diễn ra sau những năm 60. Sassen [1997] cũng cho thấy các quá trình này bao gồm toàn cầu hoá sản xuất công nghiệp và sự phát triển đầy đủ các lĩnh vực tài chính ở phạm vi thế giới. Ngày nay các thành phố thế giới đã có vai trò là “những quá trình tập trung thông tin khổng lồ” về các cơ hội đầu tư, các thị trường, về việc quản lý và thực tế đó đã tạo điều kiện cho sự phát triển “một hạ tầng rộng lớn bao gồm các điểm nút chiến lược với mức độ siêu tập trung của các phương tiện”. Hiện nay các chính phủ ra sức chạy đua trong cuộc cạnh tranh nhằm tái cấu trúc lại các vùng đô thị chủ yếu của nó nhằm dành được vị thế thành phố thế giới bằng cách tạo ra môi trường cho tư bản toàn cầu và để sản xuất các dịch vụ hỗ trợ cho phép “tăng tập trung hoá các chức năng kiểm soát xuyên quốc gia là cái cần thiết để quản lý các hoạt động và các liên kết rải khắp toàn cầu”. Vì vậy các thành phố thế giới đã được coi là những điểm kiểm soát và các trung tâm quyền lực và ra quyết định [Clarke 1996].

Có sự phân biệt các tiêu chuẩn để xác định một thành phố thế giới hoặc phân loại các thành phố hiện tồn trên thế giới. Ba học giả chủ yếu đã đưa ra các quan điểm của họ về vấn đề có liên quan. Theo Friedmann [1995] thì có bốn tiêu chuẩn: 1) số lượng các trụ sở của các thể chế quốc tế; 2) sự tăng trưởng nhanh của khu vực doanh nghiệp; 3) các phương thức giao thông vận tải chủ yếu; 4) sự tồn tại của một trung tâm tài chính chủ chốt. Simon [1995] đã giảm các tiêu chuẩn chủ yếu xuống còn ba, nhưng lại đưa thêm các phương tiêu chuẩn mới: 1) sự tồn tại của một phức hợp dịch vụ tài chính tinh xảo phục vụ cho một nhóm khách hàng toàn cầu; 2) một cấp độ mạng lưới quốc tế của các dòng thông tin truyền thông về vốn; và 3) một chất lượng sống cho phép hấp dẫn và lưu giữ được những người di cư quốc tế có kỹ năng lao động cao. Ngoài ra Short và các cộng sự [1996] cũng liệt kê tám loại chức năng thể hiện một thành phố có vị thế thế giới. Đó là: 1) tài chính (ngân hàng, chứng khoán, bất động sản, bảo hiểm); 2) các trụ sở công ty xuyên quốc gia (sản xuất/phân phối hàng hoá); 3) bốn dịch vụ bắt buộc (các dịch vụ cho nhà sản xuất công nghệ cao: giáo dục, y tế, bảo hiểm, giải trí); 4) giao thông vận tải (hàng không, hàng hải); 5) thông tin (sáng tạo, xử lý, phân phối); 6) hệ tư tưởng/chính trị (các mối liên hệ giữa xã hội dân sự và hoạt động kinh tế của chính phủ; 7) văn hoá (“sản xuất”/phân phối); và 8) các sự kiện “ngoạn mục” tầm cỡ thế giới.

Sự hình thành hệ thống thành phố thế giới có một tác động lớn theo cách thức chiến lược phát triển vùng được xác lập tại nhiều quốc gia khác nhau vì nó có một ý nghĩa quan trọng đối với khả năng cạnh tranh của đất nước. Việc thay đổi lợi thế so sánh từ các nguồn tự nhiên sang “các tài sản được sáng tạo ra” [UN 1995] bao gồm những khoản đầu tư vào môi trường đã được xây dựng là một thách thức mới mà ngày nay các quốc gia đều phải đối mặt. Douglass [1998] đã đưa ra câu hỏi liên quan đến vấn đề này: 1) các thành phố có thể phát triển cũng như suy thoái vì cạnh tranh liên thành phố tăng ở quy mô quốc tế không?; và 2) việc xây dựng một thành phố thế giới có thể được tăng tốc và có thể đạt được thông qua các can thiệp chính sách có mục đích của chính phủ không? Khi suy ngẫm về các câu hỏi này, ông đã thừa nhận rằng hiện tượng xây dựng một thành phố thế giới là một quá trình cạnh tranh năng động chứ không phải là một kết thúc phát triển. Vì vậy sẽ không có gì đảm bảo rằng các thành phố đang đứng ở vị trí đầu bảng vẫn sẽ tiếp tục duy trì được vị trí của nó; và các thành phố, thông qua quy hoạch chiến lược hoàn toàn có thể chiếm lĩnh được một vị thế như vậy. Liên quan đến vấn đề này, ông viện dẫn sự chuyển mình gần đây của các chính phủ ở Châu Á hướng đến cái mà ông gọi là “sự hình thành thành phố thế giới có tính hướng đích”. Tại Hàn Quốc, Viện Nghiên cứu An cư Nhân văn (Korea Research Institute for Human Settlements - KRIHS) đã xây dựng kế hoạch phát triển Seoul trở thành một trung tâm toàn cầu chủ chốt. Để đạt được mục đích này, người ta đã thiết lập một qui hoạch không gian và đã xác định những siêu-dự án chủ đạo trong đó có nhiều dự án nằm ngoài lãnh thổ quốc gia Hàn Quốc. 

Hồng Kông, một trung tâm ngân hàng và truyền thông của vùng Châu Á Thái Bình Dương vừa mới xây dựng xong một sân bay tầm cỡ thế giới mới vì vậy mà đã tăng cường được vị thế của nó trong cạnh tranh toàn cầu. Singapore bên cạnh việc củng cố Sân bay Quốc tế Changi để cạnh tranh với Hồng Kông đã bắt đầu thực hiện các kế hoạch để trở thành một trung tâm thông tin Châu Á và Thế giới. Họ đã kiến tạo các “sinh cư khoa học” bao gồm “các môi trường làm việc - sống - học tập và giải trí tổng thể, đồng hợp chất lượng cao” để thu hút và lưu giữ các tài năng hàng đầu, đồng thời xây dựng công viên tài chính viễn thông số một trên thế giới cho các hệ thống truyền thông và computer [Corey 1997]. Malaysia cũng chứng tỏ một tham vọng lớn trong việc tạo đà cho Kuala Lumpur trở thành một thành phố thế giới. Bắt đầu bằng việc xây dựng toà Tháp đôi cao nhất thế giới, nước này đã xúc tiến kế hoạch phát triển một khu trung tâm văn phòng xung quanh toà tháp đó. Thành phố sẽ kết nối với một sân bay quốc tế được thiết kế để trở thành trung tâm toàn Châu Á. Một Siêu Hành lang Đa phương tiện cứng hoá với hạ tầng viễn thông tối tân đã được lắp đặt nhằm tạo ra các thành phố “kỹ thuật số” và các hành lang liên đô thị [Mercado R.G. 2003]. 

2. Vùng kinh tế siêu đô thị

Vào những năm 70 hầu hết tư duy và chính sách về các vùng đô thị trung tâm đều nhằm làm chậm lại mức độ tăng trưởng của nó bằng cách phát triển các vùng khác của đất nước. Vào những năm 1990 bằng lập luận dựa trên việc kiểm soát sự tăng trưởng của nó, định hướng chính sách đã thay đổi nhằm quản lý tốt hơn các vị trí này. Hơn nữa điều đó liên quan đến quan điểm cho rằng các vùng trung tâm đô thị lớn tạo ra thịnh vượng, việc làm, tư tưởng, lợi nhuận và sự tăng trưởng của nó là có lợi cho toàn bộ nền kinh tế quốc gia. Việc quản lý tốt các đô thị trung tâm cũng gắn liền với mục đích phát triển bền vững vì đó là những vấn đề hàng đầu của quá trình phát triển. Tuy nhiên người ta cũng thấy rõ rằng với qui mô sẵn có, với mật độ dân số cao, các vùng đô thị trung tâm mắc phải hàng loạt vấn đề nghiêm trọng về môi trường, đất đai, quản lý giao thông [Stubbs and Clarke, 1996]. Sự tăng trưởng chắc chắn và không thể dự đoán trước trong khu vực đô thị và nhu cầu quản lý trí tuệ được coi là thách thức chính khi tương lai nhân loại  chủ yếu mở ra bằng con đường đô thị [Fuchs 1994]. Siêu đô thị là thuật ngữ được sử dụng để mô tả một thành phố mà dân số của nó vượt quá 8 triệu người (theo định nghĩa của Liên hợp quốc (UN) 1980) hoặc 10 triệu theo các văn liệu mới đây [Clarke 1996]. Trong khi định nghĩa này chỉ dựa trên quy mô dân số thì tính chất phức tạp của một siêu đô thị và vai trò ngày càng tăng của nó trong quá trình phát triển không ngừng mở rộng. Vì vậy cần phải xây dựng chính sách và hệ thống đánh giá dựa trên một tập hợp toàn diện các tiêu chuẩn đã được đề xuất để phân loại các siêu đô thị, bao gồm cả các nguồn tài chính, cấu trúc công nghiệp/thương mại, vai trò chính trị, các phương tiện giáo dục, nguồn nhân lực khoa học, các chức năng dịch vụ, và vị trí của nó trong hệ thống thế giới. Trong khi đó các siêu đô thị được xác định dựa vào định nghĩa mới đây nhất với 10 triệu dân hoặc nhiều hơn. Vào thời gian 1994 đã có 14 siêu đô thị trong đó có 9 ở Châu Á. Vào năm 2015 dự tính sẽ có 28 thành phố, trong đó 17 sẽ là các thành phố thuộc Châu Á [Goldstein 1994].

Năm 1994 một hội nghị chủ yếu được ADB (Asian Development Bank), WB (World Bank) và Liên hợp quốc (United Nations) đồng tài trợ đã thực hiện các nghiên cứu quản lý siêu đô thị vì chúng liên quan đến các cấu trúc thể chế, quản lý môi trường, quản lý giao thông, quản lý đất, phát triển khu vực tư nhân, phát triển tài chính trong cả viễn cảnh vĩ mô và các kinh nghiệm riêng của các siêu đô thị cùng các mối quan tâm đó [Stubbs and Clark, 1996]. Hội nghị đã đưa ra các khuyến nghị về các vấn đề sau: i) củng cố các chính quyền địa phương bằng cách ra các quyết định minh bạch hơn và cải thiện điều phối cả theo chiều dọc và chiều ngang; ii) điều tiết nhu cầu về các dịch vụ chẳng hạn như nhu cầu về cấp nước và giao thông tư nhân; iii) giảm việc gây thêm chất thải và ô nhiễm; iv) làm cho đất sinh lợi và chuyển giao đất hiệu quả hơn; v) tư nhân hoá các dịch vụ và/hoặc các hoạt động liên quan đến việc cung cấp dịch vụ ở những nơi mà khu vực tư nhân có thể thực hiện hiệu quả hơn khu vực công cộng; vi) tăng cường trách nhiệm của người sử dụng các dịch vụ chẳng hạn như cấp nước và giao thông công cộng, tạo ra lợi nhuận cao hơn từ thuế tài sản; và vii) khai thác tốt hơn các nguồn vốn phi chính phủ. Báo cáo cũng đã nhấn mạnh đến những thách thức mà các thành phố phải đối mặt và đã đưa ra quan điểm cho rằng việc quản lý tốt các thành phố có thể tạo ra một môi trường kinh tế cung cấp nhiều cơ hội việc làm và đa dạng hoá các hàng hoá và dịch vụ hơn [Stubbs and Clark, 1996]. 

3. Đô thị hoá vùng kinh tế

Khuynh hướng đô thị hoá và phát triển các thành phố rất lớn tại các quốc gia đang phát triển đang trở thành mối quan tâm của rất nhiều nhà nghiên cứu thế giới. Vào năm 2000 người ta đã ước tính 45% dân số các nước đang phát triển sống trong các vùng đô thị [Oberai 1993: 58-73]. Các thành phố này thường tạo ra những trung tâm nghèo đói, bất bình đẳng thu nhập, ô nhiễm môi trường và nhiều vấn đề xã hội kèm theo. Nhưng dù sao đô thị hoá vẫn được đánh giá là một tiến trình cần thiết và quan trọng của phát triển, đặc biệt là phát triển vùng. Giờ đây người ta đã thừa nhận rằng đô thị hoá được tạo bởi một trào lưu hướng tới năng suất và hiệu xuất kinh tế tăng, và nói chung nó đem lại nhiều lợi ích. Mặc dù di cư không phải là nguồn chính của hiện tượng tăng trưởng dân số đô thị nhưng những người di cư trẻ tuổi đã làm tăng tỷ lệ dân số đáng kể khi họ tới sống tại đô thị và làm cho tỷ lệ sinh tăng và tỷ lệ chết giảm. Tại các nước đang phát triển đô thị hoá chủ yếu bắt đầu bằng các dòng lao động thừa ở vùng nông thôn đổ vào đô thị. Vì khu vực nông thôn không đủ sức đảm bảo cho số cư dân này nên đô thị hoá và sự phát triển của các thành phố đã trở thành một tất yếu. Trong khi đó các thành phố cũng không cung cấp đủ việc làm cho lực lượng lao động dư thừa này nên đã xuất hiện tình trạng nghèo đói đô thị do đô thị hoá quá nhanh. Ngoài ra người di cư còn phải đối mặt với một trạng huống khác, đó là họ bị hút vào các  thành phố bởi các lực kinh tế rất mạnh với hy vọng tìm được cơ hội cải thiện việc làm và chất lượng sống. Về phương diện lý thuyết, các yếu tố quyết định di cư thường là những lực lượng quyết định vị trí tạo ra việc làm - thực chất và mô thức công nghiệp hoá, bước phát triển của nông nghiệp, và sự tăng trưởng của các mạng lưới giao thông và thông tin truyền thông. Trên thực tế không phải là những người di cư quyết định tỷ lệ và mức độ đô thị hoá mà chính là vị trí và tỷ lệ tăng trưởng của công nghiệp và nông nghiệp tạo thêm việc làm trong các vùng  này đã quyết định quá trình đô thị hoá [Oberai 1993: 58-73].

Hiệu quả kinh tế đặc trưng cho quá trình đô thị hoá vùng có thể được xem xét bằng mô hình quá trình kinh tế đơn giản hoá. Đô thị hoá vùng đóng góp cho sự phát triển vùng bằng cách tăng hiệu quả và đầu ra cả ngắn hạn lẫn dài hạn. Với các quá trình ngắn hạn hiệu quả được tạo ra thông qua sự di chuyển lao động đến một vị trí có năng suất cao hơn, đó là các khu vực đô thị. Lợi thế kinh tế rõ ràng nhất của các đô thị chính là năng suất sinh ra từ ba điều kiện kinh tế. 1) Trước hết các thành phố tạo ra các lợi thế qui mô kinh tế đô thị trong đó bao gồm hai thị trường đều lớn, đó là thị trường cung và thị trường cầu, nhưng quan trọng là hai thị trường này lại là một về phương diện không gian. Yếu tố không gian này đã giúp tối thiểu hoá chi phí sản xuất trung bình, đặc biệt là các loại phí vận tải và phí truyền thông, giao tiếp được giảm đi đáng kể. 2) Thứ hai, lợi thế tập trung kinh tế  trong các thành phố cũng làm tăng năng suất. Việc các xí nghiệp cùng loại hoặc có liên quan đến nhau tập hợp thành cụm làm tăng đáng kể các hiệu suất bổ sung cũng giúp làm giảm các chi phí. 3) Cuối cùng, các thành phố có các lợi thế vị trí hơn hẳn trong việc tăng hiệu suất, chẳng hạn sự có sẵn của các nguồn tự nhiên trên thị trường cùng mạng lưới giao thông vận tải. Lợi thế năng suất ở các thành phố rất lớn,các nhà kinh tế học vùng ước tính vào khoảng 60% GDP của các nước đang phát triển được tạo ra tại các khu vực đô thị, mặc dù các khu vực này chỉ chiếm 1/3 dân số [Peterson 1991: 17].

Hiệu suất cao của các vùng đô thị cho phép trả lương cao cho người lao động. Khi thu nhập tăng thì các khoản tiết kiệm cũng tăng và làm tăng thêm nguồn vốn cho công nghiệp hoá. Mặc dù các nhu cầu vốn ban đầu ở các vùng đô thị thường cao hơn so với các vùng nông thôn nhưng việc đầu tư vào vùng đô thị sẽ đưa lại các lợi ích to lớn về y tế, xã hội và thương mại so với vùng nông thôn. Kích thích tố thứ hai đối với tăng trưởng đô thị khi thu nhập tăng là các hiệu ứng Engel. Người tiêu dùng sẽ chi tiêu với một tỷ lệ cao khoản thu nhập bổ sung để mua sắm các loại hàng xa xỉ và dành một tỷ lệ nhỏ cho các hàng hoá cơ bản. Do đó tăng thu nhập sẽ hạ thấp toàn bộ khoản chi cho các nhu cầu thiết yếu như lương thực chẳng hạn. Như vậy có nghĩa là cấu trúc cá nhân bắt đầu thay đổi từ sản xuất nông nghiệp sang các hàng hoá phi lương thực chẳng hạn như chăm sóc sức khoẻ, nhà cửa, các loại hàng gia công, kích thích mở rộng thêm khu vực công nghiệp [Williamson 1991: 247]. Quá trình mở rộng này dẫn đến tăng cơ hội có việc làm vì vậy cũng làm tăng mức di động của các yếu tố lao động, trước hết là di cư. Tuy nhiên vì mật độ dân số các vùng đô thị tiếp tục tăng thì giá đất và các chi phí chung cho cuộc sống sẽ tăng theo bằng cách thu hẹp khoảng cách lương thực tế giữa việc làm ở nông thôn và ở vùng đô thị. Tuy nhiên vượt khỏi một điểm phát triển đô thị thì các lợi ích biên của lợi thế qui mô và lợi thế tập trung kinh tế sẽ giảm đi nhanh chóng. Các hiệu ứng này được sử dụng để làm chậm các quá trình di cư và đô thị hoá, vì về phương diện lý thuyết có thể đạt được kích cỡ đô thị cân bằng ở những nơi mà các lực lượng tạo điều kiện cũng như cản trở tăng trưởng đô thị sẽ cân bằng. Đô thị hoá một cách hiệu quả sẽ thực sự tạo ra một mạng lưới tích hợp đô thị trong đó mối vùng đô thị chuyên môn hoá vào một số hoạt động kinh tế khác nhau [Oberai 1991: 60 - 67]. Cuối cùng hiệu quả dài hạn của đô thị hoá sẽ làm tăng mức thu nhập trong toàn bộ nền kinh tế.

Trong những năm gần đây, một số học giả đã cố gắng cảnh báo về sự sùng bái quá đáng các thành phố mà bỏ quên nông thôn, vì vậy họ đã đưa ra lý thuyết phát triển vùng tổng hợp đô thị và nông thôn. Koppel [1991] cho rằng cần phải thừa nhận sự tồn tại của hiện tượng phân đôi trong khuôn khổ mật độ dân số và văn hoá vật chất và không thể phủ nhận được rằng vẫn phải có những vùng nông thôn. Tuy nhiên giới nghiên cứu đã chưa thể tìm ra được một lập trường trung dung cho việc định nghĩa phát triển giữa hai khu vực thay cho việc nhấn mạnh duy nhất chiều góc đô thị. Ông cho rằng phát triển đã hầu như trở thành đồng nghĩa với đô thị và vì vậy mà luôn luôn bị cuốn hút vào việc định nghĩa quá trình chuyển đổi nông thôn – đô thị của một vùng là cận-đô thị hoá hoặc trung điểm của liên thể nông thôn-đô thị là “cận-đô thị”. Ông cũng gợi ý rằng cần phân tích kinh tế - xã hội ở các vùng tương tác đang nổi lên ấy không phải với tư cách là dạng chuyển tiếp mà là những dạng riêng biệt độc lập với các tác động nông thôn hoặc đô thị. Một số tác giả đã định nghĩa các vùng mới này là các vùng đô thị trung tâm mở rộng [Ginsburg, 1991; McGee, 1991], là đô thị trung tâm phân tán [Jamieson,1991] và vùng xen cài đô thị trung tâm [Zhou Yixing 1991]. Những thái độ dè dặt về các thuật ngữ này đã thể hiện rõ khi họ gợi ý khái niệm “mảnh vãi đô thị” hoặc là sự mở rộng các khu vực xây dựng một thành phố lớn hơn là xuất hiện hoặc nhận ra các liên kết giữa hai khu vực này.

Douglass [1998] đã khẳng định rằng sự phân đôi nông thôn – đô thị không còn hữu dụng với tư cách là những loại hình tổ chức mới của sản xuất, công nghệ nữa, và tính di động lao động đã xuất hiện thông qua các khả năng siêu việt của viễn thông và các mạng lưới giao thông cũng như công nghệ sinh học. Sau đó ông cho rằng quan niệm thay thế cho sự phát triển nông thôn tái định nghĩa các vùng nông thôn không còn chỉ có duy nhất nông nghiệp với các thôn làng nữa mà còn là “một phần của mạng lưới vùng và đô thị mở rộng vượt khỏi nông thôn vươn tới các phạm vi toàn cầu”. Mô hình mạng lưới vùng được ông đề xuất là loại gạt bỏ mô hình cực/trung tâm tăng trưởng trong khuôn khổ mở rộng các khu vực kinh tế  không giới hạn ở hệ thống gia công đô thị. Đó là một hệ thống đô thị bình diện bao gồm một số trung tâm kết nối với các vùng nội địa, một trường tương tác phức hợp nông thôn – đô thị với các kích thích tố tăng trưởng nảy sinh từ cả các vùng nông thôn lẫn đô thị và sự phụ thuộc vào các hệ thống quy hoạch giải tập trung, đòi hỏi những can thiệp chính sách không chỉ liên quan đến công nghiệp mà còn liên quan đến công-nông nghiệp, đến việc gia công dựa trên các nguồn và sự đa dạng hoá nông nghiệp cũng như các dịch vụ đô thị ở mức độ đáng kể.
_________________________________________

Ghi chú: * Bài viết được hoàn thành năm 2008, Đề tài cấp Bộ Nghiên cứu cơ sở lý thuyết cho việc xác định các ưu tiên trong phát triển bền vững vùng kinh tế, Viện Phát triển Bền vững vùng Bắc Bộ, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, do tác giả làm Chủ nhiệm.

Tài liệu dẫn

Clarke, Giles 1996. Megacity Management: Trends and Issues. In Megacity Management in the Asian and Pacific Region, Volume 1. ADB, Manila.

Corey, Kenneth 1997. Digital Dragons and Cyber Communities; the Application of Information Technology and Telecommunications Public Policies and Private Partnerships to the Planning of Urban Areas. International Journal of Urban Science, 1:2, 184-209

Douglass, Mike 1998. Globalization, Inter-City Network and Rural Urban Linkages: Rethinking Regional Development Theory and Policy. Paper presented at the UNCRD sponsored Global Forum on Regional Development Policy, 1-4 December, Nagoya, Japan.

Friedman, M. 1995. From outcomes to budgets: An approach to outcome based budgeting for family and children s services. Washington, DC: Center for the Study of Social Policy.

Fuchs Roland, Ellen Brennan, Joseph Chamie, Fu-chen Lo and Juha Uitto (eds.) 1994. Megacity Growth and the Future, United Nations University Press, Tokyo, New York, Paris.

Ginsburg, Norton, Bruce Koppel, and Terry McGee (eds.) 1991. The Extended Metropolis: Settlement Transition in Asia. Honolulu: University of Hawaii Press.

Goldstein, Sidney 1994. Demographic Issues and Data Needs for Megacity Research. In Megacity Growth and the Future, Roland Fuchs, Ellen Brennan, Joseph Chamie, Fu-chen Lo and Juha Uitto (eds.) United Nations University Press, Tokyo, New York, Paris.

Jamieson N. 1991. Dispersed Metropolis in Asia: Attitudes and Trends in Java.

Koppel, Bruce 1991. The Rural-Urban Dichotomy Reexamined: Beyond the Ersatz Debate. In The Extended Metropolis (Settlement Transition in Asia), Norton Ginsburg, Bruce Koppel and T.G. McGee, eds., University of Hawaii Press, Honolulu. 

McGee, Terry 1991. The Emergence of Desakota Regions in Asia: Expanding a Hyopthesis. In The Extended Metropolis: Settlement Transition in Asia, edited By N. Ginsburg, B.Koppel, T.G. McGee. Honolulu: University of Hawaii Press. 3-25.

Mercado R.G. 2003. Regional Development in the Philippines: A Review of Experience, State of the Art and Agenda for Research and Action. Philippines Institute for Development Studies – Discussion Paper Series No. 2002 – 2003.

Oberai, A.S. 1993. Urbanization, Development and Economic Efficiency. In John D. Kasarda and Allan M. Parnall (editors). In Third World Cities: Problems, Policies and Prospects, Sage Focus Editions No. 148, Sage Publications, Newbury Park, California, 1993, Chapter 3, pp. 58-73.

Peterson George E., G. Thomas Kingsley and Jeffrey P. Telgarsky 1991. Rethinking the Role of Urban Areas in National Economic Development. In Urban Economies and National Development, editedby George E. Peterson, G. Thomas Kingsley and Jeffrey P. Telgarsky, Policy Research Series, USAID Washington, D. C., 1991, Chapter 1, pp. 5-21.

Sassen, S. 1997. Cities in the Global Economy, International Journal of Urban Sciences, 1:1, 11-31

Short, J.R., Y. Kim, M. Kuus and H. Wells 1996. The Dirty Little Secret of World Cities Research: Data problems in Comparative Analysis. International Journal of Urban and Regional Research, 20:4, 697-717

Simon, D. 1995. The World City Hypothesis: Reflections From the Periphery. In World Cities in a World System, ibid.

Stubbs, Jeffry and Giles Clark (eds.) 1996. Megacity Management in the Asia and Pacific Region. Volume One, ADB/UNDP/UNCHS (Habitat)/World Bank, ADB, Manila.

UN, Division for Sustainable Development. 1995. Indicators of Sustainable Development: Guidelines and Methodology (Approved by the Commission on Sustainable Development at its Third Session in 1995).

Williamson J.G. 1991. The Macroeconomic Dimensions of City Growth in Developing Countries: Past, Present and Future. In Proceedings of the World Bank Annual Conference on Development Economics, 1991, 1992, pp. 241-266.

Zhou Yixing 1991. The Metropolitan Interlocking Region in China: A Preliminary Hypothesis, in The Extended Metropolis: Settlement Transition in AsiaEdited by N.Ginsburg, B.Koppel and T.G.McGee, University of Hawaii Press, U.S.

 



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét