Iain
Thomson
Người dịch:
Hà Hữu Nga
Abstract
Giải cấu trúc truyền thống siêu hình
học của Heidegger dẫn ông đến quan điểm cho
rằng toàn
bộ các hệ thống
siêu hình học phương Tây đều đưa ra các yêu sách nền tảng được nhận
thức rõ nhất là “Thần
học hữu thể”. Siêu hình học thiết lập
các tham số khái niệm của tính khả tri bằng căn cứ hữu thể luận và hợp thức thần học đối với việc thay đổi ý thức lịch sử của chúng ta về
cái gì là. Trước hết bằng việc làm sáng tỏ và sau đó đưa ra các vấn đề về khẳng định của Heidegger
cho rằng toàn
bộ siêu hình học
phương Tây đều có chung cái cấu trúc thần học hữu thể này, tôi tái
cấu trúc các cấu phần quan trọng nhất của
cách giải thích nguyên gốc và đầy
khiêu khích về
lịch sử siêu hình học mà Heidegger đưa ra để hỗ trợ cho lối
nhận thức siêu hình
học đặc ứng của ông. Khi coi tự sự lịch sử này tạo ra sức mạnh cực hạn cho dự án triết học lớn hơn
của Heidegger (cụ thể là, ông nỗ lực tìm đường bứt khỏi cái thời đại Nietzschean hư vô của chúng ta), tôi kết luận bằng cách vắn tắt chỉ
ra việc
Heidegger trở lại
với thời kỳ phôi thai của siêu hình học phương
Tây để giúp ông khám phá hai phương diện quan trọng của hiện thân
hiện tượng luận
tiền siêu hình,
từ lâu đã bị chôn vùi dưới truyền thống siêu hình học,
nhưng lại
là những phương diện có tính quyết định đối với nỗ lực của Heidegger nhằm vượt khỏi cái
ngõ cụt vãn hiện đại Nietzschean này.
Khi nghe thấy lối biểu đạt “thần học hữu thể”, nhiều nhà triết học bắt đầu quay đầu tìm lối bỏ đi. Nhưng những ai không quay đầu thì lại có thể biết rằng với cái “tân dụng ngữ khó ưa” này (chúng ta
phải cảm ơn Kant
về nó) (1) mà Heidegger đã giáng
đòn phê phán có vẻ tàn nhẫn
đối với siêu hình học phương Tây. Tính sống động của “giải cấu trúc” (Destruktion)
(2) truyền thống siêu hình học
của Heidegger đã giúp biến một thế hệ các nhà tư tưởng hậu Heidegger thành
những người phản-siêu hình học. Nhưng giải cấu trúc Heidegger thực sự là tiền đề dựa trên thẩm quyền của ông đối với siêu hình học với niềm tự hào vô song về một
vị trí trong việc tạo dựng mang tính lịch sử và duy trì tính khả
tri. Giải cấu trúc Heidegger giả định rằng siêu hình học không chỉ đơn giản là mối quan tâm bí truyền của
các nhà triết học bị biệt lập trong các tháp ngà của họ, mà ngược lại, “Siêu hình học còn đặt nền tảng cho một thời đại” (QCT 115/ H 75). Đặt vấn đề quá nhanh, nhưng bằng cách dự đoán, tuyên bố
của Heidegger là bằng cách tạo
hình cho nhận thức
mang tính lịch sử của chúng ta về “cái gì là”, siêu hình học xác định những giả định cơ bản nhất của cái mà bất cứ cái gì
là, kể cả chính chúng ta. (3) “Nhân loại phương Tây,
trong toàn bộ các ứng xử của nó đối với hiện hữu, và thậm chí đối
với chính nó, là ở mọi khía cạnh được siêu hình học duy trì và hướng dẫn” (N4 205 / NII
343).
Bằng cách hệ thống hóa và phổ biến nhận thức về những gì mà hiện hữu là, siêu hình học cung cấp cho mỗi “kỷ nguyên” lịch sử của tính khả tri một nền tảng hữu thể luận của nó. Và bằng cách đưa ra một lối giải thích về nguồn gốc tối hậu mà hiện hữu phát sinh, siêu hình học đã cấp cho tính khả tri một loại biện minh nền tảng (mà chúng ta sẽ xem xét ngay các nguyên do) mà Heidegger mô tả là “mang tính thần học”. Vậy thì việc khẳng định “siêu hình học dựa trên lịch sử” là xác quyết rằng siêu hình học thiết lập cả các tham số khái niệm cơ bản nhất lẫn các tiêu chuẩn tối hậu của tính hợp thức cho các chuỗi “kỷ nguyên” lịch sử của tính khả tri thống nhất. Do đó, hàng “chùm tính khả tri” mang tính kỷ nguyên như vậy không phải ngẫu nhiên trôi nổi, mà được đặt nền tảng và phản ánh hàng loạt biến đổi lịch sử trong nhận thức của chúng ta về những gì hiện hữu là. (4) Nói một cách đơn giản, Heidegger gọi loại nhận thức về ý nghĩa của một thứ gì đó là nhận thức về Hữu thể, và lịch sử Hữu thể nổi tiếng của ông chỉ đơn giản là phép tốc ký để định rõ chuỗi lịch sử về những nhận thức có căn cứ thời đại như vậy về Hữu thể.
Trong phần tiếp theo, tôi sẽ đưa ra một lối thể hiện mang sắc thái cẩn trọng hơn nhiều đối
với giải thích của Heidegger về những cách thức mà truyền thống
siêu hình học xác lập nền tảng cho mọi kỷ
nguyên của
tính khả tri bằng cách đặt căn cứ về mặt lý thuyết
và hợp thức hóa ý
thức lịch sử thay đổi của chúng ta
về cái gì là. Tuy nhiên, nếu ý thức chung có phần kìm hãm chúng ta, thì chúng ta vẫn có khả năng lùi lại trước tuyên
bố rằng nhận thức của chúng ta về cái gì là luôn thay đổi theo
thời gian. Hơn nữa, học thuyết về “sử tính hữu thể luận” của Heidegger thực sự đòi hỏi hữu thể luận phải là một kiến tạo động theo thời
gian, và học thuyết trung tâm này của Heidegger giờ đây tạo thành một xuất phát điểm được coi là đương nhiên của triết học đối với hầu hết những kẻ hành nghề chủ chốt của hậu cấu trúc luận, hậu hiện đại luận, và giải cấu
trúc. (5) Vậy thì tại sao, không ở
đâu trong khối văn liệu triết học mênh mông kia
khi xiển dương hay phê phán những trường phái tư tưởng đa dạng này,
chúng ta lại tìm thấy được
một tái cấu trúc cẩn trọng việc nhận thức mang tính đặc ứng về siêu hình học dựa trên sử tính Heideggerian? (Ngay cả những
nhà tư tưởng như Baudrillard và Irigaray, những người không chỉ nói về siêu
hình học mà còn tout court huỵch toẹt gọi triết học là “thần học hữu thể”, cũng không hề giải rõ ý nghĩa của thuật ngữ này.) Bài viết này có thể được hiểu như
là một lời đáp lấp vào
khoảng trống diễn giải kia.
Nhưng ngoài việc làm rõ một giả định bất thành văn của
triết học lục địa rất
gần đây thôi (và vì vậy đặt một nền móng cần thiết nào
đó cho những ai
muốn nhận thức và thách thức công trình đó theo cách
riêng của nó), còn có một động lực quan trọng hơn để tái cấu trúc các kết quả của giải cấu trúc Heidegger, quan
niệm của Heidegger về vai trò nền tảng về phương diện lịch sử của truyền thống
siêu hình học cung cấp phần lớn căn
cứ triết học cho triết học phê phán chín muồi của ông, mà nếu không có nó thì những quan điểm sau này của ông có
thể trở nên võ đoán và bất
khả bảo vệ. Do đó, tôi hiểu rằng nhận thức của Heidegger về siêu
hình học như là thần học hữu thể là đủ quan trọng
để vinh danh công phu xiển dương theo cách riêng của mình, và đây sẽ là nhiệm vụ chính của tôi trong bài
viết này.
Trong phần I, tôi giải rõ ý nghĩa yêu sách khởi đầu kỳ lạ của Heidegger cho rằng siêu hình học có cấu trúc thần học hữu thể luận. Ở phần II, tôi đặt để nhận thức về thần học hữu thể luận của Heidegger trong bối cảnh tư tưởng rộng lớn hơn của ông, phác thảo tầm vóc giải cấu trúc thống tín luận siêu hình học đối với việc phê phán hư vô luận của ông. Với phần III, tôi tái cấu trúc các cấu phần quan trọng nhất của cách giải thích nguyên gốc về lịch sử siêu hình học mà Heidegger đưa ra để hỗ trợ cho tuyên bố của ông cho rằng siêu hình học là thần học hữu thể luận, bằng cách khảo sát một trong những vấn đề sâu sắc nhất của cách giải thích này. Trong phần IV và phần kết luận, tôi trình bày ngắn gọn rằng giải cấu trúc siêu hình học của Heidegger có một chiều góc tích cực, theo đó nó giúp thúc đẩy sự phục hồi một loại nhận thức phi siêu hình về Hữu thể.
I.
Siêu hình học là Thần học Hữu thể
Mỗi câu hỏi xác định ranh giới [grenzt] với tư cách là một câu hỏi mà khoảng rộng và bản chất
của câu trả lời mà nó đang tìm kiếm. Đồng thời, nó giới hạn [umgrenzt] phạm vi khả năng trả lời. Để
chúng ta suy ngẫm câu hỏi về siêu hình học một cách đầy đủ, trước tiên, cần
phải xem nó như một câu hỏi, thay vì xem xét một chuỗi các câu trả lời có nguồn gốc từ bản thân nó trong lịch sử
siêu hình học. (N4 206 / NII 344)
Từ cuối những năm 1920 đến giữa những năm 1940, Heidegger đã làm việc để quy giản những tương đồng cấu trúc của truyền thống siêu hình thành một khuôn khổ chính thức mà ông có thể làm cho phù hợp với mọi “lập trường siêu hình cơ bản” trong lịch sử truyền thống phương Tây (N3 179 / NII 25). Khi làm như vậy, ông tiếp tục hoàn thiện nhận thức của mình về siêu hình học cho đến năm 1940, ông đã xuất trình cái mà ông gọi là “Khái niệm bản chất siêu hình học”, nêu rõ: “Siêu hình học là chân lý về tổng thể tính của các hiện hữu theo đúng nghĩa của từ” ( N3 187 / NII 257). “Khái niệm bản chất siêu hình học”này nói với chúng ta điều gì? Chúng ta hãy nghe lời khuyên của Heidegger và xem xét cách mà câu hỏi của siêu hình học vạch ranh giới và xác định các câu trả lời khả thể của chính nó.
Như Heidegger nhận
thức về lịch sử siêu hình học, tư duy Tây Âu được dẫn dắt
bởi câu hỏi: “Các hiện hữu là gì? [hoặc
“Was ist das Seiende?”]. Đây chính là cái hình thức mà nó
hỏi về Hữu thể [Sein] [KTB 10 / W 448-9]. Siêu hình học hỏi ý nghĩa của một hiện hữu là gì và hiểu lời đáp cho câu hỏi này
là “Hữu thể”. Tuy nhiên, đối với Heidegger, lời đáp cho câu hỏi các hiện hữu là gì, mà siêu hình học gọi là “Hữu thể”, thực sự cần phải được hiểu là Hữu thể của các hiện hữu” [das Sein des Seienden]'. (6) Cụm từ Heideggerian này thoạt đầu nghe có vẻ kỳ cục, nhưng thực sự
nó là một minh định triết học khá thẳng
thắn. Việc hỏi các hiện hữu là gì (hoặc một hiện
hữu là gì) nghĩa là hỏi về
Hữu thể của những hiện hữu đó. Như
Heidegger đã nói: “Bất cứ khi nào người ta nói về các hiện hữu, thì cái từ nhỏ bé “là” này có tên gọi là Hữu
thể của những hiện hữu [đó]” (PR 125 / GA10 183). Để chính
thức hóa lời đáp cho câu hỏi “Một hiện hữu là gì?”, thì Siêu hình học đưa
ra một khẳng định về việc các hiện hữu
là gì (và như thế nào), và do
đó khẳng định về Hữu thể của các hiện hữu đó.
Theo Heidegger, những định đề siêu hình về Hữu thể của các hiện hữu có cùng dạng thức trong toàn bộ lịch sử siêu hình học: “Siêu hình học nói về tổng thể tính của các hiện hữu theo đúng nghĩa của từ, do đó cũng nói về Hữu thể của các hiện hữu” (N4 151/ NII 205). Các định đề cơ bản nhất của Siêu hình học - mà Heidegger gọi là các lập trường siêu hình học cơ bản” - nỗ lực xác lập một “chân lý về tổng thể tính của các hiện hữu theo nghĩa đen của từ” (N3 187/ NII 258/ GA504). Phân tích chính thức của Heidegger về “nội dung cốt lõi” (Kerngehalt) này của siêu hình học đã đưa ông tới một khám phá đáng ngạc nhiên: nhận thức siêu hình về Hữu thể của các hiện hữu về cơ bản là nhận thức “kép” (KTB 11/ W 450). Đó là, siêu hình học thực sự đưa ra hai câu trả lời hơi khác nhau nhưng có liên quan đến nhau cho “câu hỏi về Hữu thể của các hiện hữu” này. Ở dạng đơn giản nhất, khẳng định của Heidegger là mỗi lập trường siêu hình cơ bản về “tổng thể tính của các hiện hữu theo nghĩa đen của từ” đều có hai cấu phần riêng biệt: một nhận thức về các hiện hữu “theo đúng nghĩa”, và một nhận thức về “tổng thể tính” của các hiện hữu.
Vậy là về mặt cấu trúc, “Một hiện hữu là
gì?” là một “câu hỏi kép”, bởi vì khi theo
đuổi nó, việc khảo
sát siêu hình học
cùng một lúc
đi theo hai con đường, mong đợi hai
loại lời đáp cho câu hỏi
“Một hiện hữu là gì?” (KTB 11 / W
449). (7) Như Heidegger giải thích,
“Một hiện hữu là gì?” hỏi về Hữu thể của các hiện hữu bằng cách tìm kiếm
cả hai cho cái gì làm cho một hiện
hữu là một hiện hữu (bản chất hay “tính gì” của hiện hữu) và cho cái cách mà một hiện hữu là một hiện hữu (tồn tại hay “tính đó” của hiện hữu). Với hình thức
mơ hồ của câu hỏi, cả hai đều hợp thức và (như chúng ta
sẽ thấy) những cách nhận
thức phổ biến về phương
diện lịch sử đối với “Hữu thể của các hiện hữu”. Theo phân tích
của Heidegger, “nội dung cốt lõi” Kerngehalt - của siêu hình học
(nhận thức của nó về Hữu thể của các hiện hữu) hóa ra là mang tính kép về phương diện khái niệm, mơ hồ đối với cái cốt lõi, và nằm ngoài phần cốt lõi bị rạn nứt mà hai thân
xoắn bện về phương diện lịch sử kia mọc lên.
Đến năm 1946, Heidegger đã xác định rõ ràng hai thân của câu hỏi siêu hình tương ứng là “hữu thể luận” và “thần học”, rồi ông bắt đầu khớp nối cái mà từ đó ông nhận thức là “đặc tính hữu thể luận cơ bản của siêu hình học” (N4 209/ NII 348). (8) Năm 1961, với lợi thế về nhận thức muộn, có lẽ Heidegger đã đem đến cho chúng ta một cách giải thích rõ ràng nhất về cấu trúc thần học hữu thể luận về câu hỏi siêu hình: Nếu chúng ta gợi lại lịch sử tư duy Tây Âu một lần nữa, thì chúng ta sẽ gặp phải những điều sau đây: Câu hỏi về Hữu thể, với tư cách là câu hỏi về Hữu thể của các hiện hữu, có dạng kép. Một mặt, nó hỏi: Cái gì là một hiện hữu nói chung với tư cách là một hiện hữu? Trong lịch sử triết học, những suy tư thuộc phạm vi câu hỏi này đều có cái tiêu đề hữu thể luận. Câu hỏi “Một hiện hữu là gì?” [hoặc Cái đó ấy là cái gì? - “Was ist das Seiende?”] đồng thời hỏi: Hiện hữu nào là hiện hữu cao nhất [hoặc tối cao], và theo nghĩa nào mà nó là hiện hữu cao nhất? Đây là câu hỏi về Thiên Chúa và về Thánh linh. Chúng tôi gọi lĩnh vực câu hỏi này là thần học. Nhị tính này trong câu hỏi về Hữu thể của các hiện hữu có thể được hợp nhất dưới tiêu đề Thần học hữu thể. (KTB 10-11 / GA9 449)
Ở đây Heidegger ngắn gọn phác thảo cấu trúc thần học hữu thể chính thức của câu hỏi siêu hình học này. Đó là một câu hỏi được tự gấp lại sao cho có được hai câu trả lời riêng biệt, sau đó một trong số đó lại tự trả lời một lần nữa. Hãy để chúng tôi giải thích cẩn thận những “nếp gấp” này.
“Một hiện hữu là gì?”, một mặt hỏi: “Cái gì là một hiện hữu với tư cách một tồn tại?" Heidegger gọi đây là câu hỏi mang tính hữu thể luận bởi vì nó đưa ra một giải thích - λόγος của ὂν ἢ ὀν - về ngôn trí của tồn tại với tư cách Hữu thể, hoặc như Heidegger gọi là “các hiện hữu liên quan đến Hữu thể, có nghĩa là chỉ liên quan đến cái làm cho một hiện hữu trở thành thứ tồn tại mà nó là: Hữu thể” (MFL 10/GA26 12). Diễn giải của Heidegger rõ ràng rất hấp dẫn với thực tế là trong Siêu hình học Aristotle trực tiếp chú giải “triết học đầu tiên”, khảo sát về ὂν ἢ ὀν tồn tại với tư cách Hữu thể, là ἐπισκοπεῖ καθόλου περὶ τοῦ ὄντος ᾗ ὄν [1], có nghĩa là, khảo sát về “các hiện hữu ở chừng mực chúng thuộc về Hữu thể”.(9) (Ở đây “Hữu thể” tái hiện động tính từ τὸ ὂν của Aristotle. Trong khi Aristotle không sử dụng động từ nguyên thể hoặc danh từ trừu tượng τὸ είναι, “Hữu thể”, quan điểm của Heidegger là ông cũng có thể dùng; triết học đầu tiên của Aristotle khảo sát các hiện hữu ở chừng mực chúng tồn tại, đó chính xác là những gì Heidegger mô tả là câu hỏi siêu hình về “Hữu thể của các hiện hữu”.)
Khẳng định chính
của Heidegger ở đây là với
tư cách hữu thể luận, siêu hình học
tìm kiếm nền tảng chung nhất của các
hiện hữu; nó tìm kiếm những
gì mà toàn bộ các hiện
hữu có chung. Các nhà hữu
thể luận hiểu Hữu thể của các hiện hữu theo khuôn khổ của cái ở bên dưới
hoặc bên ngoài cái
mà không tồn tại cơ bản nào
được “phát hiện”, hay được “thăm dò” (ergründet) thêm nữa. Vậy là loại “tồn tại mẫu” này (EP 20/ NII
421) đóng vai trò hữu thể luận của việc “khảo sát” (ergründen) toàn bộ các hiện hữu khác, theo nghĩa
là tồn tại hữu thể luận cơ bản này chỉ định
loại tồn tại đó ở
trong tồn tại của thứ mà toàn
bộ các tồn tại khác có chung và vì vậy chúng được thống nhất lại hoặc cấu thành nên. Theo cách nói của
Heidegger, siêu hình học là hữu thể luận khi nó “tư duy về các hiện hữu bằng cách để mắt đến sở cứ chung cho toàn bộ các hiện hữu theo nghĩa thông thường” (I & D
70/139). Về phương
diện lịch sử, các nhà siêu hình học khác nhau xác định nền tảng phổ quát này
theo các “khuôn mẫu [Prägung] lịch sử khác nhau: Phusis, Logos, Hen, Idea, Energeia, Tính thực thể, Tính khách quan, Tính chủ quan, Ý chí, Ý chí về Quyền lực, Ý chí về Ý chí” (I & D 66 /
134), và, tất nhiên, “Ousia”, nguyên
vật chất, “khuôn mẫu” hữu
thể luận của Hữu thể của các hiện hữu, mà với nó, như chúng ta sẽ
thấy, “siêu hình học thực sự khởi đầu” (EP 4 / NII 403).
Mặt khác, “Một hiện hữu là gì?' (Hoặc “Cái đó ấy là cái gì?” - “Was ist das
Seiende?”) Đồng thời hỏi: “Hiện hữu nào cao nhất (hoặc
tối cao), và theo nghĩa nào thì nó là hiện hữu cao nhất?”. Vì vậy câu hỏi của siêu
hình học có thể được nghe
thấy cả về mặt thần học
cũng như hữu thể luận. Như định vị
Heidegger gợi ý (‘Welches ist und wie ist…’ Cái
nào và như thế nào…), chiều kích thần học của chính câu hỏi siêu hình học có hai khía cạnh.
Chừng nào siêu hình học – với tư cách thần học - không thỏa mãn với việc nỗ lực xác định cái hiện hữu cao nhất hay tối cao (câu
hỏi về Thiên Chúa), mà vẫn hỏi thêm về
phương thức tồn tại của Thiên Chúa, thì
siêu hình học tìm cách nhận
thức về cái hiện hữu Thiên Chúa
kia (nghĩa là, cái
ý nghĩa trong đó Thiên Chúa “là”, hoặc loại Hữu thể mà Thiên Chúa có). Do đó, siêu hình học tự thấy mình đặt câu hỏi về “Thánh
thần”, chẳng hạn như:
Loại hiện hữu nào trở thành một vị thánh? Phương
thức tồn tại nào cấu thánh tính? Được kết hợp với nhau, “câu hỏi về Thiên Chúa và Thánh thần” này là câu hỏi thần học, được gọi như vậy vì nó khảo sát và đưa ra cách giải thích (logos) về sự tồn tại của
theion thần thánh, cái “nguyên nhân tối
cao và là nền tảng cao nhất của các
hiện hữu” (N4 209 / NII 347).
Vấn đề chính của
Heidegger ở đây là siêu hình học tư
duy về phương diện thần học khi nó “tư duy về tổng thể tính của các hiện hữu…theo nghĩa thông thường… liên quan đến hiện hữu tối cao, là một hiện hữu nền tảng tổng thể” (I & D 70-1
/ 139). Có nghĩa là, siêu hình học
là thần học bất cứ khi nào nó xác định cái Hữu thể của các hiện hữu là một hiện hữu nền tảng tổng thể, cho dù là một “động lực bất động” hay “nguyên nhân tự thân” (nghĩa là một “causa sui” tự tạo ra bản thân, mà Heidegger mô
tả là “khái niệm siêu
hình về Thiên Chúa”), hoặc dù cho
cái “hiện hữu nền tảng
tổng thể” này được Aristotle quan niệm là “nguyên nhân đầu tiên” hay với Leibniz là ens
realissimum một thực
tại tối hậu (Seiendsten des Seienden) như Heidegger đã khéo léo tái hiện
lại tư tưởng của Leibniz). Tương tự như vậy, Kant tư duy “về phương diện thần học” khi ông xác
lập định đề “chủ thể của chủ thể tính là điều kiện
của cái khả tính của mọi khách tính”, cũng như Hegel xác quyết “tồn tại cao nhất là cái tuyệt đối theo
nghĩa chủ quan tính
vô điều kiện” (I & D
60/127; N4 208/ NII 347). Theo Heidegger, ngay cả Nietzsche “cũng nghĩ rằng existentia tồn tại của
tổng thể tồn tại
theo nghĩa thông thường về phương diện thần học là sự trở lại vĩnh cửu của cái tương đồng” (N4 210 / NII
348). Do đó, khi áp dụng vào lịch sử siêu hình học phương Tây, thì nhận thức về thần học hữu thể của Heidegger, như là một khuôn khổ theo đó mọi dinh thự siêu hình được
xây dựng đều cho phép ông khai quật được các tập hợp phân biệt về hữu thể học như được thể hiện
trong Bảng 1.10.
_______________________________________
Còn
nữa….
Nguồn:
Thomson, Iain
(2000). Ontotheology?
Understanding Heidegger’s Destruktion of
Metaphysics. In International Journal of Philosophical Studies ISSN, Taylor & Francis Ltd.
Tác
giả: Iain D. Thomson, sinh năm 1968 là một
triết gia người Mỹ và giáo sư triết học tại Đại học New Mexico. Ông là một
chuyên gia nổi tiếng về Martin Heidegger. Thomson học đại học tại Đại học
California, Berkeley, nơi ông làm việc với Hubert Dreyfus, và sau đó lấy bằng Tiến sĩ triết học tại Đại
học California, San Diego. Là một nghiên cứu sinh tại UC
Irvine, ông cũng đã học với Jacques Derrida. Ông được biết đến với chuyên môn về triết
học của Heidegger, triết lý giáo dục, triết học công nghệ, triết học nghệ
thuật, triết học văn học và triết học môi trường. Các bài viết của ông về
Heidegger đã được xuất bản trên các tạp chí như Khảo sát, Lịch sử Triết học, Tạp
chí Triết học Harvard, Tạp chí Nghiên cứu Triết học Quốc tế và Tạp chí của Hiệp
hội Hiện tượng học Anh.
Chú
thích của người dịch:
[1] Bất cứ ai có học qua cổ văn Hy Lạp thì đều
biết đoạn nổi tiếng này trong nguyên văn Phần 1, Quyển IV, Siêu hình học của
Aristotle: “ Ἔστιν ν ἐπιστήμη τις ἣ θεωρεῖ τὸ ὂν ᾗ ὂν καὶ τὰ
τούτῳ ὑπάρχοντα καθ᾽ αὑτό. αὕτη δ᾽ ἐστὶν οὐδεμιᾷ τῶν ἐν μέρει λεγομένων ἡ
αὐτή: οὐδεμία γὰρ τῶν ἄλλων ἐπισκοπεῖ καθόλου περὶ τοῦ ὄντος ᾗ ὄν, ἀλλὰ μέρος
αὐτοῦ τι ἀποτεμόμεναι περὶ τούτου θεωροῦσι τὸ συμβεβηκός, οἷον αἱ μαθηματικαὶ
τῶν ἐπιστημῶν. ἔπεὶ δὲ τὰς ἀρχὰς καὶ τὰς ἀκροτάτας αἰτίας
ζητοῦμεν, δῆλον ὡς φύσεώς τινος αὐτὰς ἀναγκαῖον εἶναι καθ᾽ αὑτήν. εἰ οὖν
καὶ οἱ τὰ στοιχεῖα τῶν ὄντων ζητοῦντες ταύτας τὰς ἀρχὰς ἐζήτουν, ἀνάγκη καὶ τὰ
στοιχεῖα τοῦ ὄντος εἶναι μὴ κατὰ συμβεβηκὸς ἀλλ᾽ ᾗ ὄν: διὸ καὶ ἡμῖν τοῦ ὄντος ᾗ
ὂν τὰς πρώτας αἰτίας ληπτέον.” [Μετὰ τὰ φυσικά, Συγγραφέας:
Ἀριστοτέλης: Siêu hình học,
Tác giả: Aristoteles]
“Có một khoa học xem xét tồn tại với tư cách
là Hữu thể và bất kỳ thuộc tính nào thuộc về nó vì bản chất riêng của nó. Vậy
là khoa học này không giống như bất kỳ cái gọi là khoa học nào khác; vì không
có khoa học nào khác xử lý một cách phổ quát các hiện hữu như là Hữu thể. Người
ta cắt rời một bộ phận của Hữu thể để khảo sát thuộc tính của bộ phận này; đây
chính là cách mà toán học thực hiện. Nhưng vì chúng ta tìm kiếm các nguyên lý
đầu tiên và các nguyên do cực hạn của nó, nên rõ ràng phải có một cái gì đó mà
các nguyên lý và nguyên do này thuộc về nó, vì bản chất riêng của nó. Vậy thì
nếu những ai đã cố tìm cho được các yếu tố của những thứ hiện tồn thì chính là
họ đang cố tìm cho được chính các nguyên lý này, mà điều thiết yếu là các yếu
tố này phải là các yếu tố của tồn tại không do ngẫu nhiên, mà chỉ vì nó là tồn
tại. Vì vậy đó chính là tồn tại với tư cách Hữu thể mà chúng ta phải nắm cho
được các nguyên do đầu tiên”.
Ghi
chú
(1). “Không dễ để phát minh ra những từ mới như người ta nghĩ, bởi vì chúng trái
ngược với khẩu vị, và theo cách này, khẩu vị là một trở ngại cho
triết học” (Immanuel Kant, Bài giảng về Siêu hình học, chủ biên và dịch K. Ameriks và S.
Naragon (Cambridge: Nhà xuất bản Đại học Cambridge, 1997), tr. 120). Kant đã
đặt ra “ontotheology”
Thần học hữu thể, và “cosmotheology”
Thần học vũ trụ, để phân biệt giữa hai loại đối lập của thần học siêu
việt. “Thần học hữu
thể” là tên của Kant đặt cho loại thần học
siêu việt (như “Luận cứ Hữu thể luận” nổi tiếng của Anselm về sự tồn tại của Thiên Chúa) “tin rằng nó có thể biết
được sự tồn tại của [hữu
thể gốc, Urwesen] thông qua các khái
niệm đơn thuần, mà không cần sự giúp đỡ của bất kỳ kinh nghiệm nào” (Kant, Phê phán Lý tính Thuần túy, dịch, Kemp Smith (New
York: St Martin's, 1929) / Kritik der reinen Vernunft, biên tập R. Schmidt (Hamburg: F. Meiner, 1926), A632 / B660) .
(2). Trong một gia phả uyên bác của Giải cấu trúc, Moran truy dấu một họ khái niệm triết học tương đồng thông qua tư tưởng thời trung cổ với Εὐθύδημος -
Euthydemus của Plato (được viết c. 384 trước
Công nguyên, là một cuộc đối thoại của Plato nhằm châm biếm những gì Plato thể
hiện như những ngụy biện logic của các nhà Ngụy biện). (Xem Dermot
Moran, “Hủy cấu trúc của Hủy cấu trúc: Các phiên bản Lịch sử Triết học của Heidegger”, trong K. Harries và C. Jamme (chủ biên), Martin Heidegger: Chính trị, Nghệ thuật và Công nghệ (New
York và London: Holmes & Meier, 1994), trang 176-96.) Moran dịch Destruktion của
Heidegger là “sự hủy diệt”, một phần để nhấn mạnh sự khác biệt của nó so với cái gọi là “giải cấu trúc”. Việc dịch Destruktion nhiều rủi ro hơn của tôi xuyên
suốt là “giải cấu trúc”
được cho là hợp lý bởi thực tế là, mặc dù từ “giải cấu trúc” đã đảm nhận một cuộc sống
của riêng nó, Derrida ban đầu đặt ra thuật ngữ đó như một từ dịch từ Abbau (“khai thác”, “tháo dỡ”, hoặc “phân hủy”) của Heidegger, một từ đồng nghĩa với từ Destruktion mà Heidegger sau đó
đã gạch nối và sử dụng để nhấn mạnh rằng Destruktion
không chỉ đơn thuần là một hành động tiêu cực, Zerstörung
- sự phá hủy, mà “phải được hiểu một cách nghiêm túc là de-struere [tiếng Latin struere có nghĩa là “để đặt, đóng cọc, hoặc xây dựng”], “ab-bauen” [hoàn toàn theo nghĩa đen, “phá dỡ hoặc giải cấu trúc”]” (GA15 337, 395).
(Xem Jacques Derrida, Tai
kẻ Khác, ed. CV McDonald dịch, Kamuf và Ronell (New
York: Schocken Books, 1985), tr. 86-7.). Như tôi sẽ chỉ ra, giải
cấu trúc siêu hình học phương Tây của Heidegger không phá hỏng hoặc thậm chí phá hủy siêu hình học;
ngược lại, nó phân hủy hoặc đảo
ngược các lớp trầm
tích lịch sử, bằng cách tái thiết cái cấu trúc thần học hữu thể ẩn giấu của chúng và tìm cách khám phá “những kinh nghiệm quyết
định” chịu trách nhiệm cho cấu trúc chung này (những kinh nghiệm mà Heidegger hy
vọng sẽ giúp chúng ta hình dung ra một con đường vượt ra ngoài thần học hữu thể). Tuy nhiên, tôi hoàn toàn đồng ý với tuyên bố kết luận của Moran rằng: “Khái niệm giải cấu trúc được Heidegger
sử dụng được…ràng buộc với một quan điểm nhất định về lịch sử…mà chưa được minh định” (op cit., tr. 192). Thật vậy,
chính xác là khoảng trống trong văn liệu mà bài báo này cố
gắng lấp đầy.
(3). Như Dreyfus nói: Các thực tiễn chứa đựng nhận thức về một hiện hữu người phải là gì, các thực tiễn chứa đựng một cách diễn giải về cái mà một sự
vật phải là gì và các
thực tiễn chỉ rõ tính chất xã hội phù hợp với nhau. Do đó, các thực tiễn xã hội không chỉ chuyển tải một nhận thức ngầm định về một hiện hữu người, động vật,
vật thể phải là gì, mà cuối cùng, đối
với mọi thứ nó phải
là gì một cái gì đó” (Hubert L. Dreyfus, “Heidegger về Kết nối giữa Hư vô luận, Nghệ thuật, Công nghệ và Chính trị”, trong Charles Guignon (chủ biên) Người đồng
hành Cambridge với Heidegger (Cambridge: Nhà xuất bản Đại học Cambridge,
1993), tr. 295).
(4). Tôi có được cụm
từ mô tả dễ thương này bằng cách kết
hợp các cụm từ của Dreyfus và Schürmann (xem Dreyfus, Being-in-the-World: A Commentary on Heidegger's Being and Time,
Division I (Cambridge, MA: MIT Press, 1991) và Reiner Schürmann, Heidegger
on Being and Acting: From Principles to Anarchy, trans. Gros và
Schürmann (Bloomington: Indiana University Press, 1990)). Về giải thích của Heidegger, lịch
sử phương Tây xuất
trình với chúng ta năm
cách hiểu khác nhau về các
hiện hữu là gì, và do đó năm kỷ
nguyên chồng chéo trong lịch sử này
của Hữu thể: Tiền
Socratic, cổ đại, trung cổ, hiện đại và vãn hiện đại.
(5). Để biết thêm một phê phán Hegelian về “sử tính” và “những người Heideggerians cánh tả” tán thành một học
thuyết như vậy, xem Robert B. Pippin, “Hậu hiện đại luận Heideggerian và
Chính trị siêu hình học.” Tạp chí Triết học châu Âu, 4 (1) (1996), tr. 17-37.
(6). Vào đầu những
năm 1940, Heidegger đã nhận ra rằng “Hữu
thể” và “Hữu thể của các
hiện hữu” thực tế rất khác nhau (xem đặc biệt là N4 210 / NII 349
/ GA50 6, nhưng xem OWL 20 / UZS 109).
(7). Câu hỏi siêu
hình xuất sắc, Socratic τὸ διὰ τί, tại
sao, được Aristotle đặt ra như là câu hỏi bền bỉ về tư duy, (N4 206 / NII 344;
xem, ví dụ, Aristotle, Vật lý II.I, 192b38).
(8). Tất nhiên,
Heidegger đã có những bước tiến quan trọng đối với quan niệm chín muồi của ông về thần học hữu thể từ cuối những
năm 1920. Có lẽ đáng chú ý nhất trong khía cạnh này là sự hấp dẫn nhưng vô cùng
bối rối của “Phụ lục về các Nền tảng Siêu hình của Logic” (MFL 154-9 / GA26 196-202). Đọc Phụ lục này trong nhận thức chín chắn của
Heidegger về siêu hình học như
là thần học hữu thể cho thấy rằng cái dự án ngắn ngủi về
“siêu hữu thể luận” (metontology) mà ông chủ trương ở đây – “một vấn đề đặc biệt đối với cái chủ đề phù hợp của nó các hiện hữu như một toàn thể” (MFL 157 / GA26
199 ) - được hiểu rõ nhất khi Heidegger cố gắng nhảy từ con tàu chìm “hữu thể luận cơ bản” sang phần bổ sung siêu hình của nó, một loại
“thần học cơ bản” hay “theiology” (Heidegger cố gắng biến đổi thần học (theology) thành “thần học” (theiology) và do đó để biến đổi một cách suy nghĩ / cách nói về Thiên Chúa thành một cách suy nghĩ / cách nói về thánh thần (theion) xem HCE 135/ H 195). Năm 1928, Heidegger vẫn coi siêu hình học là một “nhiệm vụ” tích cực, thực sự là “vấn đề cơ bản của chính triết học” (một nhiệm vụ mà Heidegger nghĩ rằng ông sẽ
có thể hoàn thành). Tuy nhiên, Heidegger đã tiến đến rất gần với sự thừa
nhận sau này của ông về siêu hình học là thần học hữu thể khi ông viết:
“Trong sự thống nhất
của chúng, hữu thể luận cơ bản và
siêu hữu thể luận tạo thành
khái niệm siêu hình học” (MFL 158 / GA26
202). Điều này cho thấy là Heidegger phải thừa nhận tình trạng không đứng vững được của những nỗ
lực thần học hữu thể của bản thân ông (hữu thể luận cơ bản và “siêu hữu thể luận”, tương ứng) trước
khi quyết định chối bỏ
siêu hình học là thần
học hữu thể.
(9). Aristotle, Siêu
hình học, dịch, Tredennick
(Cambridge, MA: Nhà xuất bản Đại học Harvard, 1935), IV.I, 1003a.
(10) Bảng này không
có nghĩa là thấu đáo (cũng không có nghĩa là tất cả các cặp có
tên ở đây đã thành công trong việc làm
sở cứ siêu hình học
cho một kỷ nguyên lịch sử), và không có “cặp vấn đề” nào có thể được
sử dụng để giải thích tất cả các cặp khác. Mà không
có cặp nào chỉ đơn thuần chứa đựng sự “tương đồng về họ” với nhau; đúng
hơn, chúng được hiểu rõ nhất là một loạt các thuyết minh khác nhau của
cùng một cấu trúc thần
học hữu thể (theo nghĩa được
giải thích ở trên). Do đó, phần
nào tôi phải trở thành bạn đồng hành với loại
Heidegger
luận chính thống loại
bỏ “sự thúc đẩy để
nhân lên danh sách các thuật ngữ, sắp xếp chúng, cố định chúng theo một
mô thức cấu trúc nào đó” như “cái vẻ mô phạm học thuật”, vô tình phản bội “mối quan tâm Kitô giáo của nó với học thuyết thực (chính xác)”, coi “sự tuột dốc
[sic], cộng hưởng, gợi lên những từ ngữ tư duy nguyên thủy như
thể chúng là những hiện
hữu bị thao túng
vậy” (Gail
Stenstad, “The
Turning in Ereignis and Transformation of Thinking”, Trong Heidegger
Studies, 12 (1996), tr. 92-3).
(11). Xem Từ điển tiếng
Đức - German Dictionary
- của Harper
Collins, phiên bản không rút gọn (New York: Harper Collins, 1993),
Phiên bản không rút gọn, trang 220, 98, và Wahrig Muff Muffches Wörterbuch
(Gütersloh: Bertelsmann Lexikon, 1994), trang 519, 289.
Viết
tắt các Công trình của Heidegger
B&T Being and Time.
Trans. Macquarrie and Robinson. New York: Harper & Row, 1962.
BPP The Basic Problems of Phenomenology.
Trans. Hofstadter. Bloomington: Indiana University Press, 1982.
BQ Basic Questions of Philosophy: Selected
‘Problems’ of ‘Logic’. Trans. Rojcewicz and Schuwer.
Bloomington: Indiana University Press, 1994.
D Denkerfahrungen.
Ed. H. Heidegger. Frankfurt: V. Klostermann, 1983.
EM Einführung in die Metaphysik.
Tübingen: M. Niemeyer, 1953.
EP The End of Philosophy.
Trans. Stambaugh. New York: Harper & Row, 1973.
FCM The Fundamental Concepts of Metaphysics:
World, Finitude, Solitude. Trans. McBride and Walker.
Bloomington: Indiana University Press, 1995.
GA3 Gesamtausgabe,
Vol. 3: Kant und das Problem der Metaphysik. Ed. F.-W. von Herrmann.
Frankfurt: V. Klostermann, 1991.
GA9 Gesamtausgabe,
Vol. 9: Wegmarken. Ed. F.-W. von Herrmann. Frankfurt: V. Klostermann,
1996.
GA10 Gesamtausgabe,
Vol. 10: Der Satz vom Grund. Ed. P. Jaeger. Frankfurt: V. Klostermann,
1997.
GA15 Gesamtausgabe,
Vol. 15: Seminare. Ed. C. Edwald. Frankfurt: V. Klostermann, 1986.
GA19 Gesamtausgabe,
Vol. 19: Platon: Sophistes. Ed. I. Schüssler. Frankfurt: V. Klostermann,
1992.
GA24 Gesamtausgabe,
Vol. 24: Grundprobleme der Phänomenologie. Ed. F.-W. von Herrmann.
Frankfurt: V. Klostermann, 1975.
GA26 Gesamtausgabe,
Vol. 26: Metaphysische Anfangsgründe der Logik im Ausgang von Leibniz.
Ed. K. Held. Frankfurt: V. Klostermann, 1978.
GA29-30 Gesamtausgabe,
Vols 29-30: Die Grundbegriffe der Metaphysik: Welt, Endlichkeit, Einsamkeit.
Ed. F.-W. von Herrmann. Frankfurt: V. Klostermann, 1983.
GA41 Gesamstausgabe,
Vol. 41: Die Frage nach dem Ding. Zu Kants Lehre von den transzendentaler
Grundsätzen. Ed. P. Jaeger. Frankfurt: V. Klostermann, 1984.
GA45 Gesamtausgabe,
Vol. 45: Grundfragen der Philosophie: Ausgewälte ‘Probleme’ der ‘Logik’. Ed.
F.-W. von Herrmann. Frankfurt: V. Klostermann, 1984.
GA50 Gesamtausgabe,
Vol. 50: Nietzsches Metaphysik. Ed. P. Jaeger. Frankfurt: V.
Klostermann, 1990.
GA54 Gesamtausgabe,
Vol. 54: Parmenides. Ed. M. S. Frings. Frankfurt: V. Klostermann, 1982.
GA79 Gesamtausgabe,
Vol. 79: Bremer und Freiburger Vorträge. Ed. P. Jaeger. Frankfurt: V.
Klostermann, 1994.
H Holzwege.
Frankfurt: V. Klostermann, 1994.
HCE Hegel’s Concept of Experience.
Trans. Gray. New York: Harper & Row, 1970.
I & D Identity and Difference.
Trans. Stambaugh. New York: Harper & Row, 1969.
IM An Introduction to Metaphysics.
Trans. Manheim. New Haven: Yale University Press, 1959.
KPM Kant and the Problem of Metaphysics.
Trans. Taft. Bloomington: Indiana University Press, 1997.
KTB ‘Kant’s Thesis
about Being’. Trans. Klein and Pohl. Southwestern Journal of Philosophy,
4(3) (1973), pp. 7–33.
MFL The Metaphysical Foundations of Logic.
Trans. Heim. Bloomington: Indiana University Press, 1984.
N1 Nietzsche: The Will to Power as Art.
Ed. and trans. D. F. Krell. New York: Harper & Row, 1979.
N3 Nietzsche: The Will to Power as Knowledge and
as Metaphysics. Ed. D. F. Krell, trans. Stambaugh,
Krell, and Capuzzi. New York: Harper & Row, 1987.
N4 Nietzsche: Nihilism. Ed. D.
F. Krell, trans. Capuzzi. New York: Harper & Row, 1982.
NI Nietzsche, Vol. I.
Pfullingen: G. Neske, 1961.
NII Nietzsche, Vol. II.
Pfullingen: G. Neske, 1961.
OWL
On the Way to Language. Trans. Hertz. New York: Harper & Row, 1971.
PAR Parmenides. Trans.
Schuwer and Rojcewicz. Bloomington: Indiana University Press, 1992.
PDT
Plato’s ‘Doctrine of Truth’. Trans. Barlow. In Philosophy in the Twentieth
Century, ed. W. Barrett and H. Aiken. New York: Random House, 1962, Vol. 3,
pp. 251–70.
PLT Poetry, Language, Thought.
Trans. Hofstadter. New York: Harper & Row, 1971.
PR The Principle of Reason.
Trans. Lilly. Bloomington: Indiana University Press, 1991.
QCT The Question Concerning Technology and Other
Essays. Trans. Lovitt. New York: Harper & Row,
1977.
S Plato’s Sophist.
Trans. Rojcewicz and Schuwer. Bloomington: Indiana University Press, 1997.
S & Z Sein und Zeit.
Tübingen: M. Niemeyer, 1993.
SVG Der Satz vom Grund.
Pfullige: G. Neske, 1957.
T&B
On Time and Being. Trans. Starmlaigh. New York: Harper & Row, 1962.
TTL
‘Traditional Language and Technological Language’. Trans. Gregory. Journal
of Philosophical Research, 23 (1998), pp. 129–45.
U25
Unterwegs zur Sprache. Stuttgart: G. Neske, 1959.
W Wegmarken. Ed.
F.-W. von Herrmann. Frankfurt: V. Klostermann, 1996.
WBGM
‘The Way Back into the Ground of Metaphysics’. Trans. Kaufmann. In Existentialism
from Dostoevsky to Sartre, ed. W. Kaufmann. New York: New American Library,
1975, pp. 265–79.
WCT What is Called Thinking? Trans.
Gray. New York: Harper & Row, 1968.
WHD Was Heißt Denken? Tübingen:
M. Niemeyer, 1984.
WIP What is Philosophy? Trans.
Kluback and Wilde. New York: Twayne, 1958.
WIT What is a Thing? Trans.
Barton and Deutsch. Chicago: Henry Regnery, 1967.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét