Torill
Christine Lindstrøm
Người dịch:
Hà Hữu Nga
Tóm
tắt: “Tác tố”, khái niệm, các
mối liên hệ của nó với hữu thể luận và việc sử dụng nó trong lý thuyết khảo cổ học, vẫn
được thảo luận và phê phán. Trong lý thuyết khảo cổ học gần đây, thuật ngữ “tác
tố” đã được gán cho các sự
vật, thực vật, động vật
và con người. Bài viết này cho rằng thuật ngữ “tác
tố” về
phương diện logic là vô nghĩa nếu được áp dụng cho mọi thứ chuyển
động hoặc có ảnh hưởng đến môi
trường xung quanh và chúng ta cần một thuật ngữ mới, chính xác hơn để phân biệt
giữa “tác tố”, “hiệu lực”, “vai diễn” và “hiệu ứng”. Cái mà mọi người, trong tất cả các nền văn hóa, nhận thức và trải
nghiệm sự vật/ đối tượng có tác tố được giải thích là do
các dự phóng về các
đặc điểm của con người,
chức năng tâm lý thần kinh của con người, và thực tế là tất cả các cá nhân và các văn hóa đều can
dự sâu sắc và phụ thuộc vào
sự vật / các đối tượng. Liên quan với vấn đề này, chúng ta cũng sẽ thảo luận các vấn đề về hữu thể luận, vật linh luận, đạo đức học và các khoa học khác nhau. Bài viết xuất
trình một phê
phán về khảo cổ học đối xứng
và nghiên cứu vật chất. Các quan điểm mang
tính hệ mẫu rộng hơn, bao gồm nhiều hơn về mặt lý thuyết và phương
pháp, cùng việc đề xuất các nỗ lực liên
và xuyên bộ môn để tăng thêm “tác tố” cho khảo cổ học.
Ngọc, Ngô, Ngựa và Người
“Tác tố” dường như đã trở
thành “một chiếc búa” cho khảo cổ học. “Nếu tôi có một chiếc búa, thì mọi thứ chẳng khác nào cái móng tay” (Maslow 1966). Giờ đây tác tố là một phẩm chất được quy cho
các thực thể khác nhau như ngọc, ngô, ngựa và người (vật thể, thực vật, động vật,
con người) - và đã đạt được một lập
trường giải thích của riêng mình. Mặc dù tác tố con người thường không được coi là một phẩm chất cá nhân, mà tùy thuộc
vào cấu trúc xã hội, thì
ngược lại, tác
tố động vật ngày càng được công nhận, và thậm chí các vật / sự vật vô tri cũng
được cho là có “tác
tố” tự thân, chứ
không chỉ là loại
tác tố “thứ yếu” hay “được phân phối”. Bài viết này nhằm thảo luận và chỉ trích những cách sử dụng
khái niệm “tác tố” trong lý thuyết
khảo cổ học, kết nối nó với các ý tưởng liên quan đến các hữu thể luận khác nhau, đặt vấn đề về tính mới của
các quan điểm của khảo cổ học đối xứng và các nghiên cứu tính vật chất, và đề
xuất phát triển lý thuyết và thực nghiệm khác
trong khảo cổ học.
Tác tố, với tư cách một khái niệm giải thích, là một thuật ngữ tương đối mới trong khảo cổ học. Trong số những người đầu tiên thảo luận về nó từ góc độ khảo cổ học thuần túy là Dobres và Robb (2000), và nó đã được các đồng tác giả của họ xây dựng. Dobres và Robb đã mô tả “tác tố” là một khái niệm “khét tiếng không ổn định”, (ibid., 8), được sử dụng và phát triển trong khảo cổ học theo những cung cách rất khác nhau (sđd., 3-14). Nền tảng lý thuyết của “tác tố” trong các khoa học xã hội và nhân văn có trong các tác phẩm của một số học giả, đặc biệt là Marx (1959), Bourdieu (1977, 70-76; 1990, 56-60), Giddens (1979, 150; 1993), Gell (1998), Knappett (2005), Knappet, Malafouris (2008), Malafouris (2013), Latour (1993; 1999; 2005), và những người khác. Lịch sử tác tố trong khảo cổ học được Johnson (1989), Dornan (2002), Gardner (2004), Robb (2010) và Johannsen (2012) trình bày kỹ lưỡng.
Trong khảo cổ học, lần đầu tiên tác tố được thảo luận và
xây dựng thành khái niệm xung quanh các câu hỏi về tác tố cá nhân con người và sự sáng tạo so
với tác tố con người được các cấu trúc xã hội xác định. Tác tố được hiểu là tác tố con người do Shanks và Tilley
(1987)
đề xuất, được các lực lượng xã hội cấu thành, do Pauketat (2001,
74-79) đề xuất, như một sự giao thoa giữa các lực lượng xã hội và sự nghiệp cá nhân của Bell
(1992, 39-40), bắt nguồn từ thực tiễn và ý nghĩa chia sẻ xã hội của Hodder (1986), xuất hiện từ “trải đời” của các cá nhân với “tính sáng tạo và tính ý hướng nhìn
về tương lai” của Hodder (1986), và là “các hành động của các cá nhân tác nhân
xã hội gắn liền với môi trường sinh thái và văn hóa xã hội rộng lớn hơn” của
Joyce (2000, 71). Với Robb (2010, 493), có một bước ngoặt về tác tố được hiểu là một khái niệm phải được “lịch sử hóa trong các bối
cảnh cụ thể thay vì được sử dụng một cách khái quát”, và trong khuôn khổ quan hệ, là “phẩm
chất của các mối quan hệ mà con người hành động” ( Sđd., 515).
Những mối quan hệ này có thể với con người cũng như với bối cảnh và sự vật.
Tác
tố còn là một chủ đề cho các lĩnh vực khác ngoài triết học và khảo cổ học. Trong
tâm lý học, Bandura định nghĩa tác
tố là một khả năng hành động có ý thức, có chủ ý, và là một lực
lượng chính trong sự thích nghi, phát triển và biến đổi của con người, ở cả cấp độ tiến
hóa tập thể và cá nhân, và tác
tố con người ngụ ý một tác
tố đạo đức thông qua các cơ chế tự điều chỉnh cảm xúc. Ông khẳng định có các hệ thống
đồng phát triển và hệ thống phản hồi liên tục giữa tác tố con người cá nhân, cấu trúc xã hội
và bối cảnh/ môi trường. Tất cả đều đan xen phức tạp (Bandura 2006). Điều này
tương tự với cam kết “ý hướng
tính nội tại của hiện hữu người” của Ingold (2001, 27) “với môi trường của
mình trong quá trình nhận thức và hành động”. Tác tố của Bandura là cách
tiếp cận hệ thống, giống như Robb, nhưng với một động lực thúc đẩy con người với tư cách là các vai diễn, với trách
nhiệm đạo đức nhân
văn tương ứng. Sự
vật không được đề cập
đến.
“Sự vật-tự thân” Tác tố hay “Vật linh luận”?
Khảo cổ học đối xứng (Webmoor 2007; Witmore 2007; Olsen 2010) tập trung vào “sự vật-tự thân” và khẳng định sự phân biệt và phân chia phi tiên nghiệm giữa tác tố con người và tác tố vật chất (không phải con người). Tất cả mọi thứ (mỗi sự vật) và mọi người (mỗi cơ thể) là một vai diễn tiềm năng. Trong khi Bandura luận về các đồng-phát triển và các vòng phản hồi tương tác giữa xã hội và cá nhân, thì khảo cổ học đối xứng lại mở rộng phạm vi tương tác vượt ra ngoài cõi người bằng cách khẳng định rằng các vật thể và con người cũng tương tác và đồng-tạo lẫn nhau. Các lập trường tương tự cũng được những người khác xây dựng. Gell (1998) đã khám phá cách thức mà con người và sự vật “tương tác” với nhau và cách mọi người trải nghiệm sự vật như có tác tố và cá tính vậy. Rõ ràng ông vật lộn để đạt được một lập trường chung cục, kết thúc bằng việc phân bổ “tác tố chính” cho các thực thể sống và “tác tố phụ” cho sự vật. Latour (1993; 1999; 2005) đã phát triển lý thuyết-mạng-tác nhân (ANT), trong đó ông khẳng định rằng con người và các vật thể tương tác và đồng-tác chặt chẽ và cộng sinh đến mức các đường phân chia thực tế là hư cấu trong các mạng mở rộng. Cả con người và sự vật đều được định nghĩa là các “vai diễn”, sự vật thậm chí còn là các vai diễn có đạo đức, đồng chịu trách nhiệm về các hệ quả. Sự vật có tác tố trong đó chúng ủy thác cho con người. Hodder (2012a, 95) đã luận về tính rối và vướng mắc giữa con người và sự vật. Nhưng ngoài việc quy cho sự vật một “tác tố phụ”, Gell còn phân biệt nó với “tác tố chính” của con người, Hodder (2012a, 216) luận rằng “trong các sự vật vật thể của chúng cũng có “tác tố chính” không xuất phát từ tác tố con người . “Sự vật có tác tố chính ở chỗ chúng hành động trong thế giới với tư cách là kết quả của các quá trình tương tác vật chất, biến đổi và rã hủy”. Khảo cổ học đối xứng đưa lập trường tác tố của sự vật này lên đến cực điểm.
Khảo cổ học đối xứng đã được coi là sự phát triển thêm của tư duy hậu quá trình (Lucas 2012),
thậm chí như một nền tảng của nó (Hodder 2012b). Ngược lại, theo Johannsen
(2012, 310)
khảo cổ học đối xứng cũng trưởng
thành từ tâm trạng bất mãn với lập trường kiến tạo luận, hậu quá trình, một lập trường (theo khảo cổ học đối xứng), trước hết đại diện cho một quan
điểm nhân trung
tâm luận thái quá, nơi mọi thứ được mô tả và giải thích từ các lập trường và quan điểm của
con người; thứ hai, tập trung vào các mối quan hệ hơn là vào các thực thể cá nhân trong các quy
trình tương tác; thứ ba, bối cảnh hóa các cách giải thích đến mức biến mọi
người (cũng như các tác nhân/ vai
diễn khác) thành những con rối trên các sợi dây hoàn toàn được quyết định theo ngữ
cảnh; thứ tư, tập trung vào ý nghĩa (kiến tạo văn hóa và tinh thần phi vật chất) như
là thứ quyền lực giải thích chính (nhân
quả); thứ năm, do đó, nó
gạt tính vật chất của các hiện
vật (“sự vật”) và các mối tương tác
con người – hiện vật ra rìa bằng cách xem chúng như những biểu đạt đơn giản của các
giàn xếp ý nghĩa
được tạo dựng về mặt văn hóa, và do đó trở thành thứ yếu đối với các quá trình
văn hóa (Schiffer 1999, 6; Olsen 2007); và cuối cùng, có một thái độ phục tùng
quá đáng đối với nhân học (Olsen et al. 2012, 9). Tóm lại, theo khảo cổ học đối
xứng, quan điểm hậu quá trình có xu hướng quy
giản tính vật chất của các phát hiện và hiện vật khảo cổ, cũng như các địa điểm khảo cổ học, gần như thành hậu hiện tượng: chỉ là các chỉ số và các
vật chứa các cấu trúc, ý nghĩa và tâm trí con
người.
Cuộc đối đầu với hậu quá trình luận này xem ra là có lý. Tuy nhiên, chắc chắn đức kiên ngoan hậu quá trình luận đối với tầm quan trọng của các ý nghĩa và các cấu trúc xã hội, về bối cảnh và tương đối luận của các văn hóa đặc ứng, đã làm cho mảnh đất khảo cổ học trở nên phong nhiêu và biến thành các lược đồ mà hầu hết các công trình khảo cổ hiện nay đều xem xét. Tuy nhiên, tiềm năng của hậu quá trình luận đối với tương đối luận triết học; các diễn giải đa vũ trụ; và đa bội cấu trúc xã hội tương đối luận và không ổn định, cùng với sự kiên trì về các “ý nghĩa” gần như đến mức lãng quên đối với các vật thể vật chất “tự thân”, có thể đã khiến cho khảo cổ học đi trệch (thậm chí có thể lạc lối) khỏi bản sắc của nó với tư cách là một khoa học phát hiện vật chất từ quá khứ. Khảo cổ học đối xứng cho rằng việc chuyển từ quá trình luận sang hậu quá trình luận (mặc dù chắc chắn không phải là một hiện tượng phổ biến trong khảo cổ học (Pearce 2011)), nhưng vẫn ngụ ý một sự thay đổi từ một quỹ đạo giải thích tập trung chủ yếu vào tự nhiên-và-sự vật, sang quỹ đạo giải thích chủ yếu tập trung vào con người-và-xã hội (Webmoor 2007, 567, hình 2). Webmoor khẳng định rằng cách tiếp cận đối xứng vượt qua cả hai tiêu điểm khác nhau này. Ông cho rằng vì vậy nó khép lại cuộc “Đại Phân chia” trong tư duy phương Tây giữa tự nhiên-và-sự vật và con người-và-xã hội (Latour 1993, 13 ff.) bằng cách có tất cả các cách khớp nối khác nhau về con người-và-sự vật và tự nhiên-và-xã hội với tư cách là các quỹ đạo tương đương của giải thích. Ông luận rằng không nên giữ sự khác biệt ở các cấp độ phân tích hoặc giải thích: “Sự tái định vị hậu-nhân văn luận này giải trung tâm con người với tư cách là các hiện hữu độc lập, tự chủ cần các khái niệm giải thích riêng biệt, tạo ra nhận thức phi-(không) hiện đại luận cho rằng sự vật chỉ là một phần của hiện hữu” (Webmoor 2007, 570, nhấn mạnh trong nguyên bản).
Vì vậy cuộc trở về với “sự vật tự thân” (Olsen 2007, 581) của khảo cổ học đối xứng không phải là sự trở lại với tính vật chất của khảo cổ học truyền thống: đo đếm, phân loại và “kê danh mục” hiện vật, các loại chất liệu, việc gia công và những diễn giải của họ về các mục đích giả định. “Sự vật tự thân” là một sự trở lại khác biệt đầy kịch tính đối với cái vật chất, với cả tác tố của sự vật (tác tố vô tri) và “thực tính” hay “tính vật chất” của con người được nhấn mạnh (Boast 1997; Webmoor 2007; Witmore 2007; Knappett và Malafouris 2008; Olsen 2010). Khảo cổ học đối xứng, với các mối liên kết triết học của nó với hậu nhân văn luận (ví dụ Pickering 1995; 2001), tự tách rời khỏi miêu thuật luận của quá trình luận, kiến tạo luận của hậu quá trình luận và tách khỏi cả nhân trung tâm luận. Nó tập trung hơn vào cái mà “một tác nhân mới và chưa biết: vật im lặng” (Olsen 2003, 89) đã làm, và vẫn làm với các sự vật khác, với tự nhiên, động vật, con người và văn hóa. Tác tố vô tri gán cho sự vật được cho là không ngụ ý quy kết nhân hình luận về tính ý hướng cho các vật thể mà “vật linh luận” nắm giữ.(1) Tuy nhiên, tôi thấy nó gợi nhớ lại một cách kỳ lạ về “vật linh luận” khi cho rằng sự vật có khả năng tạo ra một hiệu lực, khi tác động vào các thực thể khác, không chỉ vì chúng có liên quan, mà còn vì các thuộc tính vốn có của chúng. Nói cách khác, khả năng ảnh hưởng và tác động đến chúng ta không thể bị quy giản thành tình trạng vướng mắc không thể thoát được với chúng; đúng hơn, nó dựa trên những phẩm chất cụ thể thực sự của riêng mình (Olsen et al. 2012, 13).
Và mục tiêu của khảo cổ học đối xứng, cụ thể là cào bằng các khác biệt giữa
những hiện hữu vô tri và hiện hữu sống, là mang tính “bình
quân”, (Olsen 2003, 88) “dân chủ và hàm
chứa” (sđd., 98). Olsen cam
đoan với chúng ta “Một lần nữa, đây
không phải là vấn đề nhân hình
luận hóa sự
vật, coi chúng là con người”, nhưng sau đó tiếp tục, “mà thay vào đó là tôn trọng tính khác biệt và toàn vẹn
của chúng” (Olsen et al. 2012, 203). Về điều này tôi phải hỏi, “tôn trọng”? Tại sao không
chỉ đơn giản là “thừa
nhận”? Khảo cổ học đối xứng dường như cân bằng (làm cho đối
xứng) cái tác tố của sự vật và con người, vô sinh và hữu sinh, và rõ ràng gán
cho tất cả lũ chúng cùng một loại tác
tố: khả năng hành động và nện
vào nhau. Việc gán tác tố cho tất cả mọi thứ/ mỗi
thứ dường như thể
hiện sự giải sinh khí của “sự vật” sống: con người và động vật như nhau; và cả việc quy gán loại tác tố gần như “vật linh luận” cho “bất kỳ-sự
vật nào nữa. Thế giới đối xứng này của những sự vật vai diễn và loại “tác nhân vô danh mới: vật thinh lặng” (Olsen 2003, 89) có phần đáng lo ngại. Nó giống với nỗi kinh hoàng về The Thing [1] viễn tưởng và loại triết học tương tự (Botting 2012). Khảo cổ học đối
xứng không phải là duy nhất trong việc làm lệch tâm con người trong
mối quan hệ của sự giao thoa giữa con người, sự vật, thực vật và động vật. Đó
là zeitgeist - tinh thần thời
đại khảo cổ học. Môn
Vật chất học và Duy vật luận Mới là những cái nhãn liên quan.
Trong nhiều khía cạnh, cái
zeitgeist này là một sự biến đổi thú vị từ quan điểm nhân trung tâm luận sang quan toàn năng trung tâm luận: một cách cào bằng tầm quan trọng và ý nghĩa của con người và sự vật trong các mô tả, diễn giải, và
việc thực hiện một loại
ngắt đoạn hậu nhân văn luận các chuỗi trong đó không thực thể nào được coi là một
nguyên nhân chính, mà
chỉ là một yếu tố trong chuỗi, mạng nhân quả đa tương tác. Cái Zeitgeist - tinh thần thời đại - này có nhiều phương diện, và những người đề xướng
có những lập trường khác nhau và những bất đồng sâu sắc (Ingold 2007; Knappett 2007; Witmore
2014; Ingold 2014). Thậm
chí cả những bất đồng với chính họ: “Khảo cổ học đối xứng
không phải là một yêu sách đối với một thế giới không phân biệt”, Witmore viết
năm 2007 (tr. 547), nhưng vào năm 2014 (tr. 206), cú giữ chỗ này đã biến mất,
khi ông tuyên rằng
“không khí và đất, mưa và biển, cửa gỗ và bờ đá xếp, vi khuẩn cố
định đạm và cỏ ba lá, các cam kết chính trị tâm lý đối với La Mã và thành Hadrian…tất cả đều là sự vật”.
Cái tinh thần thời đại ấy có những tiềm năng tích cực để gia tăng nhận thức về các tương tác giữa con người - động vật – thực vật – sự vật, và trở lại tập trung vào những sự vật trong khảo cổ học mà không nhất thiết phải có phần phụ lục giải thích “vì cái mà mục đích hay ý nghĩa của con người” là cái này hoặc cái kia đã, bị hoặc được phép xảy ra. Những quan điểm này trong khảo cổ học đã dẫn đến những thể hiện hấp dẫn, chẳng hạn như các nghiên cứu về nhận thức và kinh nghiệm của con người về “sự vật”, trong những cuốn sách như Bảo vệ sự vật (Olsen 2010), Sự vật làm gì (Verbeek 2005), Vướng rối (Hodder 2012a ), Việc chuyển tải ảnh hưởng (Brennan 2004), Khảo cổ học – Ngành học về sự vật (Olsen et al. 2012), Vật chất đầy sức sống (Bennett 2010), Suy nghĩ lại về vật chất (DeMarrais, Gosden và Renfrew 2004) và đặc biệt là Sổ tay văn hóa vật chất (Tilley et al. 2006) và Khai quật tư duy (Johannsen, Jessen và Juel Jensen 2012), và vô số bài viết khác. Nhiều công trình cũng trêu ngươi nhận thức. Tuy nhiên, tôi vẫn đặt vấn đề về “tính mới” của nhiều phát hiện và quan điểm của khảo cổ học đối xứng và của các nghiên cứu vật chất cũng như của những người Duy vật luận Mới.
Rượu cũ Bình mới?
Nhưng có ai từng nghĩ khác chưa? (Giáo sư Holger Ursin hỏi một Nghiên cứu sinh Tiến sĩ đã rất nhiệt tình trình bày các kết quả nghiên cứu có ý nghĩa về phương diện thống kê – nhưng trong thực tế, về nội dung thì lại khá tầm thường). Mặc dù chúng được trình bày dưới dạng những quan điểm mới, nhưng khi biện luận về các mối liên hệ mật thiết, đan xen và phụ thuộc lẫn nhau giữa các thực thể (chủ yếu là con người và sự vật, thực vật và động vật), cũng như quá khứ và hiện tại, tôi sẽ nói rằng chúng không đặc biệt mới. Ngôn ngữ và các công thức, đôi khi trêu ngươi và mê hoặc, nhưng kỳ dị một cách ấn tượng, phức tạp và mờ đục, có lẽ thể hiện một thể loại mới trong các văn bản khảo cổ học, trái ngược với tính rõ ràng bảo thủ của các văn bản truyền thống hơn. Nhưng các từ ngữ mới – tình trạng lúng túng, rối rắm, sập bẫy, vướng mắc, tính xếp đặt, tính phù hợp, tính vật chất, tính khách quan, sự tạo ra vật chất và những thứ khác - không tự bảo đảm “tính mới” về lý thuyết học thuật. Không phải phức hợp ngôn ngữ rắc rối với sự tinh vi triết học khôn dò đảm bảo cho các tiêu chuẩn trí tuệ cao hoặc báo hiệu những bước nhảy vọt lượng tử gây sững sờ của sự thay đổi hệ mẫu (Ingold 2007, 2; 2014, 231, 35) nó cũng không làm rõ ràng hơn. Tôi cho rằng nhiều hiểu biết mới được cho là “bình mới rượu cũ”.
Một vài ví dụ. Người ta thường biết rằng khảo cổ học liên
quan đến các di vật xưa thuộc các giai đoạn phân hủy (đang diễn ra) khác nhau. Vì vậy, Witmore viết
(2014, 213, nhấn mạnh trong
nguyên bản), Điều đáng nhớ là làm thế nào, về mặt hữu thể luận, khảo cổ học
không liên quan đến những gì đã là; nó liên quan đến những gì trở thành cái đã là, và cái đã là, có vẻ như luôn luôn đang
trong quá trình hình thành (Olsen et al. 2012;
Shanks 2012). Nói cách khác, chúng ta luôn gặp phải những tàn dư như những gì chúng
là, không phải những gì chúng đã
là, và những gì mà
một hàng đá để lộ liên quan đến những cuộc đời xưa kia của nó. Tính
mới của thông tin này không phải là điều gây ấn tượng với tôi. Khảo cổ học đối
xứng và các nghiên cứu vật chất khác trước sau gì cũng thuộc về triết học hiện tượng luận. Sự liên quan của nó đối với các nghiên cứu văn hóa-vật chất đã được Thomas
(2008, 43-72)
mô tả kỹ lưỡng. Đóng góp của nó đặc biệt liên quan đến việc minh định các cam kết hiện
thân diễn ra giữa con người và sự vật, liên quan đến hiện hữu người-trong-thế giới, và đến nhận thức. Do đó, Thomas (2008, 48)
đề cập đến Merleau-Ponty (1962, 203) và giải thích ý tưởng của ông về nhận
thức: “Một hiện hữu người hiện thân có thể nhìn thấy, và có thể di chuyển xung quanh tự thân vị trí liên quan đến sự
vật và xử lý chúng. Thị giác, xúc giác và vận động đem đến những cung cách khá đặc biệt
để tham gia vào các mối quan hệ với sự vật và không mối quan hệ nào có thể đạt được
bằng lối tư duy kỳ quái.” Ngoài sai
lầm rõ ràng mà “một hiện hữu người hiện thân có thể nhận thấy và có thể di chuyển loanh quanh” (Tôi biết nhiều “hiện
hữu người hiện thân”, những người không thể thấy hoặc di chuyển loanh quanh rất nhiều), và
ngoài cách nói vòng
vo lâm ly rằng việc
nhìn thấy và di chuyển phụ thuộc vào một cơ thể, thì có gì mới ở đây? Mặc dù được
xuất bản vào năm 1962, thâm
chí sau đó ai cũng đều biết rằng hầu hết
mọi người có thể di chuyển và nhìn
thấy. Liên quan đến
tình trạng lúng túng và các mạng lưới cũng như các tương tác giữa
con người, sự vật và thế giới nói chung, thì
các khoa học khác cũng biết điều này, và từ lâu đã thực hiện các tương tác đó. Từ lâu, lý thuyết và nghiên cứu phát triển-tâm lý đã công nhận cái tiên đề cho rằng tự nhiên và nuôi nấng (từ thực phẩm và
gia đình đến các bối cảnh văn hóa và khí hậu) tương tác không thể tách rời (Bronfenbrenner
1979; Feldman 2008). Điều tương tự cũng được công nhận trong y học, di truyền
và biểu sinh học (Spector 2012). Cơ thể và tâm trí của cá nhân từ lâu đã được biết đến là
một thể thống nhất “không
thể phân chia” (Borghi và Cimatti 2010). Và trong một viễn cảnh rộng hơn, điều mà các cá nhân được
hòa nhập sâu vào, và đồng sáng tạo với các
bối cảnh địa lý, môi trường xã hội, sáng tạo vật chất và bối cảnh văn hóa
của họ thì được coi là cơ bản và tầm thường trong tâm lý học.
Sinh học từ lâu đã nhận ra rằng các tuyến phân chia giữa vật chất và sinh vật cũng như giữa chết và sống không dễ xác định. Có những quá trình sống và chết liên tục diễn ra trong mỗi thực thể sống và các vật chất không có sự sống liên tục được tích hợp vào các bộ phận của sinh vật sống và ngược lại. Các sinh vật sống chứa các tế bào chết, cái chết không phải là một điểm mà là một quá trình và virus đã được định nghĩa là cả vật chất và sinh vật khi chúng đáp ứng một số, nhưng không phải tất cả các tiêu chí của sinh vật sinh học. Trên thực tế, những gì có vẻ là các thực thể riêng lẻ ổn định, thì đều là những “thực thể” đan xen không ổn định về phương diện quá trình. Đây là tiên đề từ các nguyên tử đến các thiên hà. Việc nói rằng sự sản xuất của hiện hữu người ra các “sự vật” và tương tác với “sự vật” trên thế giới đã có tác động biến đổi đối với những “sự vật” đó, cũng như đối với bản thân con người, là điều không có gì ngạc nhiên đối với khảo cổ học hay nghiên cứu tiến hóa (Deacon 1997). Có thể nói đến hai ví dụ mà ai cũng biết. Con người bắt đầu nấu ăn, và protein nấu chín có ảnh hưởng sâu sắc đến răng và cơ hàm người, do đó ảnh hưởng đến sự phát triển của bộ não con người (Wrangham và Conklin-Brittain 2003; Pennisi 1999). Và việc thuần hóa thực vật, chó sói, cừu và bò của con người đã có những tác động biến đổi sâu sắc đối với thực vật, chó sói, cừu và bò, cũng như đến cảnh quan, kế sinh nhai, vật chất cũng như văn hóa phi vật chất của con người, và cuối cùng là “hồi tiếp” để tạo ra những biến đổi trong cơ thể, bộ não và tư duy của con người (Serpell 1995; Mlot 1997; PBS-Nature 2007). Mối tương quan giữa tư duy và vật chất dưới hình thức phát triển phức tạp của bộ não, nhận thức và văn hóa vật chất trong những năm gần đây đã được công nhận một cách chắc chắn (hay đúng hơn là “nhận thức lại”) trong khảo cổ học nhận thức (Renfrew 2004; Malafouris 2013). Vì vậy, việc chỉ ra các phân biệt khó khăn giữa và các vướng rối sâu xa của vật chất chết và các sinh vật sống, các quá trình và sản phẩm, các mối quan hệ tương tác phức tạp, các mạng và các vòng hồi tiếp giữa con người, môi trường xung quanh và bất cứ điều gì mà con người tạo ra hoặc thao túng thì chỉ là dã tràng xe cát mà thôi.
Trong cái văn bản quan trọng
“Khảo cổ học đối xứng – Các
trích đoạn của một bản tuyên ngôn”, Witmore (2007,
556-57) đưa ra quan
điểm về hiện tượng cho
rằng các cấu trúc được tạo ra trong quá khứ vẫn là một phần trong cuộc sống của
chúng ta ngày nay, và những người đi bộ
xuống phố Oxford ở
London hôm nay được định
hướng về
vật chất trong các
chuyển động của họ bằng
các cấu trúc của con đường La Mã Via Trinobantina [2] bên dưới.
Ông trình bày điều
này như là một ví dụ về cái tác tố của một “vật”, con đường La Mã, và sự hiện diện liên tục của nó trong hiện tại với tư
cách là một vai
diễn (actant): “Dó đó, ở đây những thành
tựu của vận động định hướng thời kỳ
La Mã ngày nay, tác động đến hàng ngàn cuộc đời của thế kỷ hai mươi mốt trên cơ sở hàng ngày.” Một cách mô tả mê hoặc, gần như
thơ mộng cái cách thức mà quá khứ và hiện tại
được pha trộn không thể tách rời. Nhưng có một hiểu biết phổ biến là lịch
sử ảnh hưởng đến hiện tại, quá khứ hiện diện theo nhiều cách khác nhau, trong
các cấu trúc vật lý, trong
truyền thống và các
memes [3]. Và như Witmore
cũng nói, nhiều con đường hiện đại được xây dựng trên những con đường La Mã cổ
đại. Người ta có thể nói thêm: và họ tiếp tục kết nối các
thành phố cũng do người La Mã đặt ra và vẫn còn thịnh vượng. Tuyên bố của
ông về những con đường La Mã không có bất kỳ thông tin
mới nào, mà là kiến thức khảo
cổ học cổ điển trong một vỏ
bọc mới, một thứ “rượu cũ bình mới”.
Vật dục [4]
[C]húng ta chạm vào sự vật và sự vật đồng thời chạm vào chúng ta. Mối quan hệ có đi có lại. (Tilley 2006, 61). Tiếng Hy Lạp Agalmatophilia (ἄγαλματοφιλία) là sự hấp dẫn tình dục và hành vi tình dục đối với các bức tượng, búp bê và các dạng nhân hình khác. Ở đây tôi sử dụng nó như một phép ẩn dụ cho “vật dục” – mê đắm sự vật. Một quan sát phổ biến cho thấy cả thường dân và người có học bị đều bị chỉ trích là phi lý nếu bọn họ nhân hình hóa động vật. Tuy nhiên, giờ đây, với các cách tiếp cận “bước ngoặt-quay về-sự vật”, thì việc nhân hình hóa sự vật dường như được chấp nhận là hợp lý và thịnh hành trong khảo cổ học. Điều này kỳ lạ và mâu thuẫn. Chắc chắn, các vật thể, trong cả thời cổ đại và hiện tại, thường được quy cho anima (linh), bản sắc, đặc điểm của một loại cá nhân và được ban cho phẩm chất xúc cảm của con người (Lindstrøm 2009a). Ví dụ, trong các nền văn hóa và các thời đại khác nhau, vũ khí đã được quy gán cả tính cách và tiểu sử (Pearce 2013; Gansum và Hansen 2002, 16-17). Và nhiều người trong chúng ta đọc về điều này đã nói chuyện với máy tính của mình, và như Gell (1998, 18-19), đã trải nghiệm chiếc xe của bạn có cá tính và ý chí của riêng nó, thậm chí có thể phải chịu đau buồn khi vứt bỏ nó. Nhưng điều đó vẫn không có nghĩa, hoặc được chứng tỏ bằng bất kỳ ý nghĩa khoa học nào là các vật thể thực sự và thực tế có “linh tính”, hay “tác tố” tương tự như của các hiện hữu sống. Do đó, Gell gọi một cách khôn ngoan các hiện vật (đồ vật) là các “tác nhân thứ cấp”, với “tác tố thứ cấp”, trái ngược với “tác tố chính”, trong các “tác nhân có ý hướng chính” (con người):
“Tôi mô tả các hiện vật là “tác nhân xã hội” không phải vì tôi muốn truyền bá một hình thức thần bí luận văn hóa vật chất, mà chỉ nhìn nhận một thực tế là việc đối tượng hóa ở dạng hiện vật là cách mà tác tố xã hội thể hiện và tự thực hiện bản thân nó, thông qua sự sinh sôi nảy nở các mảnh vỡ của các tác nhân hữu ý “chính” dưới dạng nhân tạo “thứ cấp” của chúng” (Gell 1998, 21). Nhưng các lập trường khác lại gán tác tố chính cho các đối tượng vật chất, sự vật. Điều đó là có vấn đề về hữu thể luận và khoa học. Chắc chắn, mọi vật đều quan trọng. Các nghiên cứu về quan niệm của con người về sự vật; các quy gán cho sự vật; quan hệ với sự vật; sử dụng sự vật như là dấu ấn của ý nghĩa cá nhân, xã hội, chính trị, triết học, tôn giáo và hiện sinh, cũng như cách cấu thành các khuôn khổ “khách tính” xung quanh cuộc sống của các quần thể người, từ đó định hình kinh nghiệm, hoạt động và văn hóa của con người; và các nghiên cứu tập trung vào cái thực tế là bất cứ điều gì con người làm, cả với bản thân họ và với môi trường xung quanh, thì họ làm thông qua/ bằng/ với sự vật, chắc chắn có liên quan rất nhiều trong khảo cổ học. Đó là việc “cam kết với phép biện chứng của con người và sự vật”, như Đại học Stanford mô tả mục đích của môn nghiên cứu vật chất trong năm 2014. (https://web.stanford.edu/dept/anthropology/). Nhưng trong thực tế đó phần lớn là những gì khảo cổ học vẫn đang làm. Chúng ta sẽ không trở thành loài Homo sapiens sapiens Người Khôn ngoan, nếu không có những sự vật của mình. Tác tố con người cụ thể hóa, trở thành hiện hữu và tiến hóa thông qua/ bằng/ với sự vật. Cuộc sống của chúng ta là hỗn hợp của tâm trí và vật chất. Các can dự và quy gán rắc rối của con người đối với sự vật có liên quan đến khảo cổ học, lịch sử, nhân học, xã hội học, tâm lý học, triết học, kinh tế và có thể các lĩnh vực khác, và hy vọng trong nghiên cứu xuyên khoa học, như được Ingold (2001, 255 79) và nhiều người khác hình dung. Tuy nhiên, tôi khẳng định rằng những nghiên cứu này chỉ cho chúng ta biết một vài điều về “vật-tự thân”, nhưng không nhiều về “con người-tự thân”.
Con người yêu
thích sự vật. Các can dự tình cảm của con người với sự vật là có thể giải
thích được. Chúng không phải là những
ví dụ về tính bất hợp lý ở con
người. Ngược lại, chúng
chỉ ra
tính quan hệ cội
rễ sâu xa của con người
(Bowlby 1969; 1973; Robb 2010, 494).
Phẩm chất này thường là
con người (nhưng không chỉ có vậy), và là một phần thiết yếu của bản chất và sự
thích nghi của con người. Một khuynh hướng liên quan đặc biệt của con
người (hoặc linh trưởng) về mặt cảm xúc và xã hội, là tầm quan trọng của việc nhận dạng khuôn mặt
(Tsao et al. 2006; Tsao, Moeller và Freiwald 2008). Nghiên cứu tâm lý học thần kinh đã chỉ ra rằng
con người là thể dây
về phương diện thần kinh
học (trong khúc cuộn
hình thoi) đặc biệt nhậy
với các khuôn mặt và biểu cảm nét mặt. Điều này
giải thích lý do tại sao chúng ta có xu hướng “nhận
diện” “các khuôn mặt” trong tất cả các loại đối tượng và các phức hợp kích
thích võ đoán (Hadjikhani et al. 2009). Tương tự như vậy, các vật thể vô tri dường
như có linh tính, nhờ đó dường như chúng tự hành động, là vì chúng
ta, về mặt tâm lý và
thần kinh
bị buộc phải nhậy với các chuyển động, để diễn giải
các chuyển động là “thể hiện ý chí”, và để quy gán tác tố và chủ ý cho bất cứ thứ gì
chuyển động, đặc biệt nếu có
một cái gì đó trông giống như khuôn mặt.
Xu hướng này khiến
tổ tiên chúng ta rất
nhậy cảm với sự hiện diện của động vật ăn thịt và những kẻ khác (Tinbergen 1951, 191-92; Atran và Norenzayan 2004). Chúng ta phóng
chiếu vào môi trường xung quanh mình
chúng ta là gì và như thế nào. “Phóng chiếu” là thuật ngữ tâm lý học để quy gán các đặc điểm, cảm
xúc và động cơ của chúng ta cho kẻ khác. Quá trình
này là tự phát, vô thức và mạnh mẽ, và cũng được hướng tới động vật và sự vật. Do đó, việc cảm nhận theo cách hiện tượng luận rằng các vật thể
luôn đầy sinh khí, sống động, và tự
hành động, là một hiện tượng phổ biến của con người (Brown và Thouless 1965;
Harvey 2005), và chắc chắn, như vẫn thường tin tưởng, không chỉ điển hình ở
trẻ em và người săn bắt hái lượm. Thật đáng ngạc nhiên, người Hy Lạp cổ đại, nổi
tiếng với triết học, logic và khoa học
sơ khai của họ, nhưng
vẫn có xu hướng coi các bức tượng là sống động (Schnapp 1994),
và một số người mê
đắm chúng, thậm chí đến mức làm tình với chúng (agalmatophilia)
(Scobie và Taylor 1975). Tóm lại: một số đặc điểm nhất định về nhận thức, dự phóng và các quá trình quy gán nhận thức của con
người, cùng với xu hướng mạnh mẽ của con người để hình thành các mối quan hệ, tạo
ra “linh tính” và “tác tố” trong các vật thể vô tri rất có thể
được những người săn bắt hái lượm, người Hy Lạp cổ đại, và các giáo sư đại học
hiện đại nhận thức và trải nghiệm như nhau.
_____________________________________
Còn nữa…
Nguồn: Lindstrøm,
Torill Christine (2015). Agency ‘in
itself’. A discussion of inanimate, animal and human agency. Archaeological Dialogues/ Volume 22/
Issue 02/ December 2015, pp 207 – 238.
Tác giả: Torill Christine
Lindstrøm (1953), giáo sư tâm lý
học tại Đại học Bergen: 1973 Thạc sĩ tâm lý học: Đại học Bergen, Na Uy, 1980 Tiến sĩ, Đại học Bergen,
Na Uy, 1998. Nghiên cứu sau đại học về khảo cổ học, Đại học Bergen,
Na Uy, 1999.
Từ
1998 Cộng sự, Khoa Y tế Công cộng và Chăm sóc sức khỏe ban đầu. 2006 giáo sư,
Khoa học Tâm lý. Các nhóm liên kết nghiên cứu hiện tại: Quyết định, Trực giác, Nhận thức,
Cảm xúc; Khoa Khảo cổ học, Lịch sử, Văn hóa và Tôn giáo (AHKR), Khoa Nhân văn, Đại
học Bergen, Khoa Triết học, Đại học Oslo, Na Uy và Đại học Nottingham, Vương
quốc Anh.
Ghi chú của người dịch:
[1]
The Thing: Sinh vật biến hình, còn được biết tên với tên gọi John Carpenter's
The Thing là một phim kinh dị khoa học viễn tưởng của đạo diễn John Carpenter,
kịch bản của Bill Lancaster, với diễn viên chính là Kurt Russell. Cái tên The
Thing đề cập đến nhân vật phản diện xuất hiện trong phim, một sinh vật ngoài
hành tinh sống ký sinh với khả năng đồng hóa những sinh vật khác và mô phỏng
chúng. Sinh vật này đã xâm nhập vào một trạm nghiên cứu ở Nam Cực, mô phỏng
được diện mạo của các nhà nghiên cứu mà nó hấp thụ, và gây mâu thuẫn nội bộ
trong bọn họ.
[2] Via Trinobantina - Phố Oxford, London có một lịch sử
lâu dài, ban đầu được người
La Mã xây dựng, và được gọi là Via Trinobantina, đặt theo tên của
bộ lạc địa phương trước đây cai trị khu vực London trước cuộc xâm lược của La
Mã, và từ đó nó đã xen kẽ chủ yếu giữa thương mại và khu dân cư. những năm
1830 trở đi, nhất là sự phát triển
kinh tế mạnh mẽ của Luân Đôn dưới thời Victoria, Phố
Oxford đã được chuyển đổi thành một địa chỉ bán lẻ nổi tiếng. Nhà ở đều biến thành các cửa
hàng và giữa 1865-1890 Oxford Street đã trải qua một chương trình tái thiết lớn. John Lewis
đã được mở trên đường
Oxford vào năm 1864 và Selfdrops mở vào năm 1909.
[3] Meme là một quan niệm, hành vi, hoặc phong
cách lan truyền từ người này sang người khác trong một nền văn hóa — thường với
mục đích chuyển tải một hiện tượng, chủ đề, hoặc ý nghĩa cụ thể do meme đại diện.
Một meme hoạt động như một đơn vị để mang những quan niệm, biểu tượng, hoặc những
thói quen thuộc về văn hóa có thể truyền tải từ ý nghĩ của người này sang người
khác thông qua việc viết, nói, cử chỉ, nghi thức, hoặc các hiện tượng có thể mô
phỏng khác. Từ meme là dạng rút gọn của mimeme tiếng Hy Lạp cổ μίμημα, “điều được
mô phỏng”, do nhà sinh học tiến hóa người Anh Richard Dawkins tạo ra trong cuốn
The Selfish Gene (1976) như là một
khái niệm để thảo luận về các nguyên lý tiến hóa nhằm giải thích sự lan truyền
của những ý niệm và hiện tượng văn hóa.
Ghi chú
(1). Trong phần sau
tôi sẽ sử dụng “vật linh luận” (có dấu ngoặc kép) cho một niềm tin không phân biệt rằng vạn vật đều sống động và
đầy sinh khí, trong khi tôi sẽ sử dụng vật linh luận (không có dấu ngoặc kép)
cho một quan niệm sâu sắc hơn về các
mô tả thế giới của (một số) người săn bắn hái lượm và du mục.
(2). Động vật cũng phản
ứng bằng ngạc nhiên và sợ hãi mỗi khi các vật thể (vật) phát ra âm thanh hoặc tự di
chuyển như thể chúng là
những vật sống
vậy. Điều mà động vật phát hiện ra sự kỳ lạ này cho
thấy rằng chúng cũng phân biệt giữa hiện hữu sống và không
sống. Nhưng động vật được thuần hóa không phản ứng với nỗi sợ hãi đối với các
chuyển động và âm thanh được tạo ra bởi các vật thể kỹ thuật mà chúng biết con
người sử dụng hoặc những vật mà chúng tự mình sử dụng. Động vật thuần
hóa được chăm nuôi/ nhập văn hóa/ sử dụng các
thiết bị chuyển động trong môi trường của chúng và có thể sử dụng các thiết bị đó. (Chú chó của cụ tôi thường xuyên
đi phà đến thăm một bạn
người).
(3). Một trong những người cung cấp thông tin của Grøn đã có bằng Tiến sĩ Y học (Grøn 2010,
110).
(4). Đây là sự thích nghi theo quan điểm tiến hóa, mặc dù Ingold (2006, 11-12) tuyên bố đó chỉ là bản nháp.
(5). Ở thành thị Na Uy ngày nay, có rất ít sự vật thỏa mãn được với sự phẫn
nộ mạnh mẽ hơn của công chúng về
việc đốn hạ những cây cổ thụ lớn. Chúng là những sinh vật được yêu thích, mặc dù được
công nhận là thực vật. Giáo sư triết học người Na Uy được quốc tế công nhận, Arne Næss, đã tuyên bố
rằng với ông, ngọn núi Hallingskarvet là hình tượng một người cha.
Điều này không được coi là kỳ lạ, vì nhiều người Na Uy có tình cảm cá nhân sâu
sắc với những ngọn núi và những “sự vật” khác cùng các địa điểm
trong tự nhiên. Tuy nhiên, người Na Uy không được coi là những người vật linh luận. Ngược lại, một sự hợp lý phổ biến đặc trưng cho văn hóa Na Uy, theo nhà
triết học và nhà phân tích văn hóa Ba Lan Nina Witoszek (1998).
(6). “Não bộ” có nghĩa là có
một hệ thống thần kinh trung ương, một bộ não, một khối óc. Nó là một thuật
ngữ sinh học. Thuật ngữ “có
khả năng nhận thức”, “có cảm giác và ý thức”, đề cập đến các chức năng của não, chủ yếu là một thuật ngữ triết học và
ít chính xác.
(7). Tuyên bố Cambridge về Ý thức được P. Low viết, J. Panksepp, D. Reiss, D. Edelman, B. Van Swinderen, P. Low và C. Koch chỉnh sửa, và tuyên bố công khai tại Cambridge, UK, vào ngày 7 Tháng 7 năm
2012, tại Hội nghị Ý thức về Động vật và Người không phải là Con người, tưởng niệm Crick
Francis, Đại học Churchill, Đại học Cambridge. Nó được những người tham gia hội
nghị với sự có mặt của Stephen Hawking ký trong Phòng Balfour tại Hotel du Vin, ngày 7
tháng 7 năm 2012, Cambridge, Vương quốc Anh.
(8). Việc vi khuẩn lam tạo
ra oxy và do đó góp phần tạo ra bầu khí quyển Trái đất không khiến chúng phải
chịu trách nhiệm cho sự thay đổi môi trường đó. Nhưng con người hiện đại phải chịu trách nhiệm về việc gây ô nhiễm khí
quyển bằng CO2.
(9). Việc công nhận tác tố con người bao
gồm cả trách nhiệm đạo đức là xương sống của tất cả các hệ thống pháp lý trên
toàn thế giới. Việc tạo ra các quy tắc và
mệnh lệnh đạo đức dường như thuộc về bản chất con người.
Tài liệu dẫn
Âikäs, T., A.-K. Puputti, M. Núnez, J. Aspi and J. Okkonen, (2009).
Sacred and profane livelihood. Animal bones from sieidi sites in northern
Finland, Norwegian archaeological review 42, 109–22.
Alberti, B., and T.L. Bray (eds), (2009). Animating archaeology.
Of subjects, objects and alternative ontologies, Special section of
Cambridge archaeological journal 19, 337–441.
Argent, G., (2010). Do the clothes make the horse? World
archaeology 42, 157–74.
Atran, S., and A. Norenzayan, (2004). Religion’s evolutionary
landscape. Counterintuition, commitment, communion, Behavioral and brain
sciences 27, 713–70.
Auersperg, A.M.I., A. Kacelnik and A.M.P. von Bayern, (2013).
Explorative learning and functional inferences on a five-step means–means–end
problem in Goffin’s cockatoos (Cacatua goffini), PLoS ONE 01/2013;
8(7).
Bandura, A., (2006). Toward a psychology of human agency, Perspectives
on psychological science 1, 164–80.
Barrett, D., (2010). Supernormal stimuli. How primal urges
overran their evolutionary purpose, New York.
Bearzi, M., and C.B. Stanford, (2008). Beautiful minds. The
parallel lives of great apes and dolphins, Cambridge.
Bekoff, M., (2007). The emotional lives of animals, Novato.
Bekoff, M., C. Allen and G.M. Burghardt (eds), (2002). The
cognitive animal. Empirical and theoretical perspectives on animal cognition,
Cambridge.
Bell, J., (1992). On capturing agency in theories about
prehistory, in J.C. Gardin and C. Pebbles (eds), Representations in
archaeology, Bloomington, 30–55.
Bennett, G.G., and K.N. Laland, (2005). Social learning in
animals. Empirical studies and theoretical models, BioScience.
Bennett, J., (2010). Vibrant
matter. A political ecology of things, Durham, NC.
Boast,
R., (1997). A small company of actors. A critique of style, Journal
ofmaterial culture 2, 173–98.
Borghi,
A.M., and F. Cimatti, (2010). Embodied cognition and beyond. Acting and sensing
the body, Neuropsychologica, 48, 3, 763–73.
Botting,
F., (2012). More things. Horror, materialism and speculative weirdism, Horror
studies 3, 281–303.
Bourdieu,
P., (1977). Outline of a theory of practice, New York.
Bourdieu,
P., (1990). The logic of practice, Stanford, CA.
Bovet,
D., and J. Vauclair, (2000). Picture recognition in animals and humans. A
review, Behavioural brain research 109, 143–65.
Bowlby,
J., (1969). Attachment and loss, Vol. 1, Attachment, New York.
Bowlby,
J., (1973). Attachment and loss, Vol. 2, Separation, anxiety and
anger, London.
Bradbury,
J.W., and S.L. Vehrencamp, (2011). Principles of animal communication,
Sunderland.
Brennan,
T. (2004). The transmission of affect, Ithaca, NY.
Bronfenbrenner,
U., (1979). The ecology of human development. Experiments by nature and
design, Cambridge.
Brown,
L.B., and R.H. Thouless, (1965). Animistic thoughts in civilized adults, Journal
of genetic psychology 107, 33–42.
Bugnyar,
T., and K. Kotrschal, (2002). Observational learning and the raiding of food
caches in ravens, Corvus corax. Is it ‘tactical’ deception? Animal
behaviour 64, 185–95.
Burr,
V., (1995). An introduction to social constructivism, London.
Calder,
L., (2011). Cruelty and sentimentality. Greek attitudes to animals, 600–300
BC, Oxford (BAR International Series 2225).
Call,
J., and M. Tomasello, (1998). Distinguishing intentional from accidental
actions in orangutans (Pongo pygmaeus), chimpanzees (Pan troglodytes),
and human children (Homo sapiens), Journal of comparative psychology 112(2),
192–206. Cambridge Declaration on Consciousness, 2012, written by P. Low and
edited by J. Panksepp, D. Reiss, D. Edelman, B. Van Swinderen, P. Low and C.
Koch.
Clayton,
N.S., J.M. Dally and N.J. Emery, (2007). Social cognition by food caching
corvids. The western scrub-jay as a natural psychologist, Philosophical
transactions of the Royal Society B 362, 507–22.
Corballis,
M.C., and S.E.G. Lea (eds), (1999). The descent of mind. Psychological
perspectives on human evolution, London.
Coy,
J., (1994). Animals’ attitudes to people, in T. Ingold (ed.), What is an
animal?, London, 77–83.
Dalton,
R., (2010). Fossil finger points to new human species. DNA analysis reveals
lost relative from 40,000 years ago, Nature 464, 7288, 472.
Deacon,
T.W., (1997). The symbolic species. The co-evolution of language and the
brain, New York.
DeMarrais,
E., C. Gosden and C. Renfrew (eds), (2004). Rethinking materiality. The
engagement of mind with the material world, Cambridge.
Descartes,
R., (1984). The philosophical writings of Descartes, Vol. 2 (tr. J.
Cottingham, R. Stoothoff and D. Murdoch), Cambridge.
Descola,
P., (2005). Beyond nature and culture, Proceedings of the British Academy 139,
137–55.
Dobres,M.-A.
and J. Robb, (2000). Agency in archaeology. Paradigm or platitude? in M.-A.
Dobres and J. Robb (eds), Agency in archaeology, London, 3–17.
Dolinski,
D., and K. Szczucka, (2013). Emotional disrupt-then-reframe technique of social
influence, Journal of applied social psychology 43, 2013–14.
Dornan,
J.L., (2002). Agency and archaeology. Past, present, and future directions, Journal
of archaeological method and theory 9(4), 303–29.
Faarlund,
J.T., (2009). Darwin og evolusjonsteorien i lingvistikken, in D.O. Hessen, T.
Lie and N.C. Stenseth (eds), Verden ble aldri den same, Oslo, 229–50.
Feldman,
R.S., (2008). Development across the life span, 6th edn, Englewood
Cliffs.
Fijn,
N., (2009). Living with herds. Human–animal co-existence in Mongolia,
Cambridge.
Fowler,
C., (2004). The archaeology of personhood. An anthropological approach,
London.
Ganguli,
I., (2006). Mice show evidence of empathy, The Scientist, 30 July,
available at www.thescientist.com/news/disply/23764/#23829, accessed 30 June
2006.
Gansum,
T., and H. Hansen, (2002). Fra jern til stål. Mytologiske og rituelle
aspekter i teknologiske prosesser, Borre.
Gardner,
A. (2004). Agency uncovered. Archaeological perspectives on social agency,
power and being human, London.
Gardner,
R.A., and B. Gardner, (1998). The structure of learning. From sign stimuli
to sign language, New York.
Gell,
A., (1998). Art and agency. An anthropological theory, Oxford.
Giddens,
A., (1979). Central problems in social theory. Action, structure, and
contradictions in social analysis, Berkeley.
Giddens,
A., 1993 (1976). New rules of sociological method, Stanford, CA.
Gilhus,
I.S., (2006). Animals, gods and humans. Changing attitudes to animals in
Greek, Roman and early Christian ideas, London.
Goettner-Abendroth,
H., (2012). Matriarchal societies. Studies on indigenous cultures across the
globe, New York.
Goldberg,
P., and R. Macphail, (2006). Practical and theoretical geoarchaeology,
Oxford.
Gosling,
S.D., and O.P. John, (1999). Personality dimensions in nonhuman animals. A
cross-species review, Current directions in psychological science 8,
69–75.
Graves,
R., (1997). The Larousse encyclopedia of mythology, London.
Griffin,
D.R., and G.B. Speck, (2004). New evidence of animal consciousness, Animal
cognition 7, 5–18.
Grøn,
O., (2010). Evenk shamans. A non-exotic approach. Ethnoarchaeological
observations, in K. Hardy (ed.), Archaeological invisibility and forgotten
knowledge. Conference proceedings, Kódʹz, Poland, 5–7 September 2007.
Oxford (British Archaeological Reports, International Series 2183), 108–14.
Güzeldere,
G., E. Nahmias and R.O. Deaner, (2002). Darwin’s continuum and the building
blocks of deception, in M. Bekoff, C. Allen and G.M. Burghardt (eds), The
cognitive animal. Empirical and theoretical perspectives on animal cognition,
Cambridge, 353–62.
Hadjikhani,
N., K. Kveraga, K.P. Naik and S.P. Ahlfors, (2009). Early (M170) activation of
facespecific cortex by face-like objects, NeuroReport 20, 403–7.
Hartmann,
E. von. (1871). Kantische Studien zur Erkenntnisstheorie und Metaphysik,
Berlin.
Harvey,
G., (2005). Animism. Respecting the living world, Adelaide.
Hill,
E., (2013). Archaeology and animal persons. Toward a prehistory of human–animal
relations, Environment and society. Advances in research 4, 117–36.
Hodder,
I., (1986). Reading the past, Cambridge.
Hodder,
I., (2000). Agency and individuals in long-term processes, in M.-A. Dobres and
J. Robb (eds), Agency in archaeology, London, 21–33.
Hodder,
I., (2012a). Entangled. An archaeology of the relationships between humans
and things, Chichester.
Hodder,
I., (2012b). Introduction. Contemporary theoretical debate, in I. Hodder (ed.),
Archaeological theory today, Cambridge, 1–14.
Hoskins,
J., (2006). Agency, biography and objects, in C. Tilley, W. Keane, S. Küchler,
M. Rowlands and P. Spyer (eds), Handbook of material culture, London,
74–84.
Ingold,
T. (ed.) 1994: What is an animal? London.
Ingold,
T., (2000). The perception of the environment. Essays in livelihood,
dwelling and skill, London.
Ingold,
T., 2001 (1998). From complementarity to obviation. On dissolving the
boundaries between social and biological anthropology, archaeology, and
psychology, in S. Oyama, P.E. Griffiths and R.D. Gray (eds), Cycles of
contingency. Developmental systems and evolution, Cambridge, 255–80; first
published in Zeitschrift für Etnologie 123, 21–52.
Ingold,
T., (2006). Rethinking the animate, re-animating thought, Ethnos 71,
9–20.
Ingold,
T., (2007). Materials against materiality, Archaeological dialogues 14(1),
1–16.
Ingold,
T., (2014). Is there life amidst the ruins? Journal of contemporary
archaeology 1(2), 231–35.
Jennbert,
K., (2011). Animals and humans, Lund.
Johannsen,
N., (2012). Archaeology and the inanimate agency proposition. A critique and a
suggestion, in N. Johannsen,M. Jenssen and H. Juel Jensen (eds), Excavating
the mind. Cross-sections through culture, cognition andmateriality, Aarhus,
305–47.
Johannsen,
N., M. Jenssen and H. Juel Jensen (eds) (2012). Excavating the mind.
Cross-sections through culture, cognition and materiality, Aarhus.
Johnson,
M., (1989). Conceptions of agency in archaeological interpretation, Journal
of anthropological archaeology 8, 189–211.
Johnson,
R.B., and A.J. Onwuegbuzie, (2004). Mixed methods research. A research paradigm
whose time has come, Educational researcher 33, 14–26.
Joyce,
A.A., (2000). The founding of Monte Albán. Sacred propositions and social
practices, in M.-A. Dobres and J. Robb (eds), Agency in archaeology,
London, 71–91.
Kaminski,
J., (2013). Dogs steal in the dark, Animal cognition 16, 385–94.
Knappett,
C., (2005). Thinking through material culture. An interdisciplinary
perspective, Philadelphia.
Knappett,
C., (2007). Materials with materiality? Archaeological dialogues 14(1),
20–23.
Knappett,
C., and L. Malafouris, (2008). Material and nonhuman agency. An introduction,
in C. Knappett and L. Malafouris (eds.), Material agency. Towards a
non-anthropocentric approach, New York, ix–xix.
Kohring,
S., (2014). Materiality, technology, and constructing social knowledge through
bodily representation. A view from prehistoric Guernsey, Channel Islands, European
journal of archaeology 17, 248–63.
Kvale,
S., (2006). InterViews. An introduction to qualitative research interviewing,
London.
Latour,
B., (1993). We have never been modern, London.
Latour,
B., (1999). Pandora’s hope. Essays on the reality of science studies,
Cambridge.
Latour,
B., (2005). Reassembling the social. An introduction to actor-network theory,
Oxford.
Lindstrøm,
T.C., (2009a). Different classes of entities, interactions, and identities. But
have human perception of animals and objects really changed over time?, paper
delivered at 31st Annual Meeting of the Theoretical Archaeology Group (UK-TAG),
Durham, 17–19 December.
Lindstrøm,
T.C., (2009b). Function or fashion? Costume and colour in the Villa deiMisteri
fresco cycle, lecture delivered at Accordia Research Centre, Institute of
Classical Studies, School of Advanced Studies, University of London, and
Institute of Archaeology, University College London, University of London, 10
November 2009.
Lindstrøm,
T.C., (2010). The animals of the arena. How and why could their destruction and
death be endured and enjoyed?, World archaeology 42, 313–26.
Lindstrøm,
T.C., (2012). ‘I am the walrus’. Animal identities and merging with animals –
exceptional experiences? Norwegian archaeological review 45, 151– 76.
Lindstrøm,
T.C., (2014). Copy or not a copy? That’s the question, El retrado privado en
AVGVSTA EMERITA. Arqueologica clásica (CIAC 2013),Merida, 47–50.
Lindstrøm,
T.C and E. Zubrow, (2014). Fear and amazement, in L. Eneix (ed.), Archaeoacoustics.
The archaeology of sound, Mayakka, 255–64.
Lucas,
G., (2012). Understanding the archaeological record, Cambridge.
Malafouris,
L., (2013). How things shape the mind, Cambridge.
Marx,
K., 1959 (1932). Economic and philosophicmanuscripts of 1844,Moscow.
Maslow,
A.H., (1966). The psychology of science. A reconnaissance, New York.
Merleau-Ponty,
M., (1962). Phenomenology of perception, London.
Midgley,
M., (1995). Beast and man. The roots of human nature, London.
Mlot,
C., (1997). Stalking the ancient dog, Science news online, 28 June,
available at www.sciencenews.org/sn_arc97/6_28_97/bob1.htm, retrieved 23 July
2008.
Moe,
D., F. Fedele, A.E. Maude and M. Kvamme, (2007). Vegetational changes and human
presence in the low-alpine and subalpine zone in Val Febbraro, upper Valle di
Spuga (Italian Central Alps), from the Neolithic to the Roman period, Vegetation
history and archeobotany 16, 431–51.
Molloy,
K., and M. O’Connell, (2004). Holocene vegetation and land-use dynamics in the
karstic environment of Inis Oírr, Aran Islands, western Ireland. Pollen
analytical evidence evaluated in the light of the archaeological record, Quaternary
international 113, 41–64.
Mumford,
S., and R. Anjum, (2011). What we tend to mean? Norsk filosofisk tidsskrift 46(1),
20–32.
Myrstad,
R., (1996). Bjørnegraver i Nord-Norge. Spor etter den samiske bjørnekulten,
Tromsø (Stensilserie B, historie/arkeologi 46).
Myszka,
A., J. Piontek and E. Miłosz, (2012). Traumatic injuries in the late medieval
and early modern population from Lekno, Poland, Interdisciplinaria
archaeologica 3, 237–43.
Nelson,
R.K., (1983). Make prayers to the raven. A Koyukon view of the northern
forest, Chicago.
Nilsson
Stutz, L., (2010). The way we bury our dead. Reflections on mortuary ritual,
community and identity at the time of the Mesolithic–Neolithic transition, Documenta
praehistorica 37, 33.
Ohman,
A., and S. Mineka, (2001). Fears, phobias, and preparedness. Toward an evolved
module of fear and fear learning, Psychological review 108, 483–522.
Olsen,
B., (2003). Material culture after text. Re-membering things, Norwegian
archaeological review 36, 87–104.
Olsen,
B., (2007). Keeping things at arm’s length. A genealogy of asymmetry, World
archaeology 39, 579–88.
Olsen,
B., (2010). In the defence of things. Archaeology and the ontology of
objects, Lanham, MD.
Olsen,
B., M. Shanks, T. Webmoor and C. Witmore, (2012). Archaeology. The
discipline of things, Berkeley, CA.
Oma,
K.A., (2010). Between trust and domination. Social contracts between humans and
animals, World archaeology, 42, 175–87.
Ovchinnikov,
I., A. Götherström, G. Romanova, V. Kharitonov, K. Lidén and W. Goodwin,
(2000). Molecular analysis ofNeanderthalDNAfrom the northern Caucasus, Nature,
404, 490–93.
Overmier,
J.B. (1986). Reassessing the learned helplessness hypothesis, Social science
71, 27–31.
Panksepp,
J., (1998a). Affective neuroscience. The foundations of human and animal emotions,
New York.
Panksepp,
J. (1998b). The periconscious substrates of consciousness. Affective states and
the evolutionary origins of the self, Journal of consciousness studies 5,
566–82.
Panksepp,
J., (2005a). Affective consciousness. Core emotional feelings in animals and
humans, Consciousness and cognition 14, 30–80.
Panksepp,
J., (2005b). Beyond a joke. From animal laughter to human joy? Science 308,
62–63.
Panksepp,
J., and L. Biven, (2010). The archaeology of mind. Neuroevolutionary origins
of human emotion, New York.
Pauketat,
T. (2001). Practice and history in archaeology, Anthropological theory 1,
73–98.
PBS-Nature,
(2007). Dogs that changed the world. The rise of the dog, available at
www.pbs.org/wnet/nature/dog/garbage.html, retrieved 8 May 2007.
Pedersen,
M., (2001). Totemism, animism and north Asian indigenous ontologies, Journal
of the Royal Anthropological Institute 7, 411–27.
Pennisi,
E., (1999). Did cooked tubers spur the evolution of big brains? Science 283,
2004–5.
Pearce,
M., (2011). Have rumours of the ‘death of theory’ been exaggerated?, in J.
Bintliff and M. Pearce (eds), The death of archaeological theory?,
Oxford, 80–87.
Pearce,
M., (2013). The spirit of the sword and spear, Cambridge archaeological
journal 23, 55–67.
Pickering, A., (1995). The mangle
of practice. Time, agency, and science, Chicago.
Pickering,
A., (2001). Reading the structure, Perspectives on science 9, 499–510.
Pinker,
S., 1999: How the mind works, New York.
Piontek,
J., and V. Vanˇcata, (2012). Transition to agriculture in central Europe. Body
size and body shape amongst the first farmers, Interdisciplinaria
archaeologica 3, 23–42.
Plotnik,
J.M., F.B.M. de Waal and D. Reiss, (2006). Self-recognition in an Asian
elephant, Proceedings of the National Academy of Sciences (abstract)
103(45), 17053–57.
Povinelli,
D.J., A.B. Rulf, K.R. Landau and D.T. Bierschwale, (1993). Selfrecognition in
chimpanzees (Pan troglodytes). Distribution, ontogeny, and patterns of
emergence, Journal of comparative psychology 107, 347–72.
Prag,
J., and R. Neave, (1997). Making faces. Using forensic and archaeological
evidence, College Station.
Prior,
H., A. Schwarz and O. Güntürkün, (2008). Mirror-induced behavior in the magpie
(Pica pica): Evidence of self-recognition, PLoS Biology 6(8),
e202
Raby,
C.R., D.M. Alexis, A. Dickinson and N.S. Clayton, (2007). Planning for the
future by western scrub jays, Nature 445, 919–21.
Renfrew,
C., (2004). Towards a theory of material engagement, in E. Demarrais, C. Gosden
and C. Renfrew (eds), Rethinking materiality, Cambridge, 23–32.
Renfrew,
C., and E.B.W. Zubrow (eds), (1994). The ancient mind. Elements of cognitive
archaeology, Cambridge.
Reed,
E.S., (1988). The affordances of the animate environment. Social science from
the ecological point of view, in T. Ingold (ed.), What is an animal? London,
110–26.
Robb,
J., (2010). Beyond agency, World archaeology 42, 493–520.
Rothbauer,
P., (2008). Triangulation, in L. Given (ed.), The SAGE encyclopedia of
qualitative research methods, Thousand Oaks.
Ryan,
C., and C. Jethá, (2010). Sex at dawn. The prehistoric origins of modern
sexuality, New York.
Schiffer,
M.B. (with A.R. Miller), (1999). The material life of human beings.
Artifacts, behaviour and communication, London.
Schnapp,
A., (1994). Are images animated. The psychology of statues in ancient Greece,
in C. Renfrew and E.B.W. Zubrow (eds), The ancient mind. Elements of
cognitive archaeology, Cambridge, 40–44.
Scobie,
A., and A.J.W Taylor, (1975). Perversions ancient and modern. I.
Agalmatophilia, the statue syndrome, Journal of the history of the
behavioural sciences 11, 49–54.
Seligman,
M.E.P., (1975). Helplessness. On depression, development, and death, San
Francisco.
Serpell,
J., (1995). The domestic dog. Its evolution, behaviour, and interactions
with people, Cambridge.
Shackelford,
T.K., D.P. Schmitt and D.M. Buss, (2005). Universal dimensions of human mate
preferences, Personality and individual differences 39, 447–58.
Shanks,
M., (2012). The archaeological imagination, Walnut Creek.
Shanks,
M. and C. Tilley, (1987). Re-constructing archaeology. Theory and practice,
London.
Sigurdsson,
H., S. Cashdollar and S.R.J. Sparks, 1982: The eruption of Vesuvius in AD 79.
Reconstruction from historical and volcanological evidence, American journal
of archaeology 86, 39–51.
Smuts,
B., (2002). Gestural communication in olive baboons and domestic dogs, in M.
Bekoff, C. Allen and G.M. Burghardt (eds), The cognitive animal. Empirical
and theoretical perspectives on animal cognition, Cambridge, 443–50.
Spector,
T., (2012). Identically different, London.
Stamps,
J.A., (2007). Growth–mortality tradeoffs and ‘personality traits’ in animals, Ecology
letters 10, 355–63.
Teddlie,
C., and A. Tashakkori (eds.), (2003). Handbook of mixed methods in social
and behavioural research, Thousand Oaks.
Thomas,
J., (2008). Phenomenology and material culture, in C. Tilley, W. Keane, S.
Küchler, M. Rowlands and P. Spyer (eds), Handbook of material culture,
Los Angeles, 43–59.
Tilley,
C., (2006). Objectification, in C. Tilley, W. Keane, S. Küchler,M. Rowlands and
P. Spyer (eds.), Handbook of material culture, London, 60–73.
Tilley,
C.,W. Keane, S. Küchler,M. Rowland and P. Spyer (eds), (2006). Handbook of
material culture, London.
Tinbergen,
N., (1951). The study of instinct, Oxford.
Tolman,
E. C., (1948). Purposive behaviour in animals and man, Psychological review 55,
189–258.
Tsao,
D.Y., W.A. Freiwald, R.B. Tootell and M.S. Livingstone, (2006). A cortical
region consisting entirely of face-selective cells, Science 311, 670–74.
Tsao,
D.Y., S. Moeller and W.A. Freiwald, (2008). Comparing face patch systems in
macaques and humans, Proceedings of the National Academy of Science in the
USA 105, 19514–19. Universal Declaration of Human Rights, 1948. un.org.
Verbeek,
P.-P., (2005). What things do. Philosophical reflections on technology,
agency, and design, Pennsylvania.
Viveiros
de Castro, E., (1998). Cosmological deixis and Amerindian perspectivism, Journal
of the Royal Anthropological Institute 4, 469–88.
Webmoor,
T., (2007). ‘What about one more turn after the social’ in archaeological
reasoning? Taking things seriously, World archaeology 39, 563– 78.
Wilcox,
S., and R. Jackson, (2002). Jumping spider tricksters. Deceit, predation, and
cognition, in M. Bekoff, C. Allen and G.M. Burghardt (eds), The cognitive
animal. Empirical and theoretical perspectives on animal cognition,Cambridge,
27–33.
Willerslev,
R., (2007). Soul hunters. Hunting, animism and personhood among the Siberian
Yukaghirs, Berkeley, CA.
Willerslev,
R., and O. Ulturgasheva, (2012). Revisiting the animism versus totemism debate.
Fabricating persons among the Eveny and Chukchi of north-eastern Siberia, in M.
Brightman, V.E. Grotti and O. Ulturgasheva (eds), Animism in rainforest and
tundra. Personhood, animals, plants and things in contemporary Amazonia and
Siberia, New York, 48–68.
Witmore,
C.L., (2007). Symmetrical archaeology. Excerpts of a manifesto, World
archaeology 39, 546–62.
Witmore,
C.L., (2014). Archaeology and the new materialisms, Journal of contemporary
archaeology 1(2), 203–46.
Witoszek,
N., (1998). Norske naturmytologier. Fra Edda til økofilosofi, Oslo.
Wrangham,
R., and N.L. Conklin-Brittain, 2003: Cooking as a biological trait, Comparative
biochemistry and physiology, Part A 136, 35–46.
Wynn,
T., (2002). Archaeology and cognitive evolution, Behavioral and brain
sciences 25, 389–438.
Zastawnya,
A., A. Rauba-Bukowskab, J. Tra˛bskac and B. Trybalskad, (2013). Results of
themicroscopic analyses of vessels from assemblages of the Modlnica Type (with
Furchenstichkeramik) from Site 5 in Modlnica, Kraków District, Poland, Interdisciplinaria
archaeologica 3, 257–77.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét