Powered By Blogger

Chủ Nhật, 14 tháng 6, 2020

Hệ mẫu trong Khoa học và Khảo cổ học (I)


G. A. Clark

Người dịch: Hà Hữu Nga

Khái niệm hệ mẫu [1] được phát triển trong bối cảnh triết học khoa học phương Tây đã được xem xét, và các hệ mẫu siêu hình chi phối các giao thức nghiên cứu trong khảo cổ học tiền sử chính thống Tân Thế giới và Cựu Thế giới cũng được mô tả và so sánh. Kết luận được rút ra là việc nghiên cứu khảo cổ học Tân Thế giới sau 1970 được ủy thác tri thức từ nhân học, xác lập dựa trên khuynh hướng hậu thực chứng luận, và bị chi phối bởi một hữu thể luận hiện thực-phê phán, một nhận thức luận khách quan luận sửa đổi, và một hệ phương pháp kinh nghiệm luận-thao túng. Nghiên cứu khảo cổ học Cựu Thế giới sau 1970 được xem như một loại lịch sử, chủ yếu vẫn theo truyền thống kinh nghiệm nghiêm ngặt, và bị chi phối bởi một hữu thể luận hiện thực luận, một nhận thức luận quy nạp, và phương pháp quan sát. Các yêu sách của các loại khảo cổ học hậu quá trình cũng được đánh giá theo khái niệm hệ mẫu.

Giới thiệu

Mỗi quốc gia có truyền thống nghiên cứu riêng về các ngành học khác nhau bao gồm cả đời sống trí tuệ. Trong phân tích cứu cánh, các truyền thống này dựa trên khái niệm hệ mẫu siêu hình - một tập hợp các thiên hướng ​​và định kiến ​​ về bản chất tri ​​thức của chúng ta về thế giới hoặc, trong bối cảnh hiện tại, một khía cạnh nào đó của thế giới, chẳng hạn như một ngành khoa học. Ở Hoa Kỳ, khảo cổ học tiền sử gần như tương đương với những gì được gọi là tiền sử ở châu Âu (nhưng được coi là một nhánh của nhân học), thường được dạy trong các khoa nhân học, và xuất phát từ các khái niệm và giả định cơ bản khác biệt với những khái niệm cơ bản làm nền tảng cho việc giảng dạy tiền sử ở châu Âu. Ở châu Âu, khảo cổ học tiền sử thường được coi là một loại lịch sử được phóng chiếu trở lại quá khứ tiền văn tự. Nó được dạy trong các khoa lịch sử, hoặc trong các khoa khảo cổ học tự trị, coi quá trình trong quá khứ xa xôi là một phần mở rộng của quá trình trong lịch sử, và tách biệt về mặt khái niệm và tổ chức với nhân học văn hóa và xã hội (Clark và Lindly, 1991). Bài luận này xem xét khái niệm hệ mẫu như nó đã được sử dụng trong khoa học phương Tây, sau đó so sánh các hệ mẫu chi phối khảo cổ học tiền sử Tân Thế giới Anh ngữ với các hệ mẫu chi phối khảo cổ học Cựu Thế giới (đặc biệt là các hệ mẫu của châu Âu lục địa). Tôi cũng tóm tắt và đưa ra một phản ứng đối với các yêu sách của các loại khảo cổ học hậu quá trình, đặc biệt là những loại đồng nhất với mạn Anh quốc. Tôi gắng trình bày một phác thảo các khái niệm cơ bản quan trọng trong hai truyền thống nghiên cứu, bởi vì tôi tin rằng những thực thể mờ ám này, hiếm khi được làm rõ ràng, có ảnh hưởng rõ rệt đến những cách tạo dựng thức của chúng ta trong hồ sơ khảo cổ học, và mô thức đó có ý nghĩa gì về mặt hành vi. Tôi coi đó là tiên đề các tham số chung của các truyền thống trí tuệ mà chúng ta liên quan là có thể xác định được, ít nhất là trong khuôn khổ chung (Clark, 1989, 1991). Những người khác, những người coi ngành học bao gồm một tập thể của các học giả riêng lẻ, không đồng ý có thể thực hiện điều này (ví dụ, Knüsel, 1992).

Bản chất của hệ mẫu

Trong thế giới
nói tiếng Anh, cả những người quá trình luận những người hậu quá trình luận đều theo định nghĩa hệ mẫu của Thomas Kuhn (1962, 1974, 1977, 1991). Đối với ông, thuật ngữ “hệ mẫu” có nghĩa là một phương thức nguyên mẫu giải quyết vấn đề được định nghĩa ngầm ẩn cho các nhà khoa học về những cách thức họ phải nhìn thế giới. Theo Kuhn, các nhà khoa học xây dựng các hệ thống lý thuyết và phương pháp phức tạp luôn dựa trên một hệ mẫu cụ thể, nhưng các hệ thống này hiếm khi, nếu có, được làm rõ ràng theo bất kỳ ý nghĩa chính thức nào. Trong phân tích cứu cánh, họ hoàn toàn chủ quan. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là họ không thể chịu sự giám sát phê phán. Trong nhân học, một hệ mẫu siêu hình đã được ví như một thế giới quan - một khẳng định, hoặc một xác quyết về bản chất của thế giới kinh nghiệm (hoặc một phần của nó, như những thiên hướng ​​và định kiến ​​ làm nền tảng cho một ngành khoa học) (Binford và Sabloff, 1982; Watson et al, 1984). Một khi được truyền bá trong hệ mẫu (và điều này xảy ra thông qua quá trình giáo dục chính thức), các nhà khoa học thường cống hiến cho việc giải quyết các vấn đề mà các giải pháp của họ có xu hướng củng cố và khuếch đại độ tin cậy của hệ mẫu, thay vì đặt vấn đề về tính hợp lệ của nó.

Từ quan điểm của Kuhn, đây là cách thức mà khoa học, nói chung, vận hành không quan tâm nhiều đến các định kiến ​​và thiên hướng ​​là nền tảng của các yêu sách tri thức của nó. Đó là những gì ông muốn nói bằng “khoa học chuẩn thường, đặc trưng bởi “các hoạt động thu dọn, các hoạt động khoa học theo thói quen, khảo sát bằng các câu hỏi và vấn đề theo thông lệ, được xác định và hợp thức hóa bằng đồng thuận (Kuhn, 1991, tr. 37). Nhưng, như mọi người đều biết, trong diễn trình của khoa học chuẩn thường luôn xảy ra những dị thường - những hiện tượng mà hệ mẫu không thể giải thích được, hoặc nó chỉ có thể giải thích một cách không thỏa đáng, hay theo phép tất suy của chúng, lại trực tiếp trái ngược với nó. Nói chung những dị thường này được bỏ qua, nhưng nếu tích lũy đủ, chúng có thể gây ra biến hệ, khiến các nhà khoa học phải từ bỏ hoàn toàn hệ mẫu thống trị và thay thế bằng một hệ mẫu mới. Kuhn cho rằng quá trình biến hệ có xu hướng xảy ra tương đối nhanh chóng, gây ra loại cách mạng khoa học xuất hiện trong tựa đề cuốn sách của ông. Ngoại trừ trong giai đoạn khoa học chuẩn thường, khái niệm về sự thay đổi nhanh chóng và có tính kết cục này phủ nhận khả tính cho rằng khoa học có thể là một quá trình tích lũy dần dần, và ngụ ý rằng biến đổi là có tính phân đoạn và về cơ bản là không thể dự đoán được. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là tự thân tri ​​thức không tích lũy. Thay vào đó, khi các hệ mẫu toàn diện hơn được xuất trình và được chấp nhận chung, thì “tầm với giải thích của chúng ngày càng được mở rộng, nhiều tri ​​thức được gộp vào chúng, và cuối cùng có thể được giải thích đầy đủ hơn (Clark, 1987).

Kuhn cũng nghĩ rằng thế giới khoa học bảo thủ sâu sắc và vì điều này hầu hết các nhà khoa học không sẵn lòng chấp nhận một hệ mẫu mới, hay chính xác hơn là không hiểu nó, khi được truyền bá bằng những thiên hướng và định kiến ​​của kẻ tiền nhiệm. Từ một quan điểm triết học nhất định, các hệ mẫu siêu hình riêng biệt là không tương xứng. Chúng không chia sẻ bất kỳ mô thức chung nào mà chúng có thể được so sánh. Những kẻ tán thành các hệ mẫu siêu hình khác nhau có thể trì níu một thứ diễn ngôn tràng giang đại hải mà không bao giờ giải quyết bất cứ điều gì, vì họ sử dụng các khái niệm cơ bản khác biệt và đưa ra các ý nghĩa khác nhau cho các khái niệm được chia sẻ hời hợt. Một ví dụ điển hình trong văn liệu nhân học là sự hồi sinh hiện tại mối quan tâm trong thế kỷ - câu hỏi cũ về nguồn gốc con người hiện đại (Clark, 1992). Bản chất của biến hệ đã được thảo luận nhiều trong triết học khoa học, trong khảo cổ học và trong nhiều ngành khác nữa. Khẳng định của Kuhn cho rằng biến hệ về cơ bản là tuyệt đối, phi lý và không thể đoán trước đã trở thành cuộc luận chiến trong khảo cổ học Mỹ những năm 1970, và có một số người, như Raymond Thompson (1972), đã cho rằng khảo cổ học có thể được xem là một loại lịch sử tốt nhất, nhiều khía cạnh liên tục tính liên quan đến biến hệ, đặc biệt là liên quan đến phương pháp luận của nó. Điều này được đặt trong bối cảnh của một cuộc thảo luận khác, rộng hơn, liên quan đến việc liệu các khía cạnh khác biệt của hệ mẫu có thể thay đổi hay không, nếu trên thực tế, hệ mẫu siêu hình không thay đổi (xem Meltzer, 1979).

Kuhn nghĩ rằng sự “chuyển đổi của các nhà khoa học sang hệ mẫu mới nổi là một quá trình ngay lập tức mang tính chính trị và chủ quan, hơn nữa các nhà khoa học thường chấp nhận một hệ mẫu mới bởi vì nó được các học giả nổi tiếng đề xuất hoặc hỗ trợ, hoặc bởi vì lĩnh vực này nói chung đã ngầm chấp nhận nó rồi. Cả hai quá trình xảy ra liên quan đến khảo cổ học quá trình, nhưng cái gọi là cuộc cách mạng trên thực tế đã diễn ra trong hơn một thập kỷ (khoảng năm 1969-1975). Một khi được đa số những kẻ hành nghề của ngành học chấp nhận, hệ mẫu mới có xu hướng mang lại ấn tượng rằng nó có khả năng tốt hơn so với kẻ tiền nhiệm trong việc giải quyết một số vấn đề nhất định (ví dụ, những dị thường mà kẻ tiền nhiệm không thể giúp tranh đấu thành công). Ngoài ra còn có quan niệm cho rằng hệ mẫu mới là một xấp xỉ “hiện thực nhiều hơn so với hệ mẫu bị loại bỏ. Vấn đề thứ hai cũng đã được thảo luận nhiều trong các bối cảnh triết học khoa học, và có nhiều nhà triết học chủ trương thế giới thực tự nó không thể biết được, và theo một quan điểm triết học nhất định, không có thực tế nào tồn tại ngoài nhận thức của chúng ta về . Quan điểm này tạo thành một phần của bộ sưu tập các thiên hướng ​​được nhấn mạnh bởi các yếu tố phê bình cấp tiến nhất định, nhưng nó cũng tạo cơ sở cho một số cách tiếp cận với những gì tôi nghĩ với tư cách là khảo cổ học quá trình tiêu chuẩn. Liên quan đến hệ mẫu, có một thực tế như một hệ quả là các phán đoán mang tính mệnh đề chỉ “chân”“giả” trong bối cảnh của một hệ mẫu siêu hình nhất định, nhưng trong hệ mẫu đó, các khái niệm về chân và giả là hoàn toàn hợp thức và, trong thực tế, cần thiết cho việc vận hành của khoa học chuẩn thường. Điểm này đã bị hiểu lầm tai hại bởi những người theo chủ nghĩa kinh nghiệm nghiêm ngặt và, còn bởi một số nhà hậu quá trình luận tán thành những thiên kiến ​​tương đối luận (xem bên dưới). Đối với Kuhn, vai trò của hệ mẫu là cung cấp cơ sở suy luận an toàn cần thiết cho khoa học để tổ chức sự lại tính trạng hỗn độn của kinh nghiệm.

Các loại hệ mẫu khác nhau

Ngay từ sớm, khái niệm về hệ mẫu đã phải chịu sự giám sát phê phán kỹ lưỡng, chủ yếu trong các bối cảnh triết học khoa học. Khái niệm hệ mẫu đã được xem xét hơn nữa vào nửa sau của thập niên 1970. Trong cách khái niệm hóa rộng nhất của nó, hệ mẫu bao gồm tổng thể niềm tin, giá trị và kỹ thuật liên kết với nhau và thống nhất một cộng đồng khoa học (Kuhn, 1991). Tuy nhiên, và thật không may, Kuhn đã bất cẩn trong việc sử dụng khái niệm này; một trong những nhà phê bình ông đã liệt kê không dưới 21 cách sử dụng “hệ mẫu” khác nhau trong các trang sách “Cấu trúc của các cuộc Cách mạng Khoa học. Theo Margaret Masterman (1970), mà lược đồ của cô đang được thoi dõi ở đây, khái niệm hệ mẫu đã được sử dụng ít nhất theo ba cách khác nhau. Bao quát nhất, và phù hợp nhất với bài luận này là về siêu hình học - một khẳng định hoặc xác quyết về nội dung của một ngành học. Ngoài ra còn có một cách sử dụng hoặc cấp độ trung gian, được Masterman gọi là hệ mẫu xã hội học. Bằng cách này, cô muốn nói là các hệ mẫu bao gồm các trường phái phân rẽ, tự quy chiếu, mượn lời của David Clarke (1973), thường thấy trong một hệ mẫu siêu hình duy nhất. Một ví dụ khảo cổ điển hình là sự tương phản giữa những người ủng hộ các cách tiếp cận diễn dịch - danh pháp (D-N: deductive-nomological) và lý thuyết hệ thống tổng quát (GST: general systems theory) tồn tại trong cái siêu hình học của khảo cổ học quá trình ở Hoa Kỳ trong những năm 1970 (Flannery, 1973). Cả hai đều tự coi mình là tín đồ của “Khảo cổ học Mới, nhưng họ lại không đồng ý với cách thức đạt được mục tiêu của . Cần lưu ý rằng không có sự chồng chéo trong các hệ mẫu xã hội học được thể hin trong sơ đồ, một vấn đề mà tôi sẽ trở lại dưới đây. Ngoài ra còn có một cấp độ thứ ba, được chia thành nhiều tiểu cấp độ khác nhau, mà Masterman chỉ định cấp độ của hệ mẫu hình kiến tạo. Bằng cách này, cô muốn nóihệ mẫu cũng được sử dụng theo nghĩa phương pháp luận của nó để biểu thị một tập phương pháp và kỹ thuật được chia sẻ bởi các hệ mẫu xã hội học khác biệt. Do đó, có sự chồng chéo giữa các hệ mẫu kiến tạo khác nhau. Khi Kuhn xuất bản sách “Cấu trúc của các cuộc Cách mạng Khoa học năm 1962, ông đã tin tưởng rằng hệ mẫu siêu hình này là một hệ thống logic khép kín xác định tuyệt đối tất cả các đặc điểm của các hệ mẫu thuộc cấp hoặc thành phần của nó. Ông đã bị chỉ trích nhiều vì lập trường cứng nhắc và không thực tế này, vì vậy sau năm 1974, ông đã từ bỏ nó (xem các bài viết ở Kuhn, 1977).

Rõ ràng là, trong nhiều lĩnh vực, và đặc biệt là trong các ngành lai như khảo cổ học, có một sự chồng chéo rất lớn đối v phương pháp luận (xem, ví dụ, Dibble và Débenath, 1991). Liệu có sự trùng lặp về các hệ mẫu xã hội học hay không vẫn chưa rõ ràng, và trong Hình 2, tôi đưa ra nhận thức của mình về cấu trúc của các hệ mẫu khảo cổ điển hình của thập niên 1980. Một số khía cạnh của Hình 2 đáng được nhận xét hoặc nhấn mạnh. Đối với một điều, sơ đồ là cả cấu trúc phân cấp và cấu trúc mắt lưới, và tiến hành từ bao hàm nhiều đến bao hàm ít hơn, từ có thể quan sát nhiều hơn đến có thể quan sát ít hơn và ngược lại. Nếu điểm nhập đáy, ở cấp độ dữ liệu, thì các hiện tượng có thể quan sát trực tiếp trong thế giới thực có liên quan. Tuy nhiên “sự kiệnnhững trừu tượng, có lẽ được khái niệm hóa tốt nhất thành các thước đo được thực hiện trên dữ liệu. Các kỹ thuật như đo lường, một khi được áp dụng cho dữ liệu, thì đưa ra các giả định riêng biệt về cấu trúc của các hiện tượng quan tâm (Carr, 1985a, b). Chúng làm cho dữ liệu và sự kiện liên quan đến các khái quát hóa, có nguồn gốc từ dữ liệu. Các hoạt động liên quan đến dữ liệu và sự kiện là chung cho tất cả các nghiên cứu khảo cổ và tương ứng với cấp độ kiến tạo hoặc hệ mẫu phương pháp luận của Masterman (1970). Ý nghĩa thử nghiệm là các điều kiện dự kiến ​​sẽ áp dụng cho các mô thức trong dữ liệu và được đưa ra thông qua suy luận từ một giả thuyết, có thể được định nghĩa là bất kỳ mệnh đề nào chưa được xác nhận nhưng có thể kiểm chứng (Hempel, 1966, tr. 19). Các giả thuyết nêu rõ rằng, trong các trường hợp cụ thể, các sự kiện cụ thể được bao phủ bởi (là các cụ thể hóa của và do đó được giải thích bởi) các quy luật vững chắc hoặc đáng ngờ và / hoặc các khái quát hóa giống như quy luật (Watson et ai, 1984, tr. 7). Sau đó, ở cấp độ các “mô hìnhcác “lý thuyết, mọi thứ thường trở nên mờ nhạt về mặt khái niệm. Lý do chính là khảo cổ học thiếu một tập quy luật được xác nhận, bảo đảm, không tầm thường hoặc các khái quát giống như quy luật đặc trưng cho các ngành học được tiên đề hóa đầy đủ hơn. Nói cách khác, chúng ta không có các “lý thuyết theo nghĩa vật lý có lý thuyết. Tất nhiên, có nhiều lý do rõ ràng cho vấn đề này - lý do chính là những khác biệt thường được nhận xét - về các giao thức nghiên cứu của khoa học thực nghiệm và quan sát (Clark, 1982).

Trong khi hầu hết những người hành nghề dường như chia sẻ nhận thức về một hệ mẫu siêu hình là gì (mặc dù họ không nhất thiết đồng ý về bản chất của thứ siêu hình học đó), các lý thuyết và mô hình có xu hướng thay thế cho nhau được hầu hết mọi người sử dụng. Mặc dù các lý thuyết có các định nghĩa tương đối chính xác trong các ngành học được tiên đề hóa đầy đủ hơn, nhưng hầu hết chúng thường được xem là chìa khóa để hiểu thế giới kinh nghiệm. Hempel (1966, tr. 244) viết rằng các lý thuyết thường chỉ được phát triển khi nghiên cứu trước đó mang lại một tập thông tin, bao gồm các khái quát kinh nghiệm, về các hiện tượng được đề cập. Sau đó lý thuyết được dự định đem lại hiểu biết sâu sắc hơn bằng cách trình bày những hiện tượng đó như là biểu hiện của các quá trình cơ bản nhất định. Về phương diện cá nhân, tôi thích định nghĩa thông thường, ít nghiêm ngặt hơn của Binford (1981, trang 25): Các lý thuyết là câu trả lời cho các câu hỏi động lực học tại sao. Chúng liên quan đến việc nhận thức về tính biến đổi và cách thức mà các hệ thống diễn biến từ trạng thái này sang trạng thái khác. Mặt khác, các mô hình là các công thức mơ hồ vận hành ở một số cấp độ để đặc trưng hóa hoặc mô tả các mô thức, không nhất thiết phải cung cấp nhận thức sâu sắc hơn về nó. Một vài nhà khảo cổ học có vẻ phân biệt (còn tôi, giống như nhiều người khác, lại thường tìm chốn nương thân trong sự mơ hồ thoải mái của các “mô hình). Các lý thuyết và mô hình dường như chiếm vị trí trung gian giữa cái siêu hình học và giả thuyết; theo thuật ngữ của Masterman, chúng gắn liền với lĩnh vực của hệ mẫu logic-xã hội. Dù là gì đi nữa, chúng cũng thể hiện các mối quan hệ giữa các loại không thể quan sát (các trừu tượng) và, thông qua các giả thuyết, làm cho các hiện tượng quan tâm đa dạng liên quan đến các quá trình nhân quả cơ bản.

Điều đáng lưu ý là các sự kiện và dữ liệu có tính tự chủ kiên ngoan và dồn nén trong khảo cổ học, còn các quan sát thì được coi là một nguồn tri ​​thức tốt hơn về quá khứ so với các lý thuyết. Đối với tôi, điều này có vẻ “rối trí”; có lẽ chúng ta nên nghĩ về việc xoay nó lại. Mặc dù sự giao thoa liên tục giữa kinh nghiệm và lý thuyết là đặc điểm nổi bật của toàn bộ một ngành học đáng tin cậy, nhưng điều làm tôi ngạc nhiên là khảo cổ học lại có xu hướng phụ thuộc quá nhiều vào quan niệm kinh nghiệm luận nghiêm ngặt cho rằng cấu trúc trong dữ liệu tự thân tương đối rõ ràng (Carr, 1985a, b ). Cuối cùng, tôi nghĩ rằng sự chồng chéo giữa các lý thuyết và các mô hình có liên quan trực tiếp đến mức độ các khái niệm này được chia sẻ, đến lượt mình lại là chức năng của mức độ giao tiếp xuyên ranh giới hệ mẫu xã hội học, mà đó lại là một chức năng của ngôn ngữ.

Ranh giới giữa các trường phái” ít nhiều có thể thm thấu và, mặc dù bị cáo buộc ngược lại, nhưng nó vẫn liên quan nhiều đến đặc ngữ của truyền thông khoa học. Khảo cổ học, cũng như các ngành khoa học quan sát khác, thiếu vắng siêu ngôn ngữ phép toán [2] phổ biến của toán học, phương tiện giao tiếp quốc tế trong các ngành khoa học cái” mang tính kinh nghiệm và tiên đề cao. Là một nhà khảo cổ học của Cựu Thế giới được đào tạo theo truyền thống nghiên cứu đơn ngữ khét tiếng của Mỹ, tôi thấy rất một trong những vấn đề lớn nhất ngày nay ngành này phải đối mặt chỉ đơn giản là thất bại trong giao tiếp. Kết quả là, các hệ mẫu siêu hình chi phối các truyền thống nghiên cứu khác nhau  của Cựu Thế giới và Tân Thế giới, hiếm khi, mà nếu có, được làm rõ [xem các bài báo ở Clark (1991) để nỗ lực thực hiện điều này]. Chính vì lý do này mà tôi đã biện hộ mạnh mẽ cho việc công bố các bản dịch (Clark, 1990).

Tiêu chí Đánh giá Hệ mẫu

Mặc dù bản chất chủ quan
đã được thừa nhận, nhưng bất kỳ hệ mẫu siêu hình nào cũng có thể được đánh giá, hoặc ít nhất cũng được đặc trưng hóa, ​​theo ba tiêu chí có lẽ được thể hiện tốt nhất dưới dạng câu hỏi. Theo Egon Guba (1990a), người mà tôi đang theo sát ở đây, đầu tiên là 1) Hữu thể luận: Theo các nguyên lý của hệ mẫu, thì bản chất của cái “có thể biết, hoặc bản chất của “hiện thực là gì? Tiêu chí thứ hai là 2) Nhận thức luận: Bản chất của mối quan hệ giữa “kẻ biết“kẻ được biết (hoặc có thể biết) là gì? Thứ ba là 3) Phương pháp luận: Trong quá trình khảo sát, Kẻ khảo sát nên tiến hành như thế nào (Guba, 1990a, b)? Người ta có thể lập luận rằng lời đáp cho những câu hỏi này phác thảo các hệ thống niềm tin cơ bản để thực hiện khảo sát.  Cần nhấn mạnh rằng các hệ thống niềm tin này không có ý nghĩa mang tính nền tảng (tức là, chúng không thể được chứng minh hoặc bị bác bỏ). Chúng là những khẳng định hợp lý về những cách thức mà chúng ta có thể tiến hành khảo sát thế giới kinh nghiệm. Trong ba thế kỷ qua, về cơ bản năm hệ mẫu siêu hình đã xuất hiện trong khoa học phương Tây, mặc dù hệ mẫu đầu tiên, kinh nghiệm luận nghiêm ngặt thường không được coi là một bộ phn của khoa học (mặc dù nó rất quan trọng trong lịch sử nghiên cứu khảo cổ học). Theo trật tự sơ bộ về thời gian, đó là,  1) Kinh nghiệm luận nghiêm ngặt, 2) Thực chứng luận kinh điển, 3) Hậu thực chứng luận, (4) Lý thuyết phê phán, và (5) Kiến ​​tạo luận (Casti, 1989; Guba, 1990b). Kinh nghiệm luận nghiêm ngặt xuất phát từ một hữu thể luận hiện thực theo nghĩa một hiện thực khách quan tồn tại ngoài kia, tách biệt với nhận thức của chúng ta về nó. Về mặt nhận thức luận, Kinh nghiệm luận nghiêm ngặt được đặc trưng bởi một giao thức nghiên cứu quy nạp. Cấu trúc hoặc mô thức trong dữ liệu được coi là nội tại đối với chúng và tầm quan trọng của mô thức được đưa ra theo phương pháp quy nạp. Tầm quan trọng của mô thức được cho là ít nhiều rõ ràng đối với kẻ khảo sát được chuẩn bị đầy đủ và năng lực chuyên môn của kẻ khảo sát cũng được tính đến trong việc đánh giá các kết luận của kẻ đó (xem, ví dụ, Thompson, 1972). Về phương pháp luận, các nhà kinh nghiệm luận nghiêm ngặt đã áp dụng một giao thức nghiên cứu quan sát, không có bất kỳ thành phần diễn dịch nào, không có bất kỳ khái niệm hình thức nào về một giả thuyết hoặc đánh giá một giả thuyết (xem Swartz, 1967; Fritz và Plog, 1970). Mặc dù Kinh nghiệm luận nghiêm ngặt đã biến mất khỏi các ngành khoa học chính xác hơn 200 năm trước, nhưng nó vẫn thể hiện đức kiên ngoan đáng nể trong khảo sát khảo cổ học. Có lẽ một cái gì đó giống đến 90% toàn bộ việc nghiên cứu khảo cổ học từng được thực hiện, trong cả Tân Thế giới và Cựu Thế giới, theo hệ mẫu Kinh nghiệm luận nghiêm ngặt. Theo tôi kinh nghiệm luận nghiêm ngặt vẫn đang sống và sống khỏe trong tất cả các truyền thống tri thức khảo cổ học, và vẫn chiếm ưu thế trong hầu hết các truyền thống nghiên cứu của Cựu Thế giới. Cũng có thể nói, kinh nghiệm luận nghiêm ngặt không có nhận thức luận thực sự, bởi vì bản chất của mối quan hệ giữa kẻ khảo sátcái được khảo sát không bao giờ bị tùy thuộc vào việc xem xét phê phán.

Thực chứng luận Cổ điển

Chủ nghĩa thực chứng cổ điển thống trị khoa học phương Tây từ khi bắt đầu Thời đại Khai sáng cho đến những năm 1920. Nó cũng bắt nguồn từ một hữu thể luận hiện thực (nghĩa là, người ta cho rằng một có một hiện thực tồn tại ngoài kia, không phụ thuộc vào nhận thức của chúng ta về nó, và nó bị chi phối bởi các quy luật và cơ chế tự nhiên phi thời gian và phi bối cảnh). Nhiệm vụ của khoa học là khám phá ra những quy luật này, một số (nhiều) trong đó đòi hỏi phải dự đoán và ngụ ý hoặc yêu cầu quan hệ nhân quả tuyến tính. Có lẽ ví dụ nổi tiếng nhất là hệ mẫu siêu hình của vật lý Newton (Kitchener, 1988; Capra, 1988; Casti, 1989). Về mặt nhận thức luận, thực chứng luận cổ điển là cả nhị nguyên luận và khách quan luận, có nghĩa là kẻ khảo sát phải chấp nhận một cách nhìn phi tương tác, được cho là bị loại bỏ khỏi đối tượng khảo sát (Guba, 1990b, trang 19, 20). Nhị tính nằm giữa kẻ quan sát và kẻ được quan sát; các hành động của kẻ quan sát không được phép ảnh hưởng đến kết quả quan sát dưới bất kỳ hình thức nào. Về mặt lý thuyết, các giá trị, các định kiến ​​và các yếu tố sai lệch khác không được ảnh hưởng đến kết quả của thực nghiệm. Người ta cho rằng tính khách quan không có giá trị, lý thuyết, vv, là có thể. Từ quan điểm hiện đại, điều này là ngây thơ. Về mặt phương pháp luận, thực chứng luận là thực nghiệm, có nghĩa là các câu hỏi hoặc giả thuyết nghiên cứu được xác lập trước dưới dạng đề xuất, sau đó phải chịu một loại thử nghiệm (ví dụ, phép chứng ngụy, từ quan điểm của Popper) trong điều kiện phòng thí nghiệm được kiểm soát cẩn thận (Popper,) Năm 1972). Hệ mẫu thực chứng đặc trưng cho khoa học phương Tây trong ba phần tư đầu tiên của thế kỷ 19, khi các ngành học cái” (thiên văn học, vật lý, hóa học, v.v.) bắt đầu có hình thức dễ nhận biết (Casti, 1989).

Hậu thực chứng luận

Hậu thực chứng luận, hiện đang được hầu hết các ngành khoa học chính xác thực hành, là một hình thức sửa đổi hoặc phát triển của thực chứng luận cổ điển. Về mặt hữu thể luận, những người hậu thực chứng luận chuyển sang lập trường của hiện thực luận phê phán, có nghĩa là, mặc dù một thế giới thực bị chi phối bởi các quy luật tự nhiên vẫn tồn tại, nhưng không thể trực tiếp nhận thức được nó, do sự không hoàn hảo về năng lực cảm giác và trí tuệ của chúng ta. Mặc dù “chân lý” theo nghĩa tuyệt đối được coi là không thể đạt được, nhưng mục tiêu của việc khảo sát hậu thực chứngcàng ngày càng đạt được những phép tính xấp xỉ tốt hơn về chân lý. Hiện thực luận (đôi khi được gọi là “hiện thực luận giả định) vẫn duy trì khuynh hướng hữu thể luận trung tâm. Về mặt nhận thức luận, hậu thực chứng luận thường được coi là “khách quan luận sửa đổi; tính khách quan vẫn là cái được gọi là một quy định lý tưởng và được sử dụng để lựa chọn các giải thích thay thế cạnh tranh. Người ta thừa nhận rằng không thể đạt được một khách quan tính hoàn toàn. Ngoài ra còn có sự thừa nhận rõ ràng về sự tồn tại của một truyền thống trí thức quan trọng, được thể hiện trong một cộng đồng trí thức phê phán (tức là một hoặc nhiều trường phái khác nhau) trong đó hệ mẫu ít nhiều nhất quán và được chấp nhận bởi sự đồng thuận, nhưng bên ngoài trường phái đó, lại có thể không nhạy cảm. Về mặt phương pháp luận, các nhà hậu thực chứng luận đã áp dụng cái mà Guba (1990b, trang 22, 23) gọi là một giao thức nghiên cứu thử nghiệm-thao túng, nhằm mục đích xem xét đồng thời nhiều giả thuyết thay thế, nhằm tránh hoặc giảm thiểu tác động của sai lệch trong các môi trường “tự nhiên (tức là không ép buộc) và phụ thuộc khá nhiều vào lý thuyết có căn cứ (nghĩa là một thể lý thuyết đã được kiểm nghiệm và xác nhận tốt). Trong thực chứng luận cổ điển, có xu hướng tập trung bất kỳ thử nghiệm nào vào một giả thuyết duy nhất, tự động loại bỏ việc đánh giá đồng thời các giả thuyết thay thế khác. Trong hậu thực chứng luận, giả thuyết đã trở thành một khái niệm phức tạp hơn và quá trình đánh giá đã được mở rộng thành đánh giá đồng thời một loạt giả thuyết cạnh tranh, thay thế. Trong bối cảnh khoa học cái, quá trình này đã được định lượng mạnh mẽ. Người ta nhận ra rằng sai số hệ thống là không thể tránh khỏi, nhưng trong các bối cảnh thử nghiệm thuần túy, mọi nỗ lực được thực hiện để dự đoán và kiểm soát hiệu quả của sai số hệ thống với độ chính xác cao nhất có thể. Vì Nguyên lý Bất định Heisenberg đã được khớp nối và chấp nhận rộng rãi trong vật lý lý thuyết của những năm 1930, nên đã có sự thừa nhận chung rằng sai số hệ thống là không thể tránh khỏi, ngay cả trong bối cảnh phòng thí nghiệm được kiểm soát chặt chẽ, và kết quả thử nghiệm luôn được thể hiện theo xác suất (Feynman, 1985; Kitchener, 1988). Khảo cổ học quá trình ở cả Hoa Kỳ và Vương quốc Anh thường diễn tiến từ một hệ mẫu siêu hình hậu thực chứng luận cùng các định kiến ​​và sai số hệ thống ​​làm nền tảng cho nó (Watson et al, 1984).
____________________________________________

Còn nữa….

Nguồn: Clark, Geoffrey A (1993). Paradigms in Science and Archaeology, In Journal of Archaeological Research, Vol. 1, No. 3f 1993.

Tác giả: Giáo sư Geoffrey A. Clark là thành viên của Hiệp hội vì Tiến bộ của Khoa học Hoa Kỳ (AAAS), Viện Nhân học Hoàng gia (Anh) và Sociedad de Ciencias Naturales (Tây Ban Nha). Ông nổi tiếng vì những đóng góp cho các thiết kế khảo sát định lượng cho công trình nghiên cứu thích nghi của người săn bắn hái lượm, nhận thức luận và nghiên cứu nguồn gốc con người. Công trình nghiên cứu cổ sinh học của ông đã tạo ra bốn đóng góp lớn cho kiến ​​thức: i) Nghiên cứu của ông về những người săn bắn hái lượm ở Tây Ban Nha và Jordan đã chỉ ra rằng việc tăng cường chế độ ăn uống của con người bị kích thích bởi sự mất cân bằng tài nguyên / dân số đã dẫn đến sự thay đổi của nền kinh tế thuần hóa; ii) Các bài viết của Clark về lịch sử và vai trò của lượng hóa trong nghiên cứu khảo cổ học đã có những đóng góp đáng kể cho truyền thống nghiên cứu trong khu vực nói tiếng Anh, chủ yếu bằng phương pháp định lượng hàng đầu thế giới; iii) Từ năm 1987, Clark là một tác giả và giảng viên chính về các nền tảng nhận thức luận cho những yêu sách tri thức trong khảo cổ học cổ thời đá cũ và cổ sinh học người; iv) Sự tham gia gần đây của ông vào nghiên cứu nguồn gốc con người hiện đại (nhiều bài viết, hai cuốn sách) đã chỉ ra rằng dữ liệu không tồn tại độc lập với các khung khái niệm xác định và bối cảnh hóa chúng.

Ghi chú của người dịch:

[1] Hệ mẫu - Paradigm là một từ có nguồn gốc tiếng Hy Lạp παράδειγμα (paradeigma) được cấu tạo từ danh từ δειγμα (deigma: mẫu, khuôn mẫu) có từ căn là động từ δεικνύω (deiknuo) là chỉ rõ, chỉ cho, thể hiện cho thấy; còn tiếp đầu ngữ παρά (para) là bên cạnh, phía trước, giống như bà mẹ đi cùng đứa trẻ để chỉ cho nó các khuôn mẫu cần theo. Vì vậy kẻ này – dù là fan của thầy Cao (Xuân Hạo) nhưng vì khôn ưng nghe “hệ hình” nên trộm gọi “hệ mẫu”, dù vẫn biết trong Hán ngữ có chữ hình (bộ thổ ) có nghĩa là: i) cái khuôn đất để đúc; ii) làm gương, làm mẫu. Đặc biệt, Thomas Kuhn khới lên rằng một số công trình khoa học nhất định, chẳng hạn như Các nguyên lý (Principia) của Newton hay Tân hệ thống triết hóa học của John Dalton (1808), lại cho ta một nguồn mở: một khung các khái niệm, kết quả và quy trình trong đó công việc tiếp theo phải được cấu trúc. Khoa học chuẩn thường tiến hành trong một hệ mẫu như vậy; một hệ mẫu không áp đặt một cách tiếp cận cơ học cứng nhắc, có thể được thực hiện một cách sáng tạo và linh hoạt, mà Kuhn nhủ là: "những thành tựu khoa học được công nhận trên toàn cầu, trong một thời gian, cung cấp các vấn đề và giải pháp mô hình cho một cộng đồng những người thực hành.” (Kuhn, Thomas (1996). The Structure of Scientific Revolutions, 3rd edition. Chicago: University of Chicago Press, page 10).

[2] Trong toán học, một phép toán là một phép thực hiện tính toán từ một số lượng nào đó đầu vào gọi là toán hạng để thành một giá trị đầu ra. Số toán hạng là số ngôi của phép toán. Các phép toán thường được nghiên cứu là các phép toán hai ngôi với số ngôi 2, như phép cộng và phép nhân, và các phép toán một ngôi với số ngôi 1, chẳng hạn như nghịch đảo phép cộng và nghịch đảo phép nhân. Một toán tử với số ngôi là 0 là một hằng số. Phép nhân hỗn hợp là một ví dụ của phép toán có số ngôi là 3, hoặc phép toán ba ngôi. Nói chung, số ngôi được giả định là hữu hạn, nhưng các phép toán vô hạn ngôi đôi khi cũng được xem xét. Trong bối cảnh này, các phép toán thông thường với số ngôi hữu hạn còn được gọi là phép toán hữu hạn. Có hai loại phép toán phổ biến: một ngôi và hai ngôi. Phép toán một ngôi liên quan đến chỉ một giá trị, chẳng hạn như phép phủ định và các hàm lượng giác. Trong khi đó các phép toán hai ngôi xử lý hai giá trị, bao gồm phép cộng, phép trừ, phép nhân, phép chia, luỹ thừa và giai thừa. Các phép toán có thể liên quan đến các đối tượng toán học ngoài các số. Các giá trị logic đúng và sai có thể được kết hợp bằng cách sử dụng các phép toán logic, chẳng hạn như và , hoặc, và không . Vectors có thể được thêm vào hoặc trừ đi. Các thao tác trên tập hợp bao gồm các hoạt động nhị phân hợp và trừ và các phép toán một ngôi của tập hợp. Các phép toán về các hàm bao gồm ánh xạ và các phép toán của hai hàm. Các phép toán có thể không có giá trị cụ thể và cũng có thể không đầy đủ thuộc tính nhất định như giao hoán, kết hợp,... Và không phải phép toán nào cũng hoạt động trên mọi giá trị như không thể chia một số thực cho 0 hoặc lấy căn bậc hai của số âm. Các giá trị tham gia phép toán gọi là toán hạng, đối số hoặc đầu vào và kết quả được gọi là giá trị, kết quả hay kết quả đầu ra.

Tài liệu dẫn

Bar-Yosef, O. (1991). Stone tools and social context ¡n Levantine prehistory. ïn Clark, G. .A. (ed.), Perspectives on the Past, University of Pennsylvania Press, Philadelphia, pp. 371-395.
Bell, J. A. (1987). Rationality versus relativism: A review ot Heading the rast. Arcnaeoiogicat Review from Cambridge 6(1): 75-86.
Binford, L. (1977). General introduction. In Binford, L. (ed.), For Theory Building in Archaeology, Academic Press, New York, pp. 1-10.
Binford, L. (1981). Bones: Ancient Men and Modern Myths, Academic Press, New York.
Binford, L. (1987). Data, relativism and archaeological science. Man ôô^y. jyi-4U4.
Binford, L. (1989). Response to Turner. Journal of Archaeological Science 16(1): 13-16.
Binford, L., and Sabloft, J. (1982). Paradigms, systcmatics and archaeology. Journal oj Anthropological Research 38(1): 137-153.
Boëda, E. (1988). Le concept Levallois et evaluation de son champ d application. In Otte, M. (ed.), L'Homme de Neandertal 4: La Technique, ERAUL No. 31, Liège, pp. 81-95.
Capra, F. (1988). The role of physics in the current change ot paradigms, in Kitchener, K. (ed.), The World View of Contemporaiy Physics, SUNY Press, Albany, pp. 144-155.
Carr, C. (1985a). Perspective and basic definitions. In Carr, C. (ed.), tor Concordance in Archaeological Analysis, Westport, Kansas City, MO, pp. 1-17. Carr, C. (1985b). Getting into data: Philosophy and tactics lor the analysis ot complex data structures. In Carr, C. (ed.), For Concordance in Archaeological Analysis, Westport, Kansas City, MO, pp. 17-41.
Casti, J. (1989). Paradigms Lost, William Morrow, New York.
Clark, G. A. (1982). Quantifying archaeological research, in Schilter, M. (ed.), Advances in Archaeological Method and Theory, Vol. 5, Academic Press, New York, pp. 217-273.
Clark, G. A. (1987). Paradigms and paradoxes m contemporary archaeology. In Aldendener, M. (ed.), Quantitative Research in Archaeology: Progress and Prospects, Sage, Beverly Hills, CA, pp. 30-60.
Clark, G. A. (1989). Alternative models of Pleistocene biocultural evolution: A response to Foley. Antiquity 63: 153-161.
Clark, G. A. (1990). Algunos reflexiones sobre la epistemología: Una respuesta a Utrilla. Trabajos de Prehistoria 47: 369-374.
Clark, G. A. (1991). (ed.) Perspectives on the Past: Theoretical Biases in Mediterranean Hunter-Gatherer Research, University of Pennsylvania Press, Philadelphia.
Clark, G. A. (1992). Continuity or replacement? Putting modern human origins m an evolutionary context. In Dibble, H., and Mellars, P. (eds.), The Middle Paleolithic: Adaptation, Behavior and Variability, University of Pennsylvania Museum, Philadelphia, pp. 183-205.
Clark, G. A., and Lindly, J. M. (1991). Paradigmatic biases and paleolithic research traditions. Current Anthropology 32(5): 577-587.
Clarke, D. (1973). Archaeology: The loss of innocence. Antiquity 47: 6-18.
Dibble, H., and Débenath, A. (1991). Paradigmatic differences in a collaborative research project. In Clark, G. A. (ed.), Perspectives on the Past, University of Pennsylvania Press, Philadelphia, pp. 217-226.
Dunnell, R. (1982). Science, social science and common sense: The agonizing dilemma of modern archaeology. Journal of Anthropological Research 38(1): 1-25.
Dunnell, R. (1986). Five decades of American Archaeology. In Meltzer, D., Fowler, D., and Sabloff, J. (eds.), American Archaeology Past and Future, Smithsonian Institution Press, Washington, DC, pp. 23-49.
Earle, T., and Preucel, R. (1987). Processual archaeology and the radical critique. Current Anthropology 28(4): 501-527.
Feynman, R. (1985). QED: The Strange Theory of Light and Matter, Princeton University Press, Princeton, NJ.
Flannery, K. (1973). Archaeology with a capital S. In Redman, C. (ed.), Research and Theory in Current Archeology, Wiley Interscience, New York, pp. 47-53.
Fritz, J., and Plog, F. (1970). The nature of archaeological explanation. American Antiquity 35(4): 405-412.
Geneste, J.-M. (1988). Systèmes d'approvisionnement en matières premieres au Paléolithique moyen et au Paléolithique supérieur en Aquitaine. In Kozlowski, J. (ed.), L'Homme de Neandertal 8: La Mutation, ERAUL No. 35, Liège, pp. 61-70. Guba, E. (ed.) (1990a,). The Paradigm Dialog, Sage, Ncwbury Park, CA.
Guba, E. (1990b). The alternative paradigm dialog. In Guba E. (ed.), The Paradigm Dialog, Sage, Newbury Park, CA, pp. 17-30.
Guba, E. (1990c). Carrying on the dialog. In Guba, E. (ed.). The Paradigm Dialog, Sage, Newbury Park, CA.
Hempel, C. (1966). The Philosophy of Natural Science, Prentice-Hall, Englewood Cliffs, NJ.
Hodder, I. (1984). History vs science: no contest. Review of In Pursuit of the Past (Binford) and The Identity of Man (Clark). Scottish Archaeological Review 3(2): 66-68.
Hodder, I. (1985). Post-processual archaeology. In Schiffer, M. (ed.), Advances in Archaeological Method and Theory, Voi 8, Academic Press, New York, pp. 1-26. Hodder, l. (lygoj. Heading the fast: Current Approaches to Interpretation m Archaeology, Cambridge University Press, Cambridge.
Hodder, I. (1987a). The contribution of the long term. In Hodder, I. (ed.), Archaeology as Long-Term History, Cambridge University Press, Cambridge, pp. 1-8.
Hodder, I. (1987b). Reading Bell reading Reading the Past. Archaeological Review from Cambridge 6(1): 87-91.
Hodder, I. (1988). Material culture texts and social change: a theoretical discussion and some archaeological examples. Proceedings of the Prehistoric Society 54: 67-75.
Hodder, I. (1991). Postprocessual archaeology and the current debate. In Preucel, R. (ed.), Processual and Post-Processual Archaeologies, CAI Occasional Paper No. 10, Carbondale, IL, pp. 30-41.
Kitchener, R. (1988). Introduction: The world view of contemporary physics: Does it need a new metaphysics? In Kitchener, R. (ed.), The World View of Contemporary Physics, SUNY Press, Albany, pp. 3-24.
Knüsel, C. (1992). Review: The Middle Paleolithic: Adaptation, Behavior and Variability (Dibble & Mellars, eds.). Antiquity 66: 981-986.
Kuhn, T. (1962). The Structure of Scientific Revolutions, University of Chicago Press, Chicago.
Kuhn, T. (1974). Second thoughts on paradigms. In Suppe, F. (ed.), The Structure of Scientific Theories, University of Illinois Press, Urbana, pp. 459-482.
Kuhn, T. (1977). The Essenttal Tension, University of Chicago Press, Chicago. Kuhn, T. (1991). Peril de un revolucionario recalcitrante. Investigación y Ciencia 177: 36-38.
Leone, M. (1981). The relationship between artifacts and the public in outdoor history museums. Annals of the New York Academy of Sciences 376: 301-314. Leone, M. (1984). Interpreting ideology m historical archaeology. In Miller, D., and Tilley, C. (ed.), Ideology, Power and Prehistory, Cambridge University Press, Cambridge, pp. 25-35.
Leone, M. (1991). Materialist theory and the formation of questions in archaeology. In Preucel, R. (ed.), Processual and Postprocessual Archaeologies, CAI Occasional Paper No. 10, Carbondale, IL, pp. 235-241.
Leone, M., Potter, P., and Shackel, P. (1987). Toward a critical archaeology. Current Anthropology 28(3): 283-302.
Masterman, M. (1970). The nature of the paradigm. In Lakatos, I., and Musgrave, A. (eds.), Criticism and the Growth of Knowledge, Cambridge University Press, Cambridge, pp. 59-99.
Meignen, L. (1988). Le Paléolithique moyen du Levant: Synthèse. Paléorient 14(1): 168-176.
Meltzer, D. (1979). Paradigms and the nature of change in American archaeology. American Antiquity 44(4): 644-657.
Meltzer, D., Fowler, D., and Sabloff, J. (1986). Editors* introduction. In Meltzer, D., Fowler, D., and Sabloff, J. (eds.), American Archaeology Past and Future, Smithsonian Institution Press, Washington, DC, pp. 7-19.
Meltzer, D., Fowler, D., and Sabloff, J. (eds.) (1986). American Archaeology Past and Future, Smithsonian Institution Press, Washington, DC.
Oakeshott, M. (1933). Experience and Ils Modes, Cambridge University Press, London.
Otte, M., and Keeley, L. (1990). The impact of regionalism on paleolithic studies. Current Anthropology 31(5): 577-582.
Patterson, T. (1989). History and the post-processual archaeologies. Man 24(4): 555-566.
Patterson, T. (1990). Some theoretical tensions within and between the processual and post-processual archaeologies. Journal of Anthropological Archaeology 9(2): 189-200.
Popper, K. (1972). Objective Knowledge, Oxtord University Press, New York.
Preucel R. 1991. The philosophy of Archaeology. In Preucel R. (ed.) Processual and Postprocessual Archaeologies, CAI Occasional Paper No. 10, Carbondale, IL, pp. 17-29.
Sackett, J. (1981). From de Mortillet to Bordes: A century of French paleolithic research. In Daniel, G. (ed.), Towards a History of Archaeology, Thames and Hudson, London, pp. 85-99.
Schiffer, M. (1987). Formation Processes of the Archaeological Record, University of New Mexico Press, Albuquerque.
Shanks, M., and Tilley, C. (1987). Re-Constructing Archaeology: Theory and Practice, Cambridge University Press, Cambridge.
Shanks, M., and Tilley, C. (1988). Social Archaeology, University of New Mexico Press, Albuquerque.
Swartz, B. K. (1967). A logical sequence of archaeological objectives. American Antiquity 32(4): 487-497.
Thompson, R. H. (1972). Interpretive trends and linear models in American archaeology. In Leone, M. (ed.), Contemporary Archaeology, Southern Illinois University Press, Carbondale, pp. 34-38.
Watson, P. J. (1990). Review: Re-Constructing Archaeology and Social Archaeology (Shanks and Tilley). Journal of Field Archaeology 17(1): 219-221. Watson, P. J. (1991). A parochial primer: the new dissonance as seen from the midcontinental United States. In Preucel, R. (ed.), Processual and Postprocessual Archaeologies, CAI Occasional Paper No. 10, Carbondale, IL, pp. 265-274. Watson, P. J., LeBlanc, S., and Redman, C. (1984). Archaeological Explanation; The Scientific Method in Archaeology, Columbia University Press, New York.
Watson, R. (1991a). What the new archaeology has accomplished. Current Anthropology 32(3): 275-281, 288, 289.
Watson, R. (1991b). Ozymandias, king of kings: Postprocessual radical archaeology as critique. American Antiquity 55(4): 673-698.
Willey, C, and Sabloff, J. (1980) A History of American Archaeology 2nd ed., W. H. Freeman, San Francisco.
Young, T. C. (1988). Since Herodotus, has history been a valid concept? American Antiquity 53(1): 7-12.




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét