Người dịch: Hà Hữu Nga
1. Bốn nguyên nhân
của Aristotle
Aristotle là một người đa nguyên nhân quả: ông tin rằng
có bốn phương thức quan
hệ nhân quả, đó
là nhân quả hình thức, nhân quả vật chất, nhân
quả hiệu quả và nhân
quả cứu cánh. Các phương thức này liên quan đến các mối quan hệ siêu hình rất khác biệt như cấu trúc,
tạo thành, khởi động và là một chức năng hay mục đích của một thứ gì đó, và Aristotle
chắc chắn có lý để phân biệt chúng với nhau. Tuy nhiên, do sự khác biệt rõ ràng của chúng,
không rõ lý do tại sao chúng phải
được nhóm lại với nhau, tại sao chúng có chung một thuật ngữ hoặc những gì
có thể bị coi là bất lợi cho một loại quan hệ
siêu hình khác được coi là quan hệ nhân quả. Ngay cả khi chúng ta nghĩ rằng “nguyên nhân” là một cách dịch sai lệch
thuật ngữ αιτία [1] hoặc αἴτιον [2] của Aristotle sang tiếng Anh, như
một số người đã quan
niệm, (1) chúng ta có thể tự hỏi tại sao toàn
bộ và chỉ bốn mối quan hệ này lại được chọn là quan trọng
hàng đầu đối với siêu hình học và nhận thức luận Aristotle. Như với bất kỳ đa
nguyên luận nào, đa nguyên luận
nhân quả của Aristotle có tiềm năng cho cả tính phong nhiêu tinh tế triết học, nhưng chỉ khi chúng ta có thể trả lời những câu hỏi cơ bản này: Bốn nguyên nhân cơ bản này liên quan với nhau như thế nào? Điều gì, nếu
có, thống nhất đa
nguyên tính này?
Việc nhận thức những câu hỏi này là để hỏi bốn nguyên nhân có điểm chung gì là điều rất tự nhiên. Tuy nhiên, ngay cả việc đặt vấn đề theo cách này, cũng được coi là quá thiên về bản chất đa nguyên luận Aristotle. Aristotle có thể tuyên bố rằng có bốn loại nguyên nhân (và vì vậy bốn nguyên nhân sẽ liên quan đến nhau với tư cách là các loài thuộc một giống chung, trả lời cho một định nghĩa duy nhất về “nguyên nhân”), nhưng ông cũng có thể đưa ra một khẳng định mạnh mẽ hơn cho rằng “nguyên nhân” có bốn ý nghĩa hoặc định nghĩa riêng biệt, trong đó có thể có trường hợp không có đặc điểm chung (ngoài cái từ này) vì cái mà toàn bộ chúng đều là các nguyên nhân. (2) Do đó, trước tiên chúng ta phải xác định xem có phải sự khác biệt giữa bốn nguyên nhân được rút ra từ các ý nghĩa hay các thể loại. Theo thuật ngữ của Aristote, chúng ta có thể bắt đầu bằng cách hỏi liệu Aristotle có coi bốn nguyên nhân là đồng nghĩa hay đồng âm khác nghĩa - nghĩa là, liệu có phải chúng đều được gọi là “nguyên nhân” vì một định nghĩa duy nhất, hoặc liệu có phải mỗi loại nguyên nhân đều có liên quan đến một định nghĩa riêng biệt của thuật ngữ đó.(3) Việc trả lời câu hỏi đó không giải quyết được vấn đề, tuy nhiên: Bản thân Aristotle thường phàn nàn rằng những người tiền nhiệm của ông, đặc biệt là Plato, đã bỏ qua những điều mơ hồ về ý nghĩa của các thuật ngữ triết học quan trọng như “tồn tại” hay “thiện”, nhưng đối với ông hay đối với chúng ta, lại không phải là những ý nghĩa khác nhau này phải được xử lý độc lập với nhau. Một số thuật ngữ như vậy có thể liên quan mật thiết với nhau (minh họa hệ mẫu này là các ý nghĩa khác nhau của “là khỏe mạnh” το ὑγιαίνειν [3], mà Aristotle đưa ra trong Topics 106b35), trong khi những người khác chia sẻ một cái tên chỉ là ngẫu nhiên ngôn ngữ (cái mà ông gọi là từ ομώνυμος đồng âm khác nghĩa από τύχη ngẫu nhiên. (4)
Do đó, để khảo sát về mối quan hệ
giữa bốn nguyên nhân, chúng ta cũng phải thiết lập loại quan hệ nào mà chúng ta có lý do để mong đợi. Nếu có một định
nghĩa đơn nghĩa về “nguyên nhân” áp dụng cho cả bốn mối quan hệ nhân quả, thì chúng ta phải nói
đó là gì và những thuộc tính nào khác
phân biệt loại quan
hệ nhân quả này với nhau. Tuy nhiên, nếu không có định nghĩa đơn nghĩa về quan hệ nhân
quả, thì chúng ta phải nói liệu các ý
nghĩa khác nhau này
có thuộc về nhau hay không
và thuộc về nhau như thế nào. Có áp lực phải đưa ra một giải
thích nguyên nhân theo đó chúng không chỉ liên quan với nhau mà còn thống nhất bằng cách nào đó,
vì Aristotle khuôn cách
giải thích nguyên nhân của ông về tri thức khoa học theo khuôn khổ nắm bắt các nguyên nhân – có vẻ như ông tuyên bố rằng, các quan hệ nhân quả thông
thường rất quan trọng đối với tri thức.(5)
Nếu 'nguyên nhân' không phải
không đơn nghĩa, thì cách
giải thích này bị đe dọa không mạch lạc trừ khi chúng ta cung cấp một nguồn nhất tính nào đó cho các ý nghĩa khác nhau hoặc điều
chỉnh lại nhận thức của chúng ta về tuyên bố của Aristotle cho rằng tri thức bao gồm việc nắm bắt các mối
quan hệ nhân quả.(6) Có nghĩa là, nếu bốn
nguyên nhân tương ứng với các ý
nghĩa riêng biệt về αιτία nguyên nhân hơn là các
loại nguyên nhân, thì
Aristotle cần biện minh cho việc kết hợp chúng thành một đơn vị lý thuyết làm cơ sở cho quan niệm của ông về tri thức khoa học. Do đó, chúng ta có thể phân biệt hai câu hỏi: 1) Làm thế nào
để bốn nguyên nhân liên quan đến nhau? 2) Làm thế nào để chúng thống nhất,
nếu có? Câu hỏi thứ nhất có thể có câu trả lời chi tiết ngay cả khi câu thứ hai có câu trả lời phủ định hoặc giảm phát; tuy nhiên, nếu
tôi đúng, thì vẫn có áp lực buộc
Aristotle phải đưa ra một các
giải thích về các mối quan hệ giữa bốn nguyên nhân theo đó chúng được
thống nhất theo một cách không tầm thường. Thật không may, dù Aristotle thường
thảo luận và phát
triển các phương thức quan hệ nhân quả mà ông đã phân biệt, và đôi khi thảo luận về bốn
nguyên nhân như một đơn vị,
nhưng ông vẫn không giải quyết được rõ ràng câu hỏi về
mối quan hệ của chúng, hoặc liệu những khác biệt mà ông đã
rút ra giữa các ý
nghĩa hay kiểu
loại. (7)
Trong phần tiếp
theo, tôi đưa ra một cách giải thích về mối quan hệ của
bốn nguyên nhân thay mặt Aristotle. Tôi
cho rằng có những lý do văn bản và triết học rõ ràng, ủng hộ cho việc coi bốn
nguyên nhân là đồng âm
khác nghĩa, và do đó không dễ bị ảnh hưởng đến định nghĩa đơn nghĩa. Mặt khác, ngay
cả khi chúng không thuộc một giống chung, thì vẫn có nhiều bằng chứng cho thấy
chúng có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Do đó, các văn bản của Aristotle đã chỉ
ra cả tính đa dạng thực sự
và mối kết nối sâu sắc giữa các
nguyên nhân, nhưng chúng lại
không cho ta một cách giải thích về bản chất của sự
khác biệt hoặc kết nối. Tuy nhiên, tôi nghĩ rằng vẫn có một cách điều chỉnh Aristotelian hấp
dẫn và sâu sắc
cho cả hai đặc điểm này của các nguyên nhân, và nó có thể được thấy rõ bằng cách xem
xét kỹ các thảo luận và
giải thích về quan
hệ nguyên quả của Aristotle.
Tôi đưa ra một cách diễn
giải theo đó các định nghĩa về bốn nguyên nhân thể hiện cái thường được gọi
là kết nối πρὸς
ἕν ομώνυμος đồng âm liên
quan đến nhau hoặc kết nối tiêu điểm: theo cách diễn giải này, một nghĩa của αιτία, cụ thể là
nguyên nhân hình thức, được coi là
nguyên nhân cơ bản
theo khuôn khổ của cái mà những nguyên nhân khác phải được nhận thức. Nhân quả hình thức và các mối quan hệ của
nó với các nguyên nhân khác sẽ
lần lượt được giải thích, có lẽ đáng ngạc nhiên, là theo khuôn khổ của bản chất của sự khẳng định, như Aristotle
quan niệm. Do đó, mặc dù Aristotle không thảo luận một cách rõ ràng, nhưng có một
cấu trúc Aristote khác biệt mà chúng ta có thể giải thích cho đa tính và nhất tính của bốn nguyên nhân, một cấu trúc phù hợp với những
gì ông nói về chúng, và
nó thừa nhận giá trị
của một số cam kết siêu hình và nhận thức luận sâu sắc nhất của
ông.
2. Bốn nguyên nhân: Tính đồng âm và Tính đồng nghĩa
Ý nghĩa của một thuật ngữ, theo một nghĩa nào đó, có thể là đa nghĩa mà không phải là đơn nghĩa hoặc đồng âm khác nghĩa: “vehicle” có liên quan đến những chiếc xe khách nhỏ và xe tải lớn, nhưng cả hai lớp đều thuộc một nghĩa duy nhất của từ đó. Tương tự như vậy, tính đa bội của các nguyên nhân lại không trực tiếp kéo theo sự đồng âm của αιτία “nguyên nhân”. Vậy thì chúng ta phải xem xét bản chất của tính đa bội liên quan như Aristotle quan niệm về nó, và khảo sát xem liệu có đủ lý do chắc chắn để coi tính đa bội này như một ví dụ của tính đồng âm hay không. Aristotle định nghĩa tính đồng âm và tính đồng nghĩa ở đầu Κατηγορίαι “Các phạm trù”: Những thứ được gọi là đồng âm mà tên riêng của nó là chung, trong khi λόγος việc giải thích chúng theo tên là khác nhau, cái cách mà cả người và hình vẽ đều là động vật […] Nhưng những thứ được gọi là đồng nghĩa mà tên của nó là chung và việc giải thích theo tên là giống nhau, cái cách mà cả người và bò đều là động vật.(8) (1a1-8). Vậy thì đại khái là, nếu hai vật có chung một tên gọi và tên gọi đó dùng cho chúng theo cùng một λόγος cách giải thích, thì chúng là đồng nghĩa; nếu λόγος các cách giải thích, do chúng có chung tên gọi mà khác nhau, thì chúng là đồng âm. (9)
Rất tiếc, Aristotle không rõ ràng về việc bốn nguyên nhân gây ra quan hệ chi phối liên quan đến khác biệt này. Đoạn cốt yếu cho việc giải thích lý thuyết bốn nguyên nhân được viết trong Vật lý II 3, trong đó lý thuyết này được giới thiệu như là sự tiếp nối tự nhiên của việc thảo luận trong hai chương cuối của lĩnh vực khoa học tự nhiên và tầm quan trọng của các khái niệm hình thức và vấn đề cụ thể đối với nó. Tuy nhiên, ở đây, lý thuyết này không được tranh luận hoặc bảo vệ; nó được trình bày một cách đơn giản như sau: Sau khi tạo ra những sự khác biệt này, chúng ta phải xem xét các nguyên nhân: cả hai loại này và số lượng bao nhiêu […] Vì vậy, một cách gọi một cái gì đó là nguyên nhân là từ đó một cái gì đó bắt đầu tồn tại và vẫn tồn tại, chẳng hạn như chất liệu đồng của bức tượng và chất liệu bạc của chiếc cốc, và các giống loài của những thứ này; một cách khác là hình thức hoặc hệ mẫu - đây là cách giải thích về bản chất - và các giống loài của nó (như tỷ lệ hai trên một của quãng tám trong âm nhạc và con số nói chung), cũng như các bộ phận trong giải thích này. Hơn nữa, có nguồn gốc chính của sự biến đổi hay ngừng nghỉ: ví dụ, nhân vật đã cân nhắc kỹ là nguyên nhân, và người cha của người con trai, nói chung là người tạo ra những gì biến đổi một cái gì đó của cái mà nó biến đổi. (10) Hơn nữa, với tư cách là mục đích; đó là vì lợi ích của nó, ví dụ như sức khỏe của một người đi bộ: “Tại sao anh ta đi bộ?” “Vì vậy mà anh ta có thể khỏe mạnh”, chúng ta vẫn nói, và đã nói rồi, vì vậy chúng ta tự cho rằng mình đã đưa ra được nguyên nhân. (Vật lý 194b23-35) Đoạn văn này không nêu rõ lý do tại sao hoặc như thế nào mà chúng ta phải nghĩ có bốn nguyên nhân; chỉ đơn giản là chúng ta được cung cấp một danh sách, và điều khẳng định chủ đạo giới thiệu tính đa bội của quan hệ nhân quả lại không làm gì được hơn thế. Ngay từ đầu, người ta cho rằng việc khảo sát các nguyên nhân liên quan đến việc khảo sát số lượng của chúng, nhưng chúng ta không được biết liệu tính đa nguyên có phải là các kiểu loại hay ý nghĩa.(11)
Ở
đoạn khác Aristotle cũng không rõ ràng hơn. Các nguyên nhân không
phải là một trong những ví dụ về tính đồng âm, mà ông xử lý trực tiếp với nó trong Các
phạm trù (1a1-6) hoặc trong Các
chủ đề (I 15-16). Ông cũng không nói rõ rằng các nguyên nhân là đồng âm, hoặc một số nguyên nhân chỉ là nguyên
nhân đồng âm. Tuy nhiên, hai đặc điểm của ngôn ngữ Aristotle cho thấy rõ ràng là ông nghĩ về các
nguyên nhân là đồng âm:
2.1. Ông thể hiện khẳng định của mình là có một vài phương thức quan hệ nhân quả ở nhiều vị trí như tuyên bố rằng nguyên nhân πολλαχῶς λεγόμενον “được nói theo nhiều cách”, tức là đa thanh. (12) Đây là ngôn ngữ Aristotlian chuẩn cho tính đồng âm, và một cụm từ mà Aristotle sử dụng để chỉ ra rằng một thuật ngữ không rõ ràng theo một cách có ý nghĩa triết học.(13) Tuy nhiên sự khác biệt giữa tính đơn nghĩa và tính đa nghĩa và giữa các từ đồng nghĩa và từ đồng âm không giống nhau, và chúng có thể tách rời nhau, do đó, tính đa nghĩa của của αιτία nguyên nhân không trực tiếp gây ra tính đồng âm. Sự khác biệt giữa tính đơn nghĩa và tính đa nghĩa liên quan đến trường hợp đầu tiên về số lượng ý nghĩa của một từ, trong khi sự khác biệt giữa các từ đồng nghĩa và từ đồng âm liên quan đến trường hợp đầu tiên, như chúng ta đã thấy, đối với bản thân sự vật và các định nghĩa vì chúng có chung một tên gọi (14). Tuy nhiên, nếu λόγοι (số nhiều của λόγος “logos”) đang được đề cập đến là các bản chất Aristotelian, thì chúng ta có thể nghĩ rằng có nhiều ý nghĩa vừa cần thiết lại vừa đủ để áp dụng cho nhiều sự vật theo các định nghĩa khác nhau – tức là, tính đa nghĩa là cần thiết và đủ cho tính đồng âm. (15) Ngay cả khi Aristotle nghĩ là có tính đa nghĩa mà không có tính đồng âm, tuy nhiên, không chắc αιτία nguyên nhân là một trường hợp của nó. Aristotle gặp khó khăn trong việc thảo luận và giải thích các phương thức nhân quả khác nhau, cho thấy rằng có những khác biệt không rõ ràng phải được chỉ ra và phải được nhận thức. Thật vậy, ông coi sự thất bại trong việc phân định các quan niệm khác nhau này là một khiếm khuyết hệ trọng trong các công trình của các vị tiền nhiệm triết học của ông, và công trình của ông về vấn đề đó được coi là một thành tựu to lớn. (16) Điều này là không cần thiết, nếu không nói là bị thổi phồng, nếu ông cảm thấy mình chỉ đơn giản là phát hiện ra những hạng mục không được công nhận, mới được nêu ra một cách mơ hồ hoặc những điều đáng kinh ngạc mà thuật ngữ này được áp dụng chính xác theo cùng một nghĩa. Có nghĩa là, tính đa nghĩa của αιτία nguyên nhân rất có thể thực tế lại hóa ra là cái định nghĩa mà một cái gì đó được coi là nguyên nhân chính thức lại khác với cái mà cái gì đó được coi là nguyên nhân hữu hiệu. Do đó, ngay cả khi tính đồng âm và tính đa nghĩa tách rời nhau, thì vẫn có lý do chính đáng để giả định rằng trường hợp đa nghĩa này cũng là một trường hợp của tính đồng âm.(17)
2.2. Aristotle đề cập đến các αιτίαι nguyên nhân khác nhau là τρόποι “các cách”. (18) Ngôn ngữ này cùng tuyến với cách xử lý những tính đồng âm khác của ông, chẳng hạn như φύση “tự nhiên", ένα “một” (1015b33, 1016a17), ουσία “chất” (1017b15) và πρότερον “trước” (1018b30). Thực ra Aristotle thường sử dụng τρόπον cách, để chỉ ra rằng một từ có hoặc đang được sử dụng theo các nghĩa quan trọng khác nhau. Ông sử dụng nó, ví dụ, để phân biệt các loại thiện tính nội tại với các loại công cụ tốt (NE 1096b13); để phân biệt cách thức mà niềm vui hoàn thành một hoạt động với cách thức mà đối tượng nhận thức tốt nhất hoàn thành năng lực nhận thức (1174b24); để phân biệt các ý nghĩa của τὸ ἄπειρον tính “vô hạn” (Phys. 204a3); các ý nghĩa của “ιν” [2] (210a18); và các cách khác nhau của việc phân chia chuyển động (234b21). (19) Mặc dù không có bằng chứng tự thân thuyết phục, nhưng thực tế là Aristotle đã sử dụng ngôn ngữ tương tự cho tất cả các trường hợp này, cùng với ý nghĩa định tính của τρόπον cách (cho thấy những cách này của việc là nguyên nhân, tự nhiên, hay một, lại ít giống nhau hơn so với các loại xe chẳng hạn), tăng thêm sức mạnh cho quan điểm mà Aristotle nghĩ về các nguyên nhân là đồng âm. (20)
2.1. Ông thể hiện khẳng định của mình là có một vài phương thức quan hệ nhân quả ở nhiều vị trí như tuyên bố rằng nguyên nhân πολλαχῶς λεγόμενον “được nói theo nhiều cách”, tức là đa thanh. (12) Đây là ngôn ngữ Aristotlian chuẩn cho tính đồng âm, và một cụm từ mà Aristotle sử dụng để chỉ ra rằng một thuật ngữ không rõ ràng theo một cách có ý nghĩa triết học.(13) Tuy nhiên sự khác biệt giữa tính đơn nghĩa và tính đa nghĩa và giữa các từ đồng nghĩa và từ đồng âm không giống nhau, và chúng có thể tách rời nhau, do đó, tính đa nghĩa của của αιτία nguyên nhân không trực tiếp gây ra tính đồng âm. Sự khác biệt giữa tính đơn nghĩa và tính đa nghĩa liên quan đến trường hợp đầu tiên về số lượng ý nghĩa của một từ, trong khi sự khác biệt giữa các từ đồng nghĩa và từ đồng âm liên quan đến trường hợp đầu tiên, như chúng ta đã thấy, đối với bản thân sự vật và các định nghĩa vì chúng có chung một tên gọi (14). Tuy nhiên, nếu λόγοι (số nhiều của λόγος “logos”) đang được đề cập đến là các bản chất Aristotelian, thì chúng ta có thể nghĩ rằng có nhiều ý nghĩa vừa cần thiết lại vừa đủ để áp dụng cho nhiều sự vật theo các định nghĩa khác nhau – tức là, tính đa nghĩa là cần thiết và đủ cho tính đồng âm. (15) Ngay cả khi Aristotle nghĩ là có tính đa nghĩa mà không có tính đồng âm, tuy nhiên, không chắc αιτία nguyên nhân là một trường hợp của nó. Aristotle gặp khó khăn trong việc thảo luận và giải thích các phương thức nhân quả khác nhau, cho thấy rằng có những khác biệt không rõ ràng phải được chỉ ra và phải được nhận thức. Thật vậy, ông coi sự thất bại trong việc phân định các quan niệm khác nhau này là một khiếm khuyết hệ trọng trong các công trình của các vị tiền nhiệm triết học của ông, và công trình của ông về vấn đề đó được coi là một thành tựu to lớn. (16) Điều này là không cần thiết, nếu không nói là bị thổi phồng, nếu ông cảm thấy mình chỉ đơn giản là phát hiện ra những hạng mục không được công nhận, mới được nêu ra một cách mơ hồ hoặc những điều đáng kinh ngạc mà thuật ngữ này được áp dụng chính xác theo cùng một nghĩa. Có nghĩa là, tính đa nghĩa của αιτία nguyên nhân rất có thể thực tế lại hóa ra là cái định nghĩa mà một cái gì đó được coi là nguyên nhân chính thức lại khác với cái mà cái gì đó được coi là nguyên nhân hữu hiệu. Do đó, ngay cả khi tính đồng âm và tính đa nghĩa tách rời nhau, thì vẫn có lý do chính đáng để giả định rằng trường hợp đa nghĩa này cũng là một trường hợp của tính đồng âm.(17)
2.2. Aristotle đề cập đến các αιτίαι nguyên nhân khác nhau là τρόποι “các cách”. (18) Ngôn ngữ này cùng tuyến với cách xử lý những tính đồng âm khác của ông, chẳng hạn như φύση “tự nhiên", ένα “một” (1015b33, 1016a17), ουσία “chất” (1017b15) và πρότερον “trước” (1018b30). Thực ra Aristotle thường sử dụng τρόπον cách, để chỉ ra rằng một từ có hoặc đang được sử dụng theo các nghĩa quan trọng khác nhau. Ông sử dụng nó, ví dụ, để phân biệt các loại thiện tính nội tại với các loại công cụ tốt (NE 1096b13); để phân biệt cách thức mà niềm vui hoàn thành một hoạt động với cách thức mà đối tượng nhận thức tốt nhất hoàn thành năng lực nhận thức (1174b24); để phân biệt các ý nghĩa của τὸ ἄπειρον tính “vô hạn” (Phys. 204a3); các ý nghĩa của “ιν” [2] (210a18); và các cách khác nhau của việc phân chia chuyển động (234b21). (19) Mặc dù không có bằng chứng tự thân thuyết phục, nhưng thực tế là Aristotle đã sử dụng ngôn ngữ tương tự cho tất cả các trường hợp này, cùng với ý nghĩa định tính của τρόπον cách (cho thấy những cách này của việc là nguyên nhân, tự nhiên, hay một, lại ít giống nhau hơn so với các loại xe chẳng hạn), tăng thêm sức mạnh cho quan điểm mà Aristotle nghĩ về các nguyên nhân là đồng âm. (20)
Có nhiều lý do
triết học hơn để Aristotle coi bốn nguyên nhân là đồng âm. Cái khẳng định của Aristotle cho rằng mục đích việc khảo sát là nắm bắt αιτίαι các nguyên nhân, và điều mà bốn mối quan hệ
này là các mối quan hệ mà
chúng ta quy chiếu
để đưa ra loại câu trả lời đúng cho các vấn đề khoa học, vẫn không rõ ràng ở cái vẻ ngoài của chúng, và chúng cũng không hề tầm thường. Aristotle phải nói ra, nếu có thể, những gì về αἰτίαι các nguyên nhân này là cái làm cho chúng có ý
nghĩa khoa học – ông
rất nên định nghĩa thuật ngữ này. Tuy nhiên, có những khó khăn nghiêm trọng khi
đối mặt với bất kỳ nỗ lực nào để định nghĩa αἰτία nguyên nhân một cách đơn nghĩa. Đối với một người, bốn loại quan hệ
được Aristotle chọn ra chỉ đơn giản là khác nhau đến mức các điều khoản của một
rủi ro định nghĩa đơn
nghĩa được đề xuất làm mất đi
tất cả nội dung quan trọng. Vấn đề này được minh họa rõ ràng bởi nỗ lực của
Moravcsik trong việc xử lý bốn nguyên nhân như những gì ông gọi là “các nhân tố tạo sinh”; ông viết: “Bằng cách sử dụng thuật ngữ “tạo sinh” theo nghĩa rất rộng,
các tiền đề tạo sinh các kết luận, các chất
được tạo sinh từ các thành phần
và động vật có thể tạo sinh các động vật
khác.” (21). Nó thực sự có ý
nghĩa rất rộng về “thế hệ” được áp dụng cho mối quan hệ của tỷ lệ 2: 1 với quãng tám, hoặc sức khỏe với
việc đi bộ sau bữa tối, là những ví dụ riêng của Aristotle về nguyên nhân hình thái và cứu cánh, tương ứng
(194b28 và 35). Một ý
nghĩa như vậy đã chia rẽ “thế hệ” của cả cách sử dụng Aristotelian cũng như cách sử dụng phổ biến của nó, và
trong mọi trường hợp, nó đều
không đưa ra được
bất kỳ cái nhãn nào khác hiệu quả hơn, chẳng
hạn như “nguyên nhân Aristotelian”.
(22)
Tuy nhiên, có hàng loạt mô tả hoặc đặc trưng hóa có thể nắm bắt
chính xác phần mở rộng của αἰτία nguyên nhân, chẳng hạn như “những điều được trích dẫn làm câu trả lời cho các câu hỏi Tại sao”, hoặc “các nhân tố giải thích”, và chọn ra các đặc điểm quan trọng của bốn
nguyên nhân. Tuy nhiên, khả năng của chúng ta để đưa ra một cụm từ hoặc cách mô tả như vậy,
ngay cả khi nó mang tính thông tin, cũng không đưa đến tính đơn nghĩa, trừ khi chúng ta thực sự đưa ra được định nghĩa nhờ đó mà có được thuật ngữ thích đáng. (23) Hơn nữa, những
mô tả này có xu hướng viện
đến các thuật ngữ hoặc cụm từ cần được minh định rõ ràng như αἰτία “nguyên nhân”, chẳng hạn như “biến nó thành trường hợp mà”, “xác định”, “chịu trách nhiệm”, “giải thích”, v.v. Những cụm từ như vậy ít được sử dụng, và chỉ
đơn giản là hoãn lại câu hỏi. Nói cách khác, các mô tả chẳng hạn như “là một lời giải thích chân thực về” hoặc “chịu trách nhiệm cho” có thể gây ấn tượng
sai về tính đơn nghĩa: trên thực tế,
liệu chúng có xuất hiện hay không đều
phụ thuộc vào việc liệu
bốn mối quan hệ mà Aristotle mô tả bản thân chúng có dễ bị ảnh hưởng đối với định nghĩa đơn nghĩa không. Do đó, một đánh giá đầy đủ về việc liệu bốn nguyên nhân
có đồng âm hay không hóa
ra là liệu nó có thể đem
đến một cách giải thích như vậy không.(24)
Do đó, rất đáng để thực hiện nghiêm túc ý tưởng mà Aristotle xác quyết là αἰτία được “nói theo nhiều cách” nên được hiểu là một khẳng định về tính đồng âm, và các đặc trưng hóa của ông về chúng trong đoạn trích dẫn từ Physics đưa ra một loạt các mối quan hệ có thể không được xác định là đơn nghĩa. Tuy nhiên, khái niệm tính đồng âm của Aristotle khá phức tạp và ông sẵn sàng gọi một loạt sự vật là đồng âm theo những cách không tương đương; do đó, chúng ta phải xem xét những gì được đặt ra bởi tính đồng âm của nguyên nhân. (25) Ví dụ, bốn αἰτίαἰ nguyên nhân không thể là từ đồng âm ngẫu nhiên: vì chúng đều là các thuật ngữ ở giữa của các tam đoạn luận chỉ định (Post. An. 94a23) và những lời đáp cho các câu hỏi Tại sao, như chúng ta đã thấy; chúng có nhiều điểm chung hơn là chỉ cái tên αἰτία nguyên nhân. Cũng không thể có bất kỳ nguyên nhân nào trong bốn nguyên nhân đôi khi được gọi là những từ đồng âm giả mạo, cái cách mà bàn tay của các xác chết chính xác là không nói được, các bàn tay đích thực, mặc dù không phải ngẫu nhiên mà chúng ta có xu hướng đề cập đến chúng theo đúng nghĩa đen. (26) Aristotle phân biệt giữa các nguyên nhân đích thực (καθ'εαυτό tự thân) và nguyên nhân không đích thực như τύχη may rủi và τό αυτόματον tính tự phát, và bốn nguyên nhân (cùng với các hoán vị chính xác hơn của chúng) đều thuộc về phía phân biệt thực sự. (27) Như vậy, không có nguyên nhân nào trong bốn nguyên nhân là nguyên nhân thuần túy đồng âm. Do đó, các ý nghĩa khác nhau của αἰτία vẫn sẽ được kết nối mật thiết với nhau với giả định rằng chúng không thuộc về tính đồng nghĩa.(28) Vậy thì bản chất của kết nối đó là gì?
Có nhiều cách mà
các ý nghĩa có liên quan của một
thuật ngữ có thể được kết nối với nhau, như Aristotle nhận ra, nhưng một trong
những điều hấp dẫn nhất về mặt triết học, và một thứ cung cấp một cấp độ thống nhất rất mạnh, là cái được gọi là πρὸς ἕν ομώνυμο tính đồng âm liên quan đến nhau. (29) Trong các trường hợp như “sức khỏe”, và gây tranh cãi hơn, “hiện hữu”, một ý nghĩa duy nhất hình thành nên ý nghĩa chính hoặc
cốt lõi, và các ý nghĩa khác được tổ chức xung quanh và liên quan đến nó. Tôi sẽ
lập luận rằng khi chúng ta xem xét giải
thích của Aristotle về các nguyên nhân, thì vẫn có bằng chứng văn
bản và triết học rõ
ràng để gợi ý rằng chúng được
kết nối theo cách thức
πρὸς ἕν có liên quan đến nhau này, với ý nghĩa - đó là mối quan hệ nhân quả hình thức – vận hành như là ý nghĩa cơ bản theo khuôn khổ của những ý nghĩa được các ý nghĩa khác xác định.(30)
3. Các định nghĩa về nguyên nhân
riêng lẻ
Do đó câu hỏi về mối quan hệ qua lại của bốn nguyên nhân trở nên tùy thuộc vào việc liệu chúng ta có thể thấy rõ được loại cấu trúc trong những giải thích tương ứng về chúng hay không. Vì Aristotle không xem xét vấn đề một cách rõ ràng, nên đương nhiên chúng ta cần nhìn vào các cuộc thảo luận về αἰτία nói chung cũng như những cách giải thích cụ thể về từng nguyên nhân, trong đó các văn bản chính là Physics II 3 and Posterior Analytics B 11.(31) Mặc dù những cuộc thảo luận này nên được xử lý bằng cách đưa ra các định nghĩa tất nhiên là không chắc chắn - điều đó phụ thuộc một phần vào việc liệu các nguyên nhân đó có đồng âm hay không. Tuy nhiên, các văn bản này đem đến các cuộc thảo luận chung nhất và các đặc trưng rõ ràng nhất trong bốn nguyên nhân, vì vậy chúng là vị trí tự nhiên để bắt đầu xem xét bản chất sự khác biệt và mối quan hệ qua lại của chúng. Giới thiệu của Aristotle về từng nguyên nhân trong Physics II 3 là hai phần, bao gồm một mệnh đề hoặc cụm từ đưa ra những gì có vẻ là đặc điểm chung của loại nguyên nhân, tiếp theo là các ví dụ nổi bật: (MC) “Cái thuộc một cái gì đó bắt đầu tồn tại và nó vẫn kiên trì tồn tại” (το εξ ου γίγνεταί τι ενυπάρχοντος), 194b23); (FC) “Hình thức hoặc hệ mẫu; đây là cách giải thích về cái bản chất (τὸ εἶδος καὶ τὸ παράδειγμα, τοῦτο δ᾽ ἐστὶν ὁ λόγος ὁ τοῦ τί ἦν εἶναι, 194b26); (EC) “Nguồn chính của biến đổi hay ngưng nghỉ” (ἔτι ὅθεν ἡ ἀρχὴ τῆς μεταβολῆς ἡ πρώτη ἢ τῆς ἠρεμήσεως, 194b29); (TC) “Mục đích; đó là cái vì lợi ích của nó ((τὸ τέλος: τοῦτο δ᾽ ἐστὶ τὸ οὗ ἕνεκα), 194b32) (32). Một trong những nguyên nhân được đưa ra là đặc trưng hóa của nó bằng một mệnh đề quan hệ (cái mà từ đó có một cái gì đó bắt đầu tồn tại và vẫn kiên trì tồn tại); hai, các nguyên nhân hình thức và nguyên nhân hiệu lực, được đặc trưng bởi các cách biểu đạt danh nghĩa (“hình thức hoặc hệ mẫu”). Việc mô tả nguyên nhân cứu cánh cùng sử dụng cả hai loại biểu đạt. Mô tả này không làm rõ mối liên quan với nhau, cũng không phải là mối quan hệ rõ ràng - ngầm hoặc rõ ràng – được lựa chọn là mối quan hệ chính.
Chúng ta có thể hy vọng rằng những cách giải thích này, mặc dù không liên quan rõ ràng với nhau hoặc chồng chéo trong nội dung, nhưng dù sao cũng có chung hoặc ngụ ý một nền tảng chung có thể sử dụng để làm rõ kết nối của chúng. Do đó, chúng ta có thể cho rằng các nguyên nhân có liên quan với nhau bằng cách thống nhất xung quanh một trường hợp cốt lõi, hay đúng hơn là, một quan niệm nhất định về cái “hiệu ứng” mà tất cả chúng đều có.(33) Thật không may, khái niệm về nhất tính của hiệu ứng đối với các nguyên nhân lại không được các ví dụ của Aristotle xác nhận, đó là: đối với (MC), chất liệu đồng của một bức tượng và bạc của một chiếc cốc; đối với (FC), tỷ lệ hai trên một là cách giải thích của quãng tám; đối với (EC), người đàn ông đã cân nhắc kỹ và người cha của đứa con trai; đối với (TC), sức khỏe, chính là lợi ích mà người ta đi bộ. Trong khi Aristotle chắc chắn nghĩ rằng có những thứ như các đồ vật do con người làm ra và các hiện hữu sống có tất cả bốn nguyên nhân, (34) và do đó là kết quả của cách biểu đạt chung của chúng, thì ở đây các ví dụ của ông minh họa cho các phương thức quan hệ nhân quả lại không được phối hợp theo cách này. Đoạn văn có liên quan từ Phân tích Hậu thiên - Posterior Analytics B 11 (94a21-23) cũng không cung cấp thêm manh mối. Ở đó, các mô tả về các nguyên nhân thậm chí còn bị nén nhiều hơn và chúng không có mối quan hệ rõ ràng nào với các hiệu ứng: (MC) “Những thứ đó, nhất thiết phải là trường hợp này, (το τινών οντον άνάγκη τούτ' είναι) 35; (FC) Đó phải là Cái gì (τὸ τί ἦν εἶναι) 36; (EC) “Cái chuyển động đầu tiên” hoặc “Cái động lực chính” (ἦ τί πρῶτον ξεκίνησε); (TC) Đây là vì lợi ích của điều đó (τὸ τίνος ἕνεκα).
Các ví dụ về hiệu ứng của Aristotle ở đây một lần nữa vẫn không được phân biệt, với một ngoại lệ hấp dẫn. Đối với (MC), hiệu ứng là góc được khắc trong hình bán nguyệt là một góc vuông (94a28); đối với (EC), chiến tranh Ba Tư; đối với (TC), sức khỏe một lần nữa, cũng như sự tồn tại của một ngôi nhà. Tuy nhiên, Aristotle không đưa ra một ví dụ riêng về (FC) trong đoạn này, mà thay vào đó, kết luận mô tả về cái ví dụ hình học của (MC) với một nhận xét khó hiểu: sau khi cho thấy tại sao một nửa hai góc vuông là giới hạn giữa giải thích (αἴτιον) cho góc vuông thuộc về góc của hình bán nguyệt, theo ông, “Đây là điều tương tự như bản chất, vì đây là những gì mà cách giải thích biểu thị. Nhưng sau đó, giới hạn giữa cũng đã được chứng minh là giải thích cho cái bản chất.” (94a35f.) (37) Đoạn văn gây tò mò cho các mục đích hiện tại chừng nào nó còn cho thấy khả tính thống nhất các nguyên nhân hình thức và nguyên nhân vật chất thông qua hiệu ứng chung của chúng. Từ ví dụ của Aristotle không rõ liệu ông có ý thể hiện quan điểm của ông về nguyên nhân hình thức là chung chung hay không, đặc biệt là, như đã lưu ý ở trên (n. 35), chúng ta cần thực hiện một số công việc thay mặt ông để căn chỉnh nguyên nhân được mô tả ở đây là “Những thứ đó, nhất thiết phải là trường hợp này” với nguyên nhân vật chất được minh họa bằng các kim loại trong Physics. Đồng thời, chúng ta phải nghiêm túc xem xét khả tính mà các hiệu ứng của nguyên nhân vật chất và nguyên nhân hình thức giống hệt nhau theo một nguyên tắc, đặc biệt là giữa hai đoạn quan trọng nhất mà Aristotle đặt ra để mô tả lý thuyết αιτίαι của mình, trên thực tế, ông không đưa ra một ví dụ rõ ràng về mối quan hệ nhân quả hình thức cho một trường hợp đơn giản - ví dụ rõ ràng duy nhất là tỷ lệ 2: 1 là bản chất của quãng tám.
Mặc dù khả tính thống nhất
các nguyên nhân bằng một hiệu ứng duy nhất này, tuy nhiên, vẫn không có sự thống
nhất rõ ràng nào mở
rộng đến (EC) và (TC) trong các ví dụ của Aristotle. Do đó, các giải thích mà Aristotle đưa ra về các nguyên nhân
riêng lẻ không biểu thị loại kết hợp
hoặc kết nối đầu mối được biểu thị bằng các mô tả của các loại
sức khỏe hoặc hiện hữu, vì chúng không trùng lặp theo bất kỳ cách thức rõ ràng nào, cũng
không phải là một ý nghĩa được gợi
ý phải cơ bản hơn những ý nghĩa khác. Tuy nhiên, cũng không phải
là một loại cấu trúc khác được văn bản của ông đưa ra. Do đó, ở mức độ
mà Aristotle có giải
thích về sự kết nối của chúng, thì chúng ta phải nhìn vào những gì thuộc về các thảo luận của ông để xử lý với khái niệm αἰτία theo một cách chung.
__________________________________
Còn nữa….
Nguồn:
Stein, Nathanael (2011). Aristotle’s
Causal Pluralism, Archiv f. Gesch. d. Philosophie 93. Bd., S. 121–147.
Tác giả: Nathanael
Stein, Phó giáo sư, Đại
học Oxford, lấy được bằng thạc
sĩ tại Đại học Thành phố New York, sau đó là tiến sĩ tại Oxford. Các tác phẩm gần đây: "Definition and
the Epistemology of Natural Kinds in Aristotle,”, Metaphysics
1(1), 2018: 33-51.; “The Puzzle of False Judgement in the Theaetetus,”
Phronesis 61 (3), 2016: 260-283; “Explanation and Hypothetical Necessity in
Aristotle,” Ancient Philosophy 36 (2), 2016: 353-382; “Aritotle on the Parts of
Time and Being in Time,” Review of Metaphysics 69 (3), 2016: 495-518; “Causes
and Categories,” Noûs 50 (3), 2015: 465-489.; “Immanent and Transeunt
Potentiality,” Journal of the History of Philosophy 52 (1), 2014: 33-60.
Ghi chú của
người dịch:
[1] Trong nguyên bản của Nathanael
Stein tất cả các từ và đoạn văn tiếng Hy Lạp đều được ghi bằng phiên âm Latin, - như các bạn thấy chẳng hạn trong ghi chú (37) của N. Stein ở cuối trang này - vì vậy, để tiện cho việc hiểu để dịch, tôi đã chuyển sang nguyên văn tiếng Hy Lạp cổ; vì tri thức cổ văn Hy Lạp của người dịch hạn hẹp, nên chắc chắn không tránh khỏi sai sót, mong được chỉ bảo để hoàn thiện bản dịch.
[2] αιτία & αἴτιον ngoài nghĩa nguyên nhân còn có các nghĩa khác như: bổn phận, nghĩa vụ, trách nhiệm; lời buộc tội; đổ tội, quy tội; phê bình, nhận xét, góp ỳ; khiển trách, quở mắng, cảnh cáo, v.v...
[3] Trong trường hợp này có lẽ Nathanael Stein đã nhầm “ιν” với “ἵνα”: “ιν” trong tiếng Hy Lạp cổ đại chỉ có một nghĩa là một đơn vị đo chất lỏng của người Ai Cập và Do Thái. Còn “ἵνα” thì có rất nhiều nghĩa, và mới phù hợp với văn cảnh mà tác giả đề cập đến, chẳng hạn: ὁρᾷς ἵνα ἥκεις = ghé qua một điểm; hay ἔμαθε ἵνα ἦν κακοῦ = trong một tai ương; hoặc ἵνα ἀναγνῶ ἐτιμήθην = tôi rất vinh hạnh vì đã hiểu.
[2] αιτία & αἴτιον ngoài nghĩa nguyên nhân còn có các nghĩa khác như: bổn phận, nghĩa vụ, trách nhiệm; lời buộc tội; đổ tội, quy tội; phê bình, nhận xét, góp ỳ; khiển trách, quở mắng, cảnh cáo, v.v...
[3] Trong trường hợp này có lẽ Nathanael Stein đã nhầm “ιν” với “ἵνα”: “ιν” trong tiếng Hy Lạp cổ đại chỉ có một nghĩa là một đơn vị đo chất lỏng của người Ai Cập và Do Thái. Còn “ἵνα” thì có rất nhiều nghĩa, và mới phù hợp với văn cảnh mà tác giả đề cập đến, chẳng hạn: ὁρᾷς ἵνα ἥκεις = ghé qua một điểm; hay ἔμαθε ἵνα ἦν κακοῦ = trong một tai ương; hoặc ἵνα ἀναγνῶ ἐτιμήθην = tôi rất vinh hạnh vì đã hiểu.
Ghi chú
(1)
I follow the traditional translation of ‘aitia’ as ‘cause’ throughout,
though whether or not the four causes are rightly called ‘causes’ – as opposed
to ‘becauses’, or ‘explanations’, or ‘explanatory factors’ – is sometimes
disputed. Often the reservation has simply to do with scope: ‘aitia’
appears to be used more widely than the English ‘cause’, at least in
philosophical contexts, as will quickly become apparent to a reader of the Physics
(see, for example, Charlton 1992, 98f.). Nothing in what follows turns on
this difference. Some commentators, however, question whether Aristotle means
to draw metaphysically-grounded distinctions among different ways in which
things determine each other, and have suggested that he be interpreted as
making more epistemically grounded distinctions among ways in which we go
about explaining them – ways we answer the question, ‘Why?’ (see, for example,
Annas 1982, 319, and Vlastos 1969, 291–325). These alternatives suggest in turn
the possibilities that the unity and inter-relation of the four causes might be
grounded either in metaphysical or in epistemological features (these
possibilities are discussed in section 4). The importance of the four causes
for Aristotle’s metaphysics and epistemology, his accounts of change,
substance, nature, the soul, and biological phenomena, among others, is in any
event undisputed, and I think the same questions of unity and interrelation
arise on either understanding of the distinction.
(2)
This particular question is raised by Gareth Matthews with great clarity as an
instance of possible sense-kind confusion, at least on the part of
commentators, between taking Aristotle to be saying that there are four kinds
of cause and taking him to be saying that there are four senses of ‘cause’. See
Matthews 1972, 149–157. Sometimes we move back and forth between the locutions
innocently, but where there is a genuine possibility of non-univocity we cannot
do so without inconsistency, as Matthews shows. As he points out, most of
Aristotle’s commentators have not been sensitive to the distinction between
senses and kinds, and use the two locutions as equivalents with regard to the
four causes. Aristotle himself is deeply aware of the distinction, even if, as
we shall see, he is not explicit as to how the four aitiai fare with
respect to it.
(3)
This distinction between synonymy and homonymy is not exhaustive, since a term
might be primitive, i.e., indefinable. I do not think this is an attractive
option for the causes, for reasons which will become clear. Thus, I think the
key question with regard to ‘aitia’ is one which is rightly assessed in
terms of synonymy and homonymy, namely, whether the four causes bear their
common term in virtue of one or several definitions. The relation between
univocity and multivocity on the one hand, and syn onymy and homonymy on the
other, is complex and not always clear. Some of the issues raised by the
distinctions are discussed in what follows, especially section 2.
(4)
NE 1096b26. Standard English examples are savings banks and river banks,
or the geographical features and articles of clothing both called ‘cape’.
Aristotle’s is ‘kleis’, which refers both to keys and collarbones (NE
1129a30).
(5)
Phys. 194b18; Metaph. 983a24; Post. An. 94a20; Metaph. 994b30,
among others. This claim that we know when we know causes is in one sense not a
fully general claim, since it presumes as background Aristotle’s fourfold
distinction at Post. An. 89b24 between knowledge of (1) the fact
(to hoti), (2) the reason why (to dioti), (3) if it is (ei
esti), and (4) what it is (ti esti), where the first and third come
to the same, and ultimately, so do the second and fourth (in the sense that
knowledge of what-something- is is at least one way of knowing the reason why).
The relation between knowledge of the fact and of the reason Why is further
discussed in Post. An. B, especially chapter 8, in which it is apparent
that the search for aitiai yields knowledge of the reason Why with
respect to a fact which is itself known in a different way, even though both
kinds of knowledge may arise simultaneously (see also Post. An. 89b36f.).
Aristotle’s claims that knowledge is or involves grasping causal relations are
thus most likely implicitly restricted to inquiry which seeks the reason Why,
to the exclusion of knowledge whether something is the case. That scientific
and philosophical knowledge seeks the dia ti may in turn be understood
as the claim that grasping the reason Why is necessary and sufficient for such
knowledge, or more modestly, only sufficient. He does not appear to consider
whether it is also necessary, although he clearly demarcates classes of facts
or entities which are important for scientific and philosophical knowledge but
are not subject to causal inquiry, i.e., first principles and simples, which
themselves have no causes, but must be understood in a different way (Post.
An. 93a5, 93b21f.; Metaph. 1041b9).
(6)
Similarly, if we were to define ‘function’ as a mapping which takes one value
and yields another, since ‘value’ is ambiguous between something like a
quantity and something like a moral principle (as when we talk, for example, of
a society’s values), we would have either to exclude one of the senses from the
definition or make it clear why both belonged.
(7)
The main texts in which Aristotle treats the four causes together are given and
discussed below. Aristotle does occasionally remark that two or more causes may
be, in some instances, “one” (usually the formal and final cause; see, e.g., Phys.
198a24, 199a30). It is important to note, however, that these remarks do
not address the question I am raising. The claim that the form or essence of a
human being is in some sense the same as its final cause is indeed a striking
and important claim, but it is not fully general (not all formal and final
causes are “one”), nor is it a claim about the nature of these causal relations
as such. That is, Aristotle is not maintaining that the relationships of formal
and final causation are the same thing, even in these instances, or that they
always coincide the way they do in the case of the forms of substances like animals.
Rather, these remarks are directed at the occupants of those causal roles and
their interrelation (in certain special cases), and do not directly pertain to
the natures of the roles themselves.
(8)
All translations are my own.
(9)
See Irwin 1981, 523–544, and Shields 1999, ch. 3. See below for more detailed
discussion of the nature and kinds of homonymy. I follow Irwin and Shields in
taking homonymy and synonymy to be exclusive and exhaustive for definable
terms, which entails that things are homonymous whenever their definitions are
not exactly the same – in other words, homonyms will include sets of terms
whose definitions are partially identical, as well as those whose definitions
have nothing in common.
(10)
It is difficult to capture the transitive sense of ‘to metaballon’,
parallel with that of ‘to poioun’ just before it, without introducing
explicitly causal-looking language, hence raising worries about circularity.
Aristotle’s phrase here, however, is meant only to give the agentive side of
the equation, as contrasted with the patient undergoing change. There may be a
further worry as to whether Aristotle can or should offer a non-circular
characterization of efficient causation, but that worry does not arise
straightaway from Aristotle’s Greek.
(11)
Several commentators have noted the lack of argumentation in Aristotle’s
exposition of his theory, which has led some to claim that it must already be
known to Aristotle’s intended audience (such as Ross 1936, 37), and others to
conclude that Aristotle is here only surveying the uses of ‘aitia’ in
ordinary Greek (see, e.g., Charlton 1992, 99). The discussion of ‘aitia’
in the so-called Philosophical Lexicon of Metaphysics Δ, elsewhere in
which Aristotle gives precisely the kind of information we are seeking about ‘aitia’
for other terms such as ‘one’ (‘hen’), ‘actuality’ (‘energeia’),
‘necessary’ (‘anagkê’), and so on, is almost identical to that of the Physics.
It appears to have been inserted either by Aristotle himself (which Ross offers
as a possibility) or by the editors of the Metaphysics to replace
missing text (as Asclepius 305.19 suggests; see Ross 1924, 292). Whatever the
reason for Aristotle’s silence on the matter, if there are arguments on behalf
of his pluralism about causes, or other clues about the type of pluralism
involved, they are implicit, and require examination of Aristotle’s other
discussions
of causation and related issues.
(12) Phys. 195a4 and 195a29; Metaph. 983a26, 1013b4,
1052b4–8; De An. 415b9.
(13) E.g., Top. I 15; Phys. 227b3; Metaph. 1003b5.
There are disputes about whether multivocity and homonymy are everywhere
co-extensive for Aristotle (discussed below), but not about whether Aristotle
often expresses claims about homonymy by saying that a given term is
multivocal.
(14) This point is made clearly by Ackrill in his commentary on
the Categories (Ackrill 1963, 71), and has been widely accepted since.
This does not mean of course that homonymy has only to do with things, and
Aristotle does sometimes speak of words (onomata) as homonyms (as with
‘contact’, ‘haphês’, at Gen. Corr. 322b29–32). It is nonetheless
clear that, both canonically and in general, homonymy applies in the first
instance to things rather than words.
(15) Shields (1999) and Owen (1960) argue, in that vein, that a
term is homonymous if and only if it is pollachôs legomenon. Irwin
(1981, 529), by contrast, entertains the possibility that Aristotle recognizes
synonymous multivocals, i.e terms which are pollachôs legomena but
non-homonymous. This is not inconsistent with also maintaining that synonymy
and homonymy are exhaustive and exclusive (see n. 9): Irwin’s claim, as I
understand it, is that the synonymy/homonymy distinction and the univocal/
multivocal distinctions do not track each other perfectly, so that a term may
be “said in many ways” (i.e., multivocal) but nonetheless be applied in all
cases under a single definition, hence synonymously. Shields and Owen, by
contrast, maintain that a term and its referents are either univocal and
synonymous, or multivocal and homonymous. 16 Metaph. Α, 984a16ff.
(17)
For the purposes of this paper, I will therefore use ‘synonymous’ and
‘univocal’ interchangeably, and likewise ‘homonymous’ and ‘multivocal’, though
I do not mean to discount these problematic cases. The point I wish to focus on
is whether there are several definitions of ‘cause’, i.e., different properties
or relations which all answer to the same term, but which are not related as
species under a common genus; nothing turns on whether this also amounts to a
difference in meaning, as has been disputed (see especially Irwin 1981,
533ff., and Shields 1999, ch. 3). In other words, my primary aim is to examine
whether Aristotle’s fourfold distinction is a weak or strong one, and if
strong, whether there is nonetheless a systematic connection or unity among the
different causal roles or relations.
(18)
Phys. 194b23, 195a27; Metaph. 996b5.
(19)
With regard to the different senses of ‘being’ (‘to on’), Aristotle also
uses ‘tropon’ with explicitly semantic import: ‘being’ is multivocal, he
says, one sense being reserved for the different categories such as quantity,
place, time, and anything else it might signify in this way (“kai ei ti allo
sêmainei ton tropon touton”, 1026b1).
(20)
There is a prima facie problem in discussing the possible ambiguity of
‘cause’, however, since we might think that ‘aitia’ is ambiguous or
homonymous if and only if ‘Why’ (‘dia ti’) or ‘The Why’ (‘to dia ti’)
is so as well. ‘Dia ti’ and ‘aitia’ form a complementary pairing,
as we have seen: ‘dia ti’ as a question is answered by giving aitiai.
When prefixed with a definite article, this pairing leads us to expect ‘to
dia ti’ to be synonymous or at least interchangeable with ‘aitia’,
and indeed Aristotle sometimes seems to use the phrase as a near synonym: at Metaph.
983a29, he states that the primary dia ti is a cause (aition)
and principle (archê), and ‘to dia ti’ picks out the object of
inquiry at Metaph. 1041a10. Further, Aristotle seems to imply an
equivalence when he claims that the number of causes must be the one stated,
since this is the number comprehended by (perieilêphen) to dia ti (Phys.
198a15). However, because all four aitiai form a complete answer to
the question ‘Why’, we may therefore think that ‘dia ti’ cannot be
homonymous (this point is made by Irwin 1981, 537). On the other hand, ‘to
dia ti’ (unlike ‘aitia’ or ‘aition’) is usually accompanied
by either a form of ‘apodidômi’ or ‘anagô’ (see, e.g., Metaph.
983a28; Phys. 198a23, 198b5), and immediately after stating that the
number of causes is four because this is the number of ways comprehended by the
dia ti, Aristotle further glosses this as due to the fact that the dia
ti is “referred to” (“eis […] anagetai”) the four kinds of
thing named, i.e., essence, first mover, that for the sake of which, and matter
(198b16–21), suggesting that the terms are not equivalent after all. Both ‘dia
ti’ and ‘aitia’ seem, in fact, to have what we may call analyzed and
unanalyzed uses. ‘Dia ti’ in its most straightforward use may simply be
a demand for explanation without presuming anything about the character of that
explanation, and may in that sense be satisfied by an indefinite variety of
answers, ranging from ‘because something having property X came into contact
with something having property Y’ to ‘because the Deity willed it thus’. That
is, in a general or philosophically untutored way, there are indefinitely many
ways of answering the question ‘dia ti’, including false ones or ways a
more sophisticated inquirer would reject as misguided; at 198b15, however, Aristotle
clearly indicates that there are only four correct ways of giving the Why (and
the use of the definite article may indicate that the use is the technical
one). Similarly, ‘aitia’ may well have a relatively non-technical sense,
insofar as Aristotle wishes to say of his predecessors that they were inquiring
into aitiai despite having no philosophical understanding of them as
such (see,
e.g.,
Metaph. 984b4, where Parmenides is characterized as having supposed
there to be two causes). If aitia and dia ti have both technical
and non-technical uses, then we need not suppose that the homonymy or synonymy
of one entails or excludes homonymy of the other.
(21)
Moravcsik 1975, 626.
(22)
Other attempts to provide a univocal account of ‘aitia’ tend to be more
reductive in character. Robin (1910) attempts to show that all four causes are
in fact manifestations of the formal cause or essence; Irwin (1988) argues that
based on some of Ar istotle’s ways of speaking about causality and some general
desiderata for a theory of causation, we may reduce the four causes on his
behalf to types of efficient cause. The latter approach assumes, explicitly,
that certain modern desiderata ought to be respected (e.g., that all causation
should be analyzed as a relation between actual, discrete particulars such as
events); whether it is the right approach therefore depends on the validity of
those desiderata. While I consider Robin’s reductive thesis to be too strong, I
shall argue (see especially section 6) that his core suggestion regarding the primacy
of the formal cause is, in fact, correct.
(23)
Aristotle is clear on this point with regard to the nature of soul. He offers
what appears to be a common account (logos koinos) under which all the
kinds of soul fall, namely the characterization of soul in De An. II 2
as the first actuality of a natural body which has life in potentiality
(412a27). Nevertheless, he denies that they are synonyms on the grounds that
such an account fails to describe what is peculiar (idion) to each kind
of soul (414b22–25).
(24)
I am not arguing, then, that one must take the four causes to be
homonymous, only that there is good reason to do so. I think such an account is
in fact promising, and has further advantages over univocal accounts, which are
given in the concluding section.
(25)
For detailed treatments of the nature and varieties of homonymy, see Irwin
1981; Shields 1999; and Ward 2008.
(26)
See, e.g., De An. 412b17–22; Pol. 1253a19–25; Meteor. 390a10–15.
(27)
See especially Phys. 195a32f.
(28)
In describing the different kinds of non-accidentally related homonyms, Irwin
(1981) speaks of “connected” homonyms, while Shields (1999) speaks of
“associated” homonyms.
(29)
See especially Metaph. Γ 2. Owen (1960) uses the term ‘focal meaning’
for these cases, which is perhaps unfortunate for its linguistic connection;
Irwin (1981) speaks of focal connection (531) and connected homonyms (526), which
rightly avoids linguistic connotation. Shields (1999) speaks of associated and
core-dependent homonyms, the latter of which captures the notion of asymmetry
important to the most philosophically interesting cases of homonymy. Aristotle
sometimes describes them as pros hen, as at Metaph. 1043a37. Not
all philosophically interesting homonyms are related pros hen, it would
seem. Aristotle suggests, for example, that the kinds of soul might turn out to
have wholly discrete definitions which form an ordered series; he likens them
to the basic kinds of geometrical figure, whose accounts (logoi), he
claims, are distinct one from the other, and not interrelated, but rather form
an ordered set (De An. 414b28–32).
(30)
I am not of course claiming that this is Aristotle’s considered view on the
matter, since he does not address it directly. Nonetheless, these issues of
definition, univocity, and interrelation are ones of which he is acutely
sensitive and which he does much to develop, so we cannot accuse him of being
unaware of the sorts of questions raised by his pluralism about aitiai.
Thus, even though he does not discuss their unity and interrelation explicitly,
it is plausible that Aristotle’s treatment of the causes is amenable to a more
rigorous formulation in terms of distinctions of which he is already well aware.
My goal is to give an account which accords best with his philosophical
commitments and methods, and to give it in as rigorous a manner as the problem
allows.
(31)
Phys. II 7 is an important chapter for understanding the causes as well,
since Aristotle there sums up the importance of the four causes for the study
of nature; however, he does not attempt there to clarify the nature of the four
causal roles themselves any further than he already has in Phys. II 3,
either through additional explication or examples.
(32)
I follow Fine’s (1984) abbreviations for the kinds of cause, and use (TC) to
indicate the teleological, or final cause.
(33)
Aristotle does not have a correlative term for ‘aitia’ which would
correspond to ‘effect’; I use it here simply to indicate whatever it is that
the causes in fact cause, i.e., an explanandum. The most highly developed
recent version of such extrinsic unification around a single effect is that of
Graham (1987), who views the causes as unified by a model based on the paradigm
example of the statue – that is, the paradigm case of an effect these causes
have. More recently, Hennig (2009) presents the four-causal schema as deriving
from a pair of related questions about the sources and endpoints of natural changes
and their subjects. The four causes would thus be unified (again extrinsically)
insofar as they are all pertinent to questions raised by a certain conception
of natural change.
(34)
See, for example, the four causes of ‘man’ listed at Metaph. 1044a34f.
Thus, the standard illustration by which Aristotle’s four causes are often
presented is, as Sprague (1968) observes, somewhat misleading, though not
un-Aristotelian; despite the importance of substances and the artefacts as
examples and illustrations, it is important for our purposes to note that, in
the passages which constitute his direct presentation of the four causes,
Aristotle does not choose to illustrate them by means of a single example.
(35)
The phrase is unavoidably awkward and obscure, and notoriously problematic, as
it is unclear how this description could accurately reflect the same notion of
material causation discussed elsewhere in the corpus. It is certainly none of
the other causes, however, and if this cause is truly different from the
material cause described in the Physics, it is a kind of cause Aristotle
abandons in his non-logical treatises. It seems more likely that his
description here is, for whatever reason, an awkward expression of the material
cause, perhaps meant to suit the geometrical example he has in mind, or to
evoke hypothetical necessity, or perhaps recalling the sense in which the
premises are the matter of the conclusion of a syllogism. See Ross 1945, 639,
and Barnes 1994, 226.
(36)
A literal rendering of the standard and technical Aristotelian phrase, usually
and best translated as ‘essence’.
(37)
“Touto de tauton esti tôi ti ên einai, tôi touto sêmainein ton logon. Alla
mên kai tou ti ên einai aition dedeiktai to meson.” I agree with Barnes’s
reading of this difficult sentence with the majority of the manuscripts
against Ross’s “to ti ên einai aition dedeiktai to meson ‹on›”. The text
and its meaning remain obscure nonetheless, and I have tried to render it
neutrally. In particular, I have used ‘explanatory’ to translate ‘aition’
here, since using ‘cause’ would seem to require adding more precision than the
text in fact has (for example, whether the middle term is simply a cause
or the cause).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét