Aristotle
Người
dịch: Hà Hữu Nga
Phần
1 (Quyển I)
Phép tu từ là kẻ tương tác của Phép biện chứng [1]. Cả hai đều quan
tâm tới những điều diễn ra, trong phạm vi hiểu biết chung của tất cả
mọi người và không thuộc về
một khoa học xác định. Theo đó, mọi người ít nhiều, đều sử
dụng cả hai; trong một chừng mực nào đó, mọi người đều cố gắng thảo luận các phán đoán và trì thủ để tự vệ và tấn công kẻ khác. Thường dân làm thế một cách ngẫu nhiên hoặc thông qua thực hành và do thói quen có được. Cả hai cách đều khả thể, còn chủ đề thì có thể được xử lý
một cách rõ ràng, có phương pháp, vì có thể hỏi
lý do tại sao một số diễn
giả lại thành công thông qua thực hành còn những người khác thì thành công một cách ngẫu nhiên; và mọi người
sẽ đồng ý rằng việc
khảo cứu như vậy chính
là chức năng của một nghệ thuật.
Giờ đây, các nhà soạn thảo các chuyên luận hiện tại về phép tu từ đã tạo dựng nên nó, nhưng mới chỉ là một phần nhỏ của
nghệ thuật đó. Các phương cách thuyết phục là thành phần thực sự duy nhất của nghệ thuật này: mọi thứ khác
chỉ là phụ thêm. Tuy nhiên, các tác
giả này lại không nói gì về lập
luận diễn dịch (ἐνθύμημα) [2], vốn là bản chất
của sự thuyết phục tu
từ, nhưng chủ yếu lại
đề cập đến những vấn
đề không cần thiết. Việc khơi dậy định kiến, thương hại, giận dữ và những cảm xúc tương tự
không liên quan gì đến các sự kiện thiết yếu, mà chỉ đơn thuần là một lời kêu
gọi cá nhân đối với người đang phán xét các vụ kiện. Do đó, nếu các quy tắc
cho các phiên tòa hiện được đặt ra ở một số thành bang - đặc biệt là ở các thành
bang được cai trị tốt – đã
được áp dụng ở mọi nơi, thì
những người như vậy sẽ không có gì để nói. Tất cả mọi người, không
nghi ngờ gì nữa, đều nghĩ rằng luật pháp nên quy định các quy tắc như vậy, nhưng một số, như tại
tòa án Areopagus
[3], đã mang lại hiệu quả thiết thực cho suy nghĩ của họ và cấm nói về những điều
không cần thiết. Đây là luật và
lệ rất hợp lý. Thật không đúng khi lung lạc quan tòa bằng cách khiến cho ông ta trở nên tức giận, đố kị hoặc thương hại
- người ta cũng có thể làm cong
vênh chiếc thước thợ khiến
ông ta thiên vạy mạch mực vậy. [οὐ γὰρ δεῖ τὸν δικαστὴν διαστρέφειν εἰς ὀργὴν προάγοντας ἢ φθόνον ἢ
ἔλεον: ὅμοιον γὰρ κἂν εἴ τις ᾧ μέλλει χρῆσθαι κανόνι, τοῦτον ποιήσειε στρεβλόν.]. Hơn nữa, một kẻ thưa kiện rõ ràng không có
gì để làm ngoài việc cho
thấy rằng thực tế là như vậy hoặc không phải như vậy, cho thấy rằng nó xảy ra hoặc không xảy
ra. Về phía liệu một sự việc có quan trọng hay không quan trọng, công bằng hay bất công, quan tòa chắc chắn phải từ
chối các chỉ dẫn của đương sự: ông ta phải tự quyết định tất cả những điểm khi các nhà lập pháp không định sẵn cho ông ta.
Trong tình thế ấy, đó là thời điểm
tuyệt vời mà các
điều luật thỏa đáng đưa ra nên tự xác định tất
cả các điểm họ có thể xác
định và chừa lại ít nhất có
thể theo quyết định của các quan
tòa; và việc làm
đó là vì một vài nguyên do. Trước hết, việc tìm được một người, hoặc một
vài người nhạy cảm và có khả năng lập pháp và quản trị công lý thì dễ dàng hơn là
tìm thấy một số lượng lớn
những người như vậy. Tiếp theo,
các điều luật được đưa ra sau một thời gian xem xét lâu dài, trong khi các
quyết định tại các
phiên tòa lại
được đưa ra trong một thông báo ngắn, điều này gây khó khăn cho những người
xét xử vụ án trong việc làm thỏa mãn được các đòi hỏi của công lý và tính thiết thực. Nguyên do đòi hỏi phải cân nhắc cẩn trong nhất là quyết định của
nhà lập pháp không phải là cụ
thể mà là triển vọng và chung chung, trong khi các thành viên của hội đồng xét xử và quan tòa phải nhận lãnh trách nhiệm là quyết định
các vụ án mà họ phải xét
xử. Bản thân họ thường bị ảnh
hưởng rất nhiều bởi các
cảm xúc về bạn - thù hoặc lợi – hại bản thân đến nỗi
họ có thể đánh mất đi bất kỳ tầm
nhìn rõ ràng nào về sự thật và việc
phán xét của họ bị che mờ bởi những cân nhắc về niềm vui hay nỗi đau
cá nhân.
Vậy là, nói chung, chúng
tôi muốn nói là quan toà nên được phép quyết định càng ít sự việc càng tốt. Nhưng
những câu hỏi về việc có chuyện gì đã xảy ra hay chưa xảy ra, xảy ra hay không xảy ra, sẽ xảy ra hay sẽ không xảy ra, nhất thiết phải
để lại cho quan tòa, vì nhà lập pháp
không thể thấy trước được. Nếu điều đó là như vậy, thì rõ ràng là bất kỳ
ai đưa ra các quy tắc về các vấn đề khác, chẳng hạn như nội dung của “giới thiệu”, “tường trình” hoặc bất kỳ cách phân chia nào
khác của một phát biểu, thì đều là chỉ thuyết lý về những điều không cần thiết cứ như thể chúng thuộc về nghệ
thuật đó vậy. Câu hỏi duy nhất
mà ở đây
các tác giả phải giải quyết là làm
thế nào để đưa quan
tòa vào một khuôn
khổ tâm trí nhất định. Về phương thức thuyết phục thích hợp của nhà tu từ học, họ không có gì
để nói với chúng ta; không hề có gì, có nghĩa
là những cách thức để đạt được các kỹ năng về các tam đoạn luận diễn dịch (ἐνθυμηματικός) vậy. [Nguyên văn câu trên trong Rhetoric của
Aristotles là: οὐδὲν
γὰρ ἐν αὐτοῖς ἄλλο πραγματεύονται πλὴν ὅπως τὸν κριτὴν ποιόν τινα ποιήσωσιν,
περὶ δὲ τῶν ἐντέχνων πίστεων οὐδὲν δεικνύουσιν, τοῦτο δ᾽ ἐστὶν ὅθεν ἄν τις
γένοιτο ἐνθυμηματικός.]
Do đó, mặc dù các
nguyên tắc có hệ thống tương tự áp dụng cho phép tu từ chính trị liên quan đến pháp lý, và mặc dù phép tu từ chính trị là một công việc cao quý hơn, và
thích hợp với một công
dân, hơn là công việc liên quan đến các
mối quan hệ của các cá nhân riêng
tư, nhưng các tác giả này lại không hề nói gì về phép tu từ chính trị, mà tất cả không trừ một ai chỉ cố viết các chuyên luận về cách thức biện hộ trước
tòa. Lý do cho điều này là trong lĩnh
vực tu từ chính trị ít có sự khích lệ để nói về những
điều không thiết yếu. Phép tu từ
chính trị ít liên
quan đến các thực hành vô đạo đức so với các thực hành pháp lý, bởi vì nó xử lý các vấn đề rộng lớn hơn. Trong một cuộc tranh luận chính trị, nhân vật ấp ủ một phán quyết đang
đưa ra một quyết định về lợi
ích sống còn của chính mình. Do đó, không cần thiết phải chứng minh bất cứ điều
gì ngoại trừ những sự kiện là những gì mà kẻ hỗ trợ về biện pháp duy
trì các sự kiện đó. Trong nghệ thuật tu từ pháp lý điều đó là không đủ; ở đây, việc thu phục được người nghe là công việc phải trả phí. Đó là vấn đề của những người khác sẽ phải được quyết định, sao cho các quan tòa, dốc lòng vì thỏa mãn bản thân và chỉ nghe một cách thiên vị, tự đầu hàng trước
những kẻ tranh biện thay vì phán xét
những liên quan đến họ. Do đó ở nhiều
nơi, như chúng ta đã nói, việc nói
những điều không liên quan bị cấm trong các tòa án: trong hội họp công cộng, những người phải đưa ra phán quyết
thì bản thân họ phải có thể bảo vệ chống
lại tình trạng đó.
Vậy thì rõ ràng là việc nghiên cứu phép tu từ, theo nghĩa chặt
chẽ của nó, có liên quan đến các phương pháp thuyết phục.
Thuyết phục rõ ràng là một loại chứng
minh, vì chúng ta chỉ bị thuyết phục
hoàn toàn khi chúng ta coi một điều gì đó là đã được chứng
minh. Việc chứng minh của nhà tu từ học là một lập luận diễn dịch, và nói chung,
đây là cách hiệu quả nhất trong các phương thức thuyết phục. Lập luận diễn dịch là một loại
tam đoạn luận, và việc xem xét các loại tam đoạn luận,
không phân biệt, chính
là nhiệm vụ của phép biện chứng,
hoặc là nhiệm vụ của phép biện chứng như một tổng thể hoặc của một
nhánh của nó. Do đó, rõ ràng là kẻ
nào có khả năng thấy rõ nhất các cách thức và thấy được từ những yếu tố
nào mà một tam đoạn luận
(συλλογισμοῦ) được tạo ra thì sẽ có kỹ năng tốt nhất về tam đoạn luận diễn dịch, khi kẻ đó đã hiểu thêm về vấn đề của
nó là gì và ở khía cạnh nào thì nó khác với tam đoạn luận logic chặt chẽ. Chân lý và cận chân lý được nhận thức bởi cùng một khả năng; cũng có thể lưu
ý rằng những người có bản năng tự
nhiên phong nhiêu cho những gì là chân lý thì thường đạt đến được chân lý. Do đó, kẻ nào đưa ra được dự đoán tốt về chân lý thì có khả năng đưa
ra dự đoán tốt về các
khả tính. Vậy
thì rõ ràng là các tác
giả bình thường về phép
tu từ thì bàn về những
điều không thiết
yếu; và cũng đã rõ là tại sao họ lại thiên về nhánh pháp lý của phép tu từ. [Nguyên
văn đoạn trên trong Rhetoric của Aristotles là: ἐπεὶ δὲ φανερόν ἐστιν ὅτι ἡ μὲν ἔντεχνος μέθοδος περὶ τὰς πίστεις ἐστίν,
ἡ δὲ πίστις ἀπόδειξίς τις (τότε γὰρ πιστεύομεν μάλιστα ὅταν ἀποδεδεῖχθαι ὑπολάβωμεν),
ἔστι δ᾽ ἀπόδειξις ῥητορικὴ ἐνθύμημα, καὶ ἔστι τοῦτο ὡς εἰπεῖν ἁπλῶς κυριώτατον
τῶν πίστεων, τὸ δ᾽ἐνθύμημα συλλογισμός τις, περὶ δὲ συλλογισμοῦ ὁμοίως ἅπαντος
τῆς διαλεκτικῆς ἐστιν ἰδεῖν, ἢ αὐτῆς ὅλης ἢ μέρους τινός, δῆλον ὅτι ὁ μάλιστα τοῦτο
δυνάμενος θεωρεῖν, ἐκ τίνων καὶ πῶς γίνεται συλλογισμός, οὗτος καὶ ἐνθυμηματικὸς
ἂν εἴη μάλιστα, προσλαβὼν περὶ ποῖά τέ ἐστι τὸ ἐνθύμημα καὶ τίνας ἔχει διαφορὰς
πρὸς τοὺς λογικοὺς συλλογισμούς. τό τε γὰρ ἀληθὲς καὶ τὸ ὅμοιον τῷ ἀληθεῖ τῆς αὐτῆς
ἐστι δυνάμεως ἰδεῖν, ἅμα δὲ καὶ οἱ ἄνθρωποι πρὸς τὸ ἀληθὲς πεφύκασιν ἱκανῶς καὶ
τὰ πλείω τυγχάνουσι τῆς ἀληθείας: διὸ πρὸς τὰ ἔνδοξα στοχαστικῶς ἔχειν τοῦ ὁμοίως
ἔχοντος καὶ πρὸς τὴν ἀλήθειάν ἐστιν. ὅτι μὲν οὖν τὰ ἔξω τοῦ πράγματος οἱ ἄλλοι τεχνολογοῦσι,
καὶ διότι μᾶλλον ἀπονενεύκασι πρὸς τὸ δικολογεῖν, φανερόν].
Phép
tu từ là hữu ích 1) bởi vì những điều là sự thật và những điều là cái chỉ có xu hướng
tự nhiên chiếm ưu thế so với các đối lập của chúng, do đó, nếu các quyết định của
các quan tòa không bắt buộc phải như vậy, thì thất bại phải do bản
thân các diễn giả, do đó họ phải gánh lấy lỗi lầm. Hơn nữa, 2) trước một số cử tọa mà ngay cả các hiểu biết chính xác cũng không có được thì điều đó sẽ giúp cho những gì người ta nói dễ tạo ra sức
thuyết phục. Vì lập luận dựa trên hiểu
biết thì ẩn ý chỉ dẫn, và cũng có những người mà người ta không thể chỉ dẫn được. Vậy là trong trường hợp này, với tư cách là các phương thức thuyết phục và lập luận của mình, chúng ta phải sử dụng các khái niệm mà mọi người
đều biết, như chúng ta đã thấy trong sách Topics Τοπικά [4] liên quan đến cách xử lý với đám cử tọa công chúng. Ngoài ra, 3) chúng ta phải có khả năng thuyết phục, hệt như việc sử dụng các suy lý chặt chẽ, ở phía đối diện của câu hỏi, trong thực tế không phải là chúng ta có thể
sử dụng nó theo cả hai cách (vì chúng ta không được làm cho mọi người tin vào
những điều sai trái), mà để chúng ta có thể thấy rõ các sự kiện là gì, và nếu
một người khác tranh luận không công bằng, về phía mình, chúng ta có thể bác bỏ ông ta. Không có nghệ
thuật nào khác đưa ra các
kết luận ngược lại: chỉ
có phép biện chứng và phép tu từ làm điều
này. Cả hai nghệ thuật này rút ra các kết luận trái ngược một
cách vô tư. Tuy nhiên, các sự kiện cơ bản lại không thích hợp như nhau đối với
các quan điểm trái ngược. Không; những điều đúng và những
điều tốt hơn, về bản chất, thực tế luôn dễ chứng minh và dễ tin hơn. Hơn nữa, 4) thật phi
lý khi cho rằng người ta
phải xấu hổ vì không thể tự vệ bằng tay chân của mình, nhưng lại không xấu hổ vì không thể tự vệ bằng
lời nói và lý trí, khi việc sử dụng lời nói hợp lý là đặc tính vượt trội của một con
người so với việc sử dụng sức mạnh cơ bắp. Và nếu người ta
phản đối rằng một người sử dụng sức mạnh của lời nói một cách bất công có thể
gây tổn hại lớn, thì đó là một lời
buộc tội có thể được tạo ra
một cách thông thường để chống lại tất cả những điều thiện, ngoại trừ đức
hạnh, và trên hết là chống lại những điều hữu ích nhất, như sức mạnh, sức khỏe,
sự giàu có, địa vị khanh tướng. Người ta có thể mang lại lợi ích lớn nhất bằng cách sử dụng đúng đắn những điều trên, và ngược lại gây ra thương đau lớn nhất nếu sử dụng chúng một cách sai trái.
Vậy thì, rõ ràng là phép tu từ không bị ràng buộc
với một lớp chủ đề xác định duy nhất,
mà cũng phổ biến hệt như phép biện chứng vậy; rõ ràng là nó cũng hữu ích. Hơn
nữa, rõ ràng là chức năng của nó
không chỉ đơn giản là thành công trong việc thuyết phục, mà là khám phá các
phương tiện đạt đến thành
công như các trạng huống của từng trường
hợp cụ thể cho phép. Về
phương diện này, nó giống với tất cả các nghệ thuật khác. Chẳng hạn, chức
năng của y học
không chỉ đơn giản là làm cho người ta lập
tức khỏe mạnh, mà là làm
cho người ta được
mạnh khỏe
lâu dài; có thể đưa ra
cách xử lý tuyệt vời ngay cả
với những người không bao giờ có thể được tận hưởng một thể lực tráng kiện. Hơn nữa, rõ ràng chức
năng của cùng một nghệ thuật đó
chính là phân biệt thực tế và phương tiện thuyết phục hiển nhiên, hệt như chức năng của phép biện chứng là để phân biệt cái hiện thực và phép tam đoạn luận hiển minh. Điều khiến cho một kẻ trở thành “ngụy biện” không phải là năng lực, mà chính là mục đích đạo đức
của ông ta. Tuy nhiên,
trong phép tu từ, thuật ngữ “nhà tu từ” có thể mô tả cả kiến thức của diễn giả về nghệ thuật, lẫn mục đích đạo đức của người đó. Đối với phép biện chứng
thì vấn đề lại khác: một kẻ là “ngụy biện” bởi vì ông ta có một mục đích đạo
đức nhất định, một “nhà biện chứng” đáng
kính, không phải mục đích đạo đức của ông ta, mà là năng lực của ông ta. Bây giờ chúng ta hãy thử đưa ra một cách lý giải nào đó về các nguyên tắc có tính phương pháp của chính phép tu từ - về phương pháp và
phương tiện đúng đắn để thành công trong mục đích mà chúng ta đặt ra cho mình. Chúng ta phải làm cho nó trở thành một khởi đầu mới, để tiếp tục xác định rõ hơn phép tu từ là gì.
_________________________________________
Còn
nữa…
Nguồn:
1.
Bản tiếng Anh: The Rhetoric
of Aristotle, translated by W. Rhys Roberts, Courier Corporation, 2004.
2.
Bản song ngữ Hy Lạp - Latin:
Fee-Alexandra Haase, The Rhetoric of
Aristotle, Bilingual Edition of the Original Greek Text
and the Latin Translation of Johann Theophilus Buhle. (Được người dịch Việt bản sử dụng để
tham khảo nghĩa gốc của các thuật ngữ và cách diễn đạt của văn ngôn Hy Lạp cổ
đại để tránh áp đặt các nghĩa hiện đại cho Aristotles).
Tác giả: Aristoteles - Ἀριστοτέλης
(384 – 322 TCN) là một nhà triết học và bác học thời Hy Lạp cổ đại, học trò của
Platon và thầy dạy của Alexandros Đại đế. Tác phẩm của ông bao gồm nhiều lĩnh vực
như vật lý học, siêu hình học, thi văn, kịch nghệ, âm nhạc, luận lý học, tu từ
học (rhetoric), ngôn ngữ học, Kinh tế học, chính trị học, đạo đức học, sinh học,
và động vật học. Ông được xem là người đặt nền móng cho môn luận lý học, và được
mệnh danh là “Cha đẻ của Khoa học chính trị”. Ông cũng thiết lập một phương
cách tiếp cận với triết học bắt đầu bằng quan sát và trải nghiệm trước khi đi tới
tư duy trừu tượng. Cùng với Platon và Socrates, Aristoteles là một trong ba trụ
cột của văn minh Hy Lạp cổ đại.
Người
dịch ra tiếng Anh: William Rhys Roberts (1858-
1929), sinh ngày 11 tháng 7 năm 1858 tại Wimbledon, con trai của Mục sư J. Gwilym
Roberts. Ông học tại City of London School và Đại học King's, Cambridge, nơi ông đã giành được một số giải thưởng đại
học chính về môn Hy Lạp học. Ông là giáo sư tiếng Hy
Lạp tại Đại học College, Bangor, 1884-1904, và là giáo sư môn Hy Lạp học tại Đại học Leeds, 1904-22. Ông được coi là người có thẩm quyền trong lịch
sử phê bình văn học Hy Lạp và xuất bản các phiên bản chú thích của một số tác
phẩm của các nhà phê bình (Longinos, Dionysios of Halicarnassos, Demetrios).
Ông là một tác giả có tiếng; ngoài các tác phẩm được đề cập trên các nhà phê
bình văn học Hy Lạp, ông đã xuất bản một bản dịch của Aristotle's Rhetoric và một
nghiên cứu về những người Boeotian cổ đại; ông cũng xuất bản nhiều cuốn sách nhỏ
về các vấn đề liên quan đến việc giảng dạy kinh điển trong các trường đại học
và về giáo dục nói chung.
Ghi
chú của người dịch Việt bản:
[1]
Phép biện chứng (διαλεκτικῇ, sc. τέχνη) dialectic, là nghệ thuật thảo luận một
vấn đề bằng cách hỏi và trả lời, diễn tiến của sự thật bằng cách thảo luận,
tranh biện logic như vậy được Zeno of Elea sáng tạo ra, Arist. Fr. 54 ; và được
Socrates hoàn thiện, v. Grote Plat. I. 241 sq., 256 sq.; ἡ δ. πειραστικἡ περὶ ὦ ἡ φιλοσοφία γνωριστική Arist. Metaph. 3. 2,
20 ; còn Plato thì đặt phép biện chứng lên trên tất cả các khoa học, ὢσπερ θριγκος τοῑς μαθήμασιν ἡ δ. έπάνω κεῑται
Rep. 534 E: also, τὸ - κόν Soph.
253 E. 2. Theo nghĩa tích cực, Logic của các khả tính, opp., đối với biểu hiện
tích cực, Arist. Top. I. I, 2 và 14, 5, Rhet. I. I, I ; cf. Pacium ad Anal. Pr.
I. I, 6:—phép biện chứng của các nhà triết học khắc kỷ cũng bao gồm cả ngữ pháp.
III. Adv. - κὥς, theo cách biện chứng,
Plat. Phil. 17 A, etc.: vì mục đích biện luận, opp. to κατ' άλήθειαν, Arist.
Top. I. 14, 5, cf. de An. 1. 1,8. [Mục từ: διαλεκτικός- A Greek – English Lexicon compiled by Henry George Liddell D.D.,
and Robert Scott D.D. Eighth Edition, Revised Throughout; American Book
Company, New York, Chicago, Cincinati, 1882]. Đoạn trích trên đây từ cuốn Từ điển
Hy Lạp – Anh (năm 1882) cho thấy rất rõ thế nào là phép biện chứng cổ đại, nó
hoàn toàn khác với phép biện chứng của Hegel và Marx.
[2] Enthymeme là lập luận diễn dịch, “một tam đoạn luận trong đó một tiền đề bị bỏ qua,” trong Aristotle, “một suy luận từ các khả năng có thật và dấu hiệu,” từ “ἐνθύμημα” enthymema tiếng Hy Lạp là “suy nghĩ, lập luận, suy luận,” động từ ἐνθυμεῖσθαι enthymesthai, nghĩa đen là “ghi
vào tâm trí” (ἐν = vào, θυμός
= tinh thần, ý thức).
[3]
Areopagus là một mỏm đá nổi bật nằm ở phía tây bắc của Acropolis ở Athens,
Hy Lạp. Tên tiếng Anh của nó là dạng hỗn hợp Latin muộn của tên Hy Lạp Ἄρειος Πάγος (Areios Pagos), được dịch là “Gót chân Areios”. Trong thời cổ
điển, nó có chức năng như một
Pháp đình xét xử tội cố tình giết người, gây thương tích và các vấn đề tôn
giáo, cũng như các vụ án liên quan đến đốt phá. Areios được cho là đã
bị các vị thần xét xử ở đó vì tội giết con trai của Poseidon là Halirrhothius, một ví dụ điển
hình của một huyền thoại về thuyết
nguyên nhân. Nguồn gốc cái tên đó là không rõ ràng.
Trong tiếng Hy Lạp cổ đại, πάγος có nghĩa là “khối đá lớn”. Areios có thể có
nguồn gốc từ Ares hoặc từ Erinyes, vì ở chân khối đá có một ngôi đền
dành riêng cho Erinyes
(bộ ba nữ thần Erinyes ở trong lòng đất trả thù những kẻ tuyên thệ bậy bạ), nơi những kẻ giết người thường tìm nơi trú ẩn để không phải đối mặt với
hậu quả của hành động của họ.
[4] Τοπικά – “Các chủ đề” là tên được đặt cho một
trong sáu tác phẩm của Aristotle về logic được gọi chung là Organon. Chuyên luận
này trình bày về nghệ thuật biện chứng -
phát minh và khám phá các lập luận trong đó các mệnh đề dựa trên ἔνδοξα - các ý kiến chung. Topoi τόποι là các
“địa điểm” mà từ đó các lập luận như vậy có thể được phát hiện hoặc phát minh ra. Trong Chuyên luận của mình, Aristotle không định nghĩa rõ ràng một chủ đề, mặc dù
đó “tối
thiểu chủ yếu cũng là một chiến lược để tranh luận không thường xuyên được biện minh hoặc giải thích bằng một nguyên tắc.” Trong Rhetoric ông nói:
“Tôi gọi cùng một sự vật là yếu tố và topos, vì một yếu tố hoặc một topos là một tiêu đề bao gồm nhiều tam đoạn luận diễn dịch”. Bằng từ yếu tố (element) ông muốn nói đến một hình thức chung bao gồm các tam đoạn luận diễn dịch. Do đó, topos là một nguồn lập luận chung, từ đó các lập luận riêng lẻ là các trường hợp và là một loại khuôn mẫu mà từ đó nhiều lập luận riêng lẻ có thể được xây dựng. Từ τόπος (tópos) nghĩa đen là “địa điểm, định vị) cũng liên quan đến
phương pháp ký ức cổ đại về các vị trí - “loci”, theo đó những điều cần nhớ được gợi lại bằng cách kết nối chúng với những chuỗi địa điểm tưởng tượng hoặc hiện thực.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét