Hans-Georg Gadamer
Người dịch: Hà Hữu Nga
Ảnh hưởng của Heidegger luôn được liên kết với các lực lượng
đối kháng có cơ sở chắc
chắn và hoàn toàn dễ hiểu. Điều này phải được hiểu ngay từ đầu nếu chúng ta đi đến
thỏa thuận với cuộc
nói chuyện của Heidegger về sự
cáo chung của triết học và bước khởi thủy của tư tưởng. Sự phản đối mạnh
mẽ đầu tiên có thể được đưa ra để
chống lại
Heidegger, tất nhiên, là mối quan hệ của ông với logic. Ở
đây không đặt nặng vấn đề logic đã đạt được tiến bộ đáng kinh ngạc
trong những thập kỷ qua trong khi Heidegger, cũng như tất cả những người thuộc
thế hệ của tôi, đã được
dạy dỗ bằng logic của
trường phái Aristotelian
cổ xưa. Đây là vấn đề của một cuộc xung đột sâu sắc hơn, không
chỉ liên quan đến Heidegger mà cả triết học lục địa nói chung. Chẳng hạn, luôn
có thể xé tan những tuyên
bố của Heidegger theo cách chúng ta đã bắt đầu quen với Rudolf Carnap. Trong một bài viết đã trở nên rất nổi tiếng, Carnap đã gỡ tung bài giảng khai mạc của Heidegger tại Freiburg với tựa đề Was ist Metaphysik? “Siêu
hình học là gì?” bằng
cách ứng dụng cực kỳ kỹ lưỡng các quy tắc logic của trò chơi. Trong văn bản đó, Heidegger nói một cách cởi
mở về sự hủy diệt của hư vô. Nếu người ta bắt đầu với Carnap để viết tuyên bố này lên bảng, nhằm mục đích sử dụng các công cụ của logic toán học, thì hoàn toàn rõ ràng là nó
sẽ trở nên vô ích. Bằng
thứ ngôn ngữ hình thức này, trong đó mọi thứ được cho là có ý
nghĩa rõ ràng, không biểu tượng nào có thể được dùng cho “hư vô”. Người ta chỉ thấy biểu tượng cho sự phủ định một cách biểu đạt. Thành
ra cuộc nói chuyện của Heidegger trở thành một bí ẩn không thể tiếp cận. Từ
quan điểm của logic vị
từ [1], kiểu phản đối này rất có thể hợp thức. Nhưng vậy
thì triết học trở thành
cái gì?
Trong con mắt của logic hiện đại, Hegel cũng có một kết cục tệ hại hệt như vậy. Còn Heraclitus Bóng tối [2] thì sao? Chúng ta sẽ phải tự hỏi mình diễn ngôn triết học là gì và nó có quyền gì mà dám nhục mạ các quy luật logic vị từ. Hơn nữa, điều này không chỉ diễn ra trong các diễn ngôn triết học mà còn ở bất kỳ hình thức diễn ngôn liên con người nào dưới sự che chở của phép tu từ. Vì vậy, vấn đề quan trọng hàng đầu đối với triết học là xác định lý do tại sao cái được ngôn ngữ cho phép nhưng lại bị logic cấm đoán không thể đơn giản được đưa vào cảm giác hoặc cho một trò chơi đầy chất thơ, như Carnap phỏng đoán.
Phản đối thứ hai, đi cùng với chủ đề cụ thể về khởi nguồn của triết học, xuất hiện từ khía cạnh triết học. Chúng ta sẽ thấy khó loại trừ được cái căn bệnh phi lý được triết học cổ điển (mà ở một mức độ nào đó tôi cũng thuộc về) đưa ra để chống lại thứ bạo lực trong những diễn giải của Heidegger hoặc thậm chí là tính không chính xác nào đó trong một số chiến lược diễn giải của ông. Vì lý do này, chúng ta sẽ phải tự hỏi liệu chúng ta có thể yêu sách cái quyền bỏ qua nhà tư tưởng vĩ đại này hay ngược lại, liệu chúng ta có thể để mất một điều gì đó quan trọng khi chúng ta đóng sập cửa với Heidegger vì tác động không mong muốn của tư tưởng của ông.
Phản đối thứ ba là của khoa học. Một mặt, còn có các nhà khoa học xã hội những kẻ nhận thấy rằng lĩnh vực của họ đã bị Heidegger bỏ qua hoặc ít nhất chỉ được đề cập lắt nhắt. Đối với họ, việc chối bỏ “xã hội” với tư cách cái Con người - das Man - là không được phép. Mặt khác, lại còn các khoa học tự nhiên, những kẻ không thể hiểu Heidegger muốn gì khi ông nói “không có tư duy trong các ngành khoa học”. Nhưng có lẽ một yêu sách như vậy đòi hỏi phải nghĩ đến một loại khoa học có đôi chút khác biệt với các khoa học thực nghiệm.
Tất cả những điều này có thể được tóm tắt trong định kiến chi phối đối với hiệu ứng, điều mà những gì Heidegger phải nói sau khi Hữu thể và Thời gian không còn có thể chứng minh được, là một thể thơ, hay tốt hơn vẫn là một dòng tư tưởng giả huyền thoại. Ở đây chúng ta thấy Hữu thể được nói đến theo một cách mà “nó mang lại”, “nó gửi”, “nó đạt được”; lòng tốt biết cả những gì khác được nói về một cái gì đó bí ẩn này chính là Hữu thể. Liên quan đến sự hủy diệt hư vô trong bài giảng khai mạc Freiburg mà Carnap coi là biệt lệ, đây lại là một điều khác biệt, khi so sánh với cái mà “tính hư vô” nói trên thực sự xuất hiện gần như vô hại. Ở đây chúng ta đưa ra một câu hỏi không thể dễ dàng lẩn tránh và đặc biệt, nó đòi hỏi chúng ta phải tính đến vai trò của cái mà nghệ thuật, và trên hết là thi ca của Holderlin, đã nhận lãnh trong dòng tư tưởng của Heidegger quá cố.
Nếu tôi đề cập đến những phản đối này chống lại Heidegger
theo cách giới thiệu, thì đó là để nhường chỗ cho sự cấp bách toàn diện của chủ
đề được đang đề cập. Đây là một câu hỏi phải được nền văn minh của chúng ta đặt ra. Tuy sinh ra ở phương Tây, nhưng nó vẫn lan rộng mạng lưới của mình trên phần lớn của thế giới. Nó liên
quan đến thế giới quan nằm ở gốc rễ của khoa học và lý thuyết khoa học, một thế
giới quan đặc trưng cho thời đại của chúng ta. Động lực nội tại hướng tới “tiến bộ” ẩn nấp trong đó đang
dần bắt đầu phát huy ảnh hưởng của nó như là một điều đáng chú ý. Đó là bốn
mươi năm trước, Heidegger đã viết bài báo của mình về sự cáo chung của triết học,
và ngày nay đọc lại bài viết này cứ như thể ông đã nắm bắt được chính xác những gì đã khiến chúng ta bận tâm ở
mọi nơi trong khi
chờ đợi vậy. Do đó, chủ đề của bài viết này, Khởi
thủy và Cáo
chung của triết học chính là một cái gì đó quay
về với công trình của Heidegger. Vậy thì việc nói rằng triết học đang cáo chung
có ý nghĩa gì, và trong điều kiện tốt nhất, nó đã bị rã hủy thành một số
ngành học chuyên biệt, những ngành học có lẽ sẽ được khoan dung cùng các ngành khoa
học khác trong phức
hợp văn hóa khoa học của chúng ta? Xu hướng đương đại nào đang được mô tả với
công thức: triết học cáo
chung?
Để chắc chắn, điều này không có nghĩa là không có gì khác
hiệu quả ngoại trừ
bệnh cuồng công nghệ. Khi Heidegger nói về cáo chung của triết học,
tất cả chúng ta đều hiểu ông
muốn nói gì. Cách nói này chỉ có thể thực
hiện được ở phương Tây. Ở những nơi khác trên thế giới, triết học
không bao giờ được đặt ra quá triệt
để so với thơ ca hay tôn giáo, không chỉ ở Đông Á, cũng không chỉ ở Ấn Độ, lại càng ít hơn nữa ở những nơi còn ít được biết đến
trên trái đất. “Triết học” là một biểu hiện của vận mệnh phương
Tây của chúng ta. Việc
nói với Heidegger: một số phận hữu thể luận, là thứ như một vấn đề
thực tế, đã trở thành
định mệnh của chúng ta. Nền văn minh đương đại
cố gắng hoàn thành định mệnh này, hoặc có vẻ như, một định mệnh sẽ đưa toàn bộ nhân loại
đến dưới ảnh hưởng của cuộc cách mạng công nghiệp. Cho dù ảnh hưởng đó được liên kết
với điều này điều nọ thì kinh tế vẫn đóng một vai trò phụ thuộc. Một nền kinh tế tập trung hóa, giống như kế
hoạch năm năm của Nga, dường như đặc biệt giống với chính chúng ta
trong sự khuất phục trước các
quy luật tất yếu của xã hội tư bản. Nếu chúng ta đang nghe
nói về sự cáo chung của triết học thì điều này phải được hiểu theo đúng các dòng chữ nói trên. Chúng
ta đang bắt đầu ý thức về thực tế là sự khác biệt giữa tôn giáo, nghệ thuật và triết học và có lẽ cũng là sự
khác biệt giữa khoa học và triết học, không giống nhau đối với tất cả các nền văn hóa mà
là nó đặt dấu ấn của mình vào lịch sử cụ thể của thế giới phương Tây. Người ta buộc phải hỏi: đó là
loại định mệnh nào? Nó đến từ đâu? Cái công nghệ đã từng có thể
phát huy ảnh hưởng một cách tự chủ đến mức ngày nay nó trở thành dấu ấn riêng biệt của văn hóa
loài người
đó đã xuất hiện
như thế nào? Nếu chúng ta đặt ra những câu hỏi như thế này, thì sự ngạc nhiên của Heidegger ngay từ cái nhìn đầu tiên và cái luận đề nghịch lý kia, tất cả đều có vẻ là một hợp lý bất ngờ, đáng kinh
ngạc; và chính kết quả của khoa học và siêu hình học Hy Lạp đã khiến xuất hiện nền văn minh
thế giới ngày nay.
Bằng cách so sánh với các thời đại trước đó, chắc chắn rằng nền văn minh kỹ thuật ngày nay đã phổ biến một dấu ấn khác biệt trong lịch sử của chúng ta. Trong một bài viết nổi tiếng về công nghệ, chính Heidegger đã thừa nhận rằng công nghệ không đại diện cho sự mở rộng đơn giản của văn hóa thủ công xưa nay thân thuộc hoặc thậm chí là hoàn thiện nguyên do công cụ vốn đã được củng cố thành một hệ thống tự cung cấp.
Heidegger đã suy tư về hệ thống này dưới sự bảo trợ đầy khích động của cái tên das Gestell (khuôn khổ hoặc khung sườn) - một khái niệm Heideggerian thực sự. Chúng ta sẽ phải nói chuyện sau về xu hướng đưa ra các khái niệm mới của Heidegger. Nhưng để đến gần hơn với khái niệm das Gestell, người ta chỉ phải nghĩ về một ứng dụng quen thuộc của từ này. Chúng ta nói, chẳng hạn, về chiếc hộp đèn tín hiệu đường sắt. Có nghĩa là, cài đặt quy định trong mỗi trạm chỉ dẫn đường ray vào các thềm khác nhau của một ga tàu. Từ quan điểm này, bất cứ ai cũng có thể hiểu rõ khái niệm của Heidegger. Das Gestell là một khái niệm chủ chốt, tổng của các khung sườn và chỉ dẫn như vậy, sắp xếp thứ tự và bảo đảm an toàn như vậy. Heidegger đã cho thấy một cách thuyết phục rằng ở đây chúng ta đang phải đối mặt với một cấu trúc tư tưởng quyết định toàn bộ, điều này không có nghĩa là giới hạn vào nền kinh tế công nghiệp theo nghĩa hẹp. Luận đề của ông là triết học đang cáo chung bởi vì tư duy của chúng ta diễn ra dưới sự chỉ dẫn chung cục của das Gestell.
Giờ đây
Heidegger hỏi:
tất cả những thứ này xuất
hiện từ đâu? Khởi thủy của lịch sử này là gì? Rõ ràng, khởi thủy ấy không được đặt ở điểm mà khoa học hiện đại ngày càng phụ
thuộc nhiều vào tiến bộ công nghệ. Thay vào đó, khoa học hiện đại tự nó đã là
công nghệ. Điều này có nghĩa là mối quan hệ của nó với các thực thể tự nhiên là
một cuộc công kích phá vỡ sự kháng cự. Theo nghĩa này, khoa học
rất năng nổ ở chỗ nó buộc các thực thể phải
đáp ứng các điều kiện của kiến thức “khách quan”, cho dù các thực thể này là tự nhiên hay
mang tính xã hội. Lấy một ví dụ mà tất cả chúng ta đều quen thuộc vì chúng ta
thuộc về xã hội: bảng hỏi. Bảng hỏi là một tài liệu chứng thực rằng người ta buộc phải trả
lời các câu hỏi được hỏi. Cho dù người ta có muốn hay không muốn trả lời, dù người ta có thể hoặc
không thể trả lời một cách có trách nhiệm, thì chúng ta vẫn phải
có nghĩa vụ
phải trả lời nhân danh khoa học.
Khoa học xã hội
cần các số liệu thống kê hệt như khoa học tự nhiên áp dụng các phương pháp định lượng
vào tự nhiên vậy. Trong cả hai trường hợp, đó là ưu thế của một
phương pháp xác định những gì là khoa học và xứng đáng để điều tra khoa học, có
nghĩa là những gì được coi là kiến thức có thể kiểm soát được. Cho dù các
khái niệm được phát triển bằng lý thuyết khoa học phức tạp và tinh vi đến mức nào, cũng
không thể phủ
nhận được rằng bước đột phá vĩ đại của thế kỷ XVII vẫn
còn hiệu quả cho đến ngày nay. Ban
đầu nó xuất hiện từ vật lý của Galileo và Huygens và phát hiện ra khớp nối cơ bản đầu tiên trong các suy tư của Descartes. Người ta biết rõ phương Tây đã xoay xở như
thế nào để “làm sáng tỏ thế giới” với
tư cách là kết quả của bước đột phá này trong khoa học hiện đại. Việc
khai thác công nghiệp các nghiên cứu khoa học cuối cùng đã khiến phương Tây nổi
lên như một đại cường hành tinh thống trị bằng cách cài đặt một
hệ thống kinh tế và truyền thông toàn năng. Nhưng đó không phải là khởi thủy đầu tiên.
Có một thứ cổ xưa hơn, chắc chắn là như vậy, làn sóng “khai sáng” đầu tiên thông qua đó khoa học và việc nghiên cứu khoa học đã phát triển thế giới - và đó chính là khởi thủy mà Heidegger bận tâm và là điều sâu kín trong tâm trí ông khi ông nói về sự cáo chung của triết học. Đây chính là khám phá của người Hy Lạp về theoria (θεωρία- suy tư, suy xét, nghiên cứu, sự vật được xem xét - HHN). Luận đề đầy khích động của Heidegger là khởi thủy của khai sáng khoa học này chính là khởi thủy thực sự của siêu hình học. Chắc chắn, khoa học hiện đại khởi lên với tư cách là kết quả của một cuộc xung đột với “siêu hình học”, nhưng dẫu sao thì lẽ nào đó lại không phải là hệ quả của vật lý và siêu hình học Hy Lạp? Bằng cách này, Heidegger đã đặt ra một câu hỏi đầy ám ảnh đối với tư tưởng hiện đại trong một thời gian dài. Nó có thể được minh họa bằng cách tham chiếu vào một trường hợp cụ thể, nổi tiếng. Khi bắt đầu khoa học hiện đại vào thế kỷ XVII, các nhà triết học đã quay sang nhà tư tưởng ít được biết đến nhất trong số các nhà tư tưởng vĩ đại của Hy Lạp, là Democritus. Điều đó dẫn đến việc Democritus được xiển dương là tiền thân vĩ đại của chúng ta, đặc biệt là vào thế kỷ XIX khi chiến thắng của khoa học hiện đại nói chung đã xâm chiếm ý thức nói chung, vả lại đó lại là một tiền thân đã bị che rợp bởi phong cách tăm tối của một Plato hay một Aristotle. Chính vì vậy, Heidegger đã có thể đặt ra câu hỏi về các nguồn gốc Hy Lạp của chúng ta theo một cách thức triệt để hơn nhiều. Ông đã phát hiện ra một liên tục tính sâu sắc hơn trong lịch sử phương Tây được khởi xướng trước đó và vẫn kiên ngoan tồn tại cho đến tận ngày hôm nay. Truyền thống này đã dẫn đến sự chia rẽ của tôn giáo, nghệ thuật và khoa học và thậm chí còn làm hồi sinh tính cấp tiến của kỷ nguyên Khai sáng châu Âu. Châu Âu đã bước tới con đường này ra sao? Con đường này là gì? Nó đã bắt đầu ra sao và đã tiếp diễn thế nào, cho đến cuối cùng nó tìm thấy được cách biểu đạt kịch tính nhất của mình trong Holzwege Đường gỗ của Heidegger?
Không thể nghi ngờ rằng sự phát triển này song hành cùng với những gì mà ở Đức gọi là Begriff
(khái niệm). Để nói một Begriff là gì dường như cũng khó khăn chẳng kém Augustine đã nói trong thời gian chứa đựng những gì. Tất
cả chúng ta đều biết câu trả lời mà vẫn không thể nói nó thực sự bao gồm những
gì. Khi đó là câu hỏi về một Begriff,
thì các từ luôn phản bội chúng ta. Trong một Begriff, có một cái gì đó được gắn kết (zusammengegriffen) với nhau, hợp
lại cùng nhau. Trong chính từ Begriff,
chúng ta thấy nó ngụ ý rằng một Begriff tóm
lấy (zugreift), kết hợp vào (zusammengreift)
và do đó mà bao trùm được (begreift). Do đó suy tư bằng Begriffen (các khái niệm) là một sự can dự (eingreifendes)
tích cực và là việc giành giật (ausgreifendes) được
tư duy. Do đó, Heidegger đã nắm bắt lịch sử của siêu hình học
như là cách biểu đạt của một kinh nghiệm nguyên gốc Hy Lạp về Hữu
thể, và hơn nữa như
là cách biểu đạt sự phát triển kinh nghiệm của chúng ta về việc suy tư hiểu
thấu các hiện hữu bằng Hữu thể
của chúng, sao cho người ta có nắm bắt được nó và, ở
mức độ này, giữ nó làm
vật sở hữu của mình.
Do đó cách hệ thống hóa nhiệm vụ của
siêu hình học
của ông trở thành một cách hiểu thấu các hiện hữu, theo
nghĩa thông thường của từ, trong hiện
hữu tính của chúng. Đây chính là định nghĩa, là cái ὁρισμός “Horismos”, mà
thông qua nó là
những gì được
biến thành khái niệm. Đó là thành tựu thiên tài của siêu hình học mà đó
thực sự không phải là đi lạc khỏi cái
lối đi thẳng và hẹp mà triết học nguyên tử luận cổ đại được cho là vẫn theo đuổi. Đó là sự chuyển giao tư tưởng siêu hình của Hy
Lạp cho Rome và cho
thời Trung cổ
Kitô giáo, cuối cùng dẫn
đến sự xuất hiện của kỷ
nguyên hiện đại với sự đổi mới đầy tính nhân văn của truyền thống
Hy Lạp. Đây là một câu chuyện dài. Vì ở đây tôi cũng đang hành động với vai trò của một người tận mắt chứng
kiến, nên tôi xin lưu ý rằng, vào năm 1923, Heidegger đã mô tả kỷ nguyên hiện đại là “mối quan tâm tới kiến thức bất khả
nghi ngờ”. Cái
công thức có tính văn
chương vẫn chưa được biết đến này của Heidegger có nghĩa là chân lý (Veritas) đã bị ỉm đi bởi tính
xác tín (Certitude).
Chắc chắn là cái đạo đức của phương pháp này rất nhỏ bé, ngay cả khi khiêm tốn, thì các bước phải được ưu tiên, chỉ với điều kiện là chúng
hoàn toàn có thể kiểm soát và chắc chắn. Người ta thấy triết học phân tích của khu vực Anglo-Saxon ngày nay vẫn trung thành với đạo đức khoa học
này hơn so với Hegel hay bản thân Heidegger. Yêu sách của Heidegger, một yêu sách mà ông
đưa ra với toàn bộ trọng lực suy tư giàu trí tưởng tượng của mình, chỉ đơn giản là đã làm
rõ tính thống nhất định mệnh của lịch sử phương Tây,
một lịch sử bắt đầu bằng siêu hình học Hy Lạp và đã kết thúc trong sự thống trị
tuyệt đối của công nghiệp và công nghệ.
Loại yêu sách này ngụ ý sự cần thiết phải quay lại đằng
sau logic mệnh đề. Rất khó để thực hiện điều này khi triết học vẫn cạnh tranh với tôn giáo cùng nghệ thuật và đặt ra những câu hỏi không thể tránh được,
tuy nhiên, lại không tồn tại những lời đáp khả chứng, ví dụ, câu hỏi: “đã có cái gì ở khởi thủy?” Các nhà vật lý học không thể đặt ra
loại câu hỏi này. Nếu chúng ta hỏi họ có những gì trước Vụ nổ lớn, họ chỉ có thể mỉm cười. Từ quan
điểm khoa học của riêng họ, việc đặt những câu hỏi như vậy trở nên vô nghĩa.
Mặc dù vậy, tất cả chúng ta đều làm điều này. Tất cả chúng ta đều là các nhà triết học, nhất quyết đặt câu hỏi ngay cả khi không có câu trả lời, hoặc thậm chí không có cách nào rõ ràng để có được câu trả lời. Đây là những gì tôi muốn nói khi tôi nói về việc quay lại đằng sau logic mệnh đề. Một sự trở lại đằng sau những gì có thể được hệ thống hóa bằng các đề xuất hợp lệ. Việc quay trở lại như vậy không liên quan gì đến logic, với tính hợp lệ và tính minh nhiên của nó. Tuy vậy, vẫn có một cái gì đó liên quan đến thực tế là thủ tục luận lý tự đắc mang tính độc thoại này lại không có khả năng đặt ra để dừng lại việc suy tư đặt vấn đề đầy tưởng tượng của chúng ta. Bước lùi diễn ra trong những câu hỏi như vậy không chỉ quay lại phía sau việc đề xuất về những gì chúng ta không thể tránh tiếp tục đặt câu hỏi trong cuộc sống hàng ngày; nó thậm chí còn quay trở lại vượt xa những gì chúng ta có thể hỏi và nói bằng ngôn ngữ của chúng ta. Chúng ta liên tục thấy mình bị cuốn vào tình trạng căng thẳng giữa những gì chúng ta đang cố gắng nói và những gì chúng ta không thực sự có quyền nói. Đây là một nhu cầu ngôn ngữ cấu thành liên quan đến loài người và được giả định bởi mọi nhà tư tưởng chân chính, theo nghĩa thông thường, thấy mình không thể từ bỏ tính khắt khe của khái niệm (Begriff).
Ngôn ngữ không được tạo ra cho triết học. Vì
vậy, triết học phải rút
hết sức lực các từ của
thứ
ngôn ngữ mà
chúng ta sử dụng và trao cho những từ như vậy một ý nghĩa khá
đặc biệt. Điều này dẫn đến các công trình nhân tạo, trong một nền văn hóa đại học
ngày càng mở rộng, ngày càng trở thành những biểu tượng ma quái phía sau mà
không thể ngó qua bất kỳ gợi ý nào về một trực giác ngôn ngữ sống. Điều tiếp theo là xu hướng Rơi mà Heidegger đã xác định trong Hữu
thể và Thời gian, một xu hướng liên quan đến sự tồn tại của
con người theo nghĩa
thông thường. Chúng ta sử dụng các hình thức và chuẩn mực, các trường học và thể
chế mà không nghĩ về chúng theo cách ban sơ.
Trong thời đại khoa học hiện đại của chúng ta, một nhiệm vụ mới phát sinh, một loại nhiệm vụ của Chủ nghĩa duy tâm Đức đã quen thuộc nhưng chỉ được giải quyết một phần. Tôi đã học được cách khái niệm hóa nhiệm vụ này từ Heidegger. Nó bao gồm việc bắt đầu ý thức về các khái niệm mà người ta sử dụng để suy nghĩ. Những khái niệm như vậy xuất phát từ đâu? Chúng chứa đựng điều gì? Điều gì là vô tình và vô thức trong các khái niệm như vậy, ví dụ, khi tôi sử dụng từ “chủ thể”? Chủ thể giống hệt như chất. Chủ thể và chất cả hai đều là những xác nhận của cách biểu đạt “ὑποκείμενον” Hypokeimenon chất nền của Aristoteles, có nghĩa là “nền tảng”. Khái niệm Hy Lạp này đã thừa nhận không liên quan gì đến suy tư “Tôi”. Chúng ta dễ dàng và khá tự chứng (ngay cả khi chúng ta đánh giá thấp những gì có tính đe dọa) nói về một chủ đề tiền định. Chúng ta cũng, với tư cách là các “triết gia”, nói (với sự đánh giá quá cao về dũng khí) về chủ đề siêu việt, trong đó tất cả các đối tượng tri thức được cấu thành. Xa xôi làm sao kể từ khi các khái niệm triết học bị tách khỏi cách sử dụng ban đầu của chúng! Đây là thứ nhiệm vụ mà chàng trai trẻ Heidegger kiên quyết tự đặt để khi anh ta bắt đầu giải cấu trúc truyền thống khái niệm siêu hình học. Trong giới hạn của những gì khả thể, chúng ta đã học được ở ông cách quay trở lại dọc theo con đường từ khái niệm đến từ, tuy nhiên không phải với quan điểm từ bỏ tư duy khái niệm, mà để khôi phục lại tiềm năng trực giác của nó. Để làm điều này, chúng ta không làm gì nhiều hơn người Hy Lạp đã làm trước chúng ta từ lâu, và đặc biệt, chúng ta đang theo Aristotle, người trong cuốn sách ký hiệu Delta Siêu hình học của ông, đã bắt đầu phân tích các khái niệm cơ bản và tìm cách tạo dựng nhiều ý nghĩa của chúng từ việc sử dụng ngôn ngữ thông thường. Nói cách khác, đó là một câu hỏi về việc tái khai mở con đường từ khái niệm đến từ, sao cho hành động suy tư lại một lần nữa cất tiếng. Với gánh nặng của một truyền thống trí tuệ hai nghìn năm, đây đâu phải là một nhiệm vụ tầm thường. Rất khó mà vạch được ranh giới giữa một khái niệm đã được phát triển với một mức độ chính xác nào đó và một từ ngữ sống trong lời nói. Tất cả chúng ta đều được dẫn dắt bởi một hệ thuật ngữ khái niệm bắt nguồn từ truyền thống siêu hình học và sống bằng cách không phải cân nhắc trong suy nghĩ. Heidegger đã phải sử dụng một cơ sở ngôn ngữ phi thường để làm cho ngôn ngữ triết học lại cất lên tiếng nói. Một cam kết như vậy mang lại cho cuộc đời nhưng điều vô cùng lớn lao. Thật vậy, vô số thứ vẫn đang chờ đợi để được thực hiện dọc theo những tuyến tư tưởng này, trên hết, việc đánh giá về thần bí luận Kitô giáo của một Meister Eckhart, kinh thánh của Luther và sức mạnh biểu cảm của những phương thức giải nói đó vẫn còn gọn lỏn bất khả tiếp cận trong một diễn ngôn khai thác ngôn ngữ hình tượng.
Điều mới về Heidegger là ông không chỉ được coi là bậc
thầy về ngôn ngữ
mở rộng, như
người thợ giày Jacob Bohme
[3] đã từng, mà ông còn khiến
cho toàn bộ truyền thống trường phái
Latin thuộc về ngôn ngữ khái niệm của chúng ta và hơn nữa, đã phá vỡ truyền thống này bằng cách quay trở
lại nguồn gốc Hy Lạp của nó. Bằng cách này, ông đã thành công trong việc tái khám phá các
từ trực quan ẩn
giấu trong loại khái niệm này. Đây là đóng góp đặc biệt của ông ngay từ đầu. Bằng cách này, chúng tôi không có ý phủ nhận
rằng sự phát triển của một khái niệm làm cho nó trở nên cần thiết, liên
quan đến việc định nghĩa rõ ràng, để từ chối một số ý nghĩa đã tích lũy được trong quá trình lịch sử của nó. Ngay cả Aristotle cũng đã làm điều này. Tương tự, đó là một Aristotle mới, một
Aristotle với giọng nói mới, trong con người của Heidegger, và từ thời điểm các
tác phẩm của ông viết về Phép tu từ và về Đạo
đức học, đã rọi một luồng ánh sáng mới vào siêu hình học bằng cách quay trở lại vượt khỏi ngôn ngữ khái niệm tân kinh viện và Thomistic và các diễn giải Aristotle. Và cuối cùng, có thể hiểu rằng, khi
người ta gợi lên một tiềm năng ngôn ngữ mà ý nghĩa của nó không thể được viết
lên bảng, thì người đó không hề
đắm chìm
trong thi ca hay giấc mộng
ban ngày.
Tiềm năng vốn có trong ngôn ngữ nên được sử dụng làm căn nguyên cho suy tư. Điều đó có nghĩa là một khái niệm cuối cùng sẽ nắm bắt được ý nghĩa được khải lộ trong một từ
thông qua phân tích. Việc phân tích một khái niệm sẽ phân biệt một tập hợp nghĩa của tất cả
các ý nghĩa vận hành trong lời nói nhưng đồng thời lại bị hạn chế vào một quyết định
cụ thể trong bất kỳ bối cảnh phân tán nào, do đó, cuối cùng, một ý nghĩa sẽ dẫn
đầu trong khi những ý
nghĩa khác, trong trường hợp tốt nhất, cũng
chỉ đơn giản được ngụ ý cùng với nó theo cách phụ trợ. Đây là lối tư duy sử dụng từ ngữ.
Nó hơi khác trong thi
ca nhưng không quá
khác biệt. Ở đây còn là vấn đề xác lập ý nghĩa quy định của một từ rộng đến mức sự thống nhất nghĩa xuất hiện
cả trong cách diễn tả của thi ca. Thật vậy, chính xác là thông qua sự mơ hồ và tính đa nghĩa của từ mà ngôn
ngữ có được chiều sâu.
Điều này cũng có thể xảy ra trong triết học. Tính đơn nghĩa được thiết lập theo cách thông
thường của một cách
biểu đạt, mà bản thân nó có một số ý nghĩa, có thể để cho các ý nghĩa khác ẩn giấu
trong một từ được khớp
nối cùng với nghĩa gốc, và điều này cho
đến nay có thể đạt
được cái mà việc suy
tư có thể bị loại bỏ khỏi những
cách theo dõi theo thói quen. Heidegger thường làm điều này một cách có chủ ý. Ông thậm chí
còn gọi đây là “bước nhảy vọt” (Sprung): cần
phải nói rằng suy tư phải, bị buộc phải nhảy vọt, nhiều đến mức các ý nghĩa phụ của
các từ hoặc câu được nhấn mạnh cho đến khi chúng rơi vào mâu thuẫn rõ ràng với
từ hoặc câu đó. Điều này có thể có tầm quan trọng hàng đầu trong một cuộc thảo
luận triết học, ví dụ, khi một ý nghĩa theo thói quen có được một ý nghĩa hoàn
toàn mới thông qua tính đa nghĩa của từ mà nó được liên kết. Do đó, khi Heidegger đặt ra câu hỏi: Was heißt Denken? “Suy tư nghĩa là gì?” ông đã không đặt nó theo nghĩa thông thường của heißt trong đó nó có
nghĩa là “ý nghĩa” mà với một vòng xoắn bất ngờ mang đến
ý nghĩa phụ thuộc của heißt [4] là “trương ra”. Không nên bắt chước trình
thức này mặc dù, với Heidegger, nó luôn có giá trị theo hướng mới. Một ví dụ
khác: trong bài viết về công nghệ của Heidegger, có một giải thích về quan hệ nhân quả và nguồn gốc. Trong đó Heidegger nói: đúng là có một nguyên do (Veranlassung). Liên quan đến bài thuyết
trình của mình, người ta đột nhiên nhận ra Veranlassung có ý nghĩa gì. Người ta phát
hiện ra rằng một Lassen (để lại, bỏ lại, lưu lại; ngừng, chấm
dứt, đình chỉ; từ chối, bác bỏ; tạo khả năng, cho phép, sai khiến, bắt buộc -
HHN) ẩn kín trong đó. Việc đưa ra một cái gì đó (Anhebenlasseri)
luôn bao gồm hàm ý là người ta cho phép nó là
(lößt). Đây là cách mà Heidegger sẽ chất nặng lên một từ tiếng Đức
thông thường để nó phải
bắt đầu nói một
điều gì đó khác biệt. Trong trường hợp này, nó nói: một cái gì đó được cho
phép hiện hữu, và theo cách mà nó nổi bật lên.
Để chắc chắn, khi đó là vấn đề của văn bản, thì sự chuyển động với ngôn ngữ theo cách này ngụ ý, theo một nghĩa nào đó, phản lại nguyên tắc văn bản. Văn bản có ý định thống nhất của nó ngay cả khi ý định thống nhất đó không nhất thiết là một ý định có ý thức về phía tác giả của nó. Trong mọi trường hợp người tiếp nhận, người giải mã, được hướng về ý nghĩa của văn bản là gì. Rõ ràng là đôi khi Heidegger đứng trước ý định tiềm ẩn của một tuyên bố về đề mục của nó. Từ này đột nhiên vượt qua phạm vi ứng dụng bình thường của nó và do đó bắt đầu hiển thị những gì không được nghĩ đến theo nguyên gốc. Heidegger thường huy động từ nguyên theo cách này. Để chắc chắn, nếu viện vào từ nguyên khoa học theo cách này, người ta sẽ trở nên phụ thuộc vào một quy trình xác nhận giá trị khoa học luôn thay đổi. Trong những trường hợp như vậy, từ nguyên bắt đầu mất đi tính thuyết phục của nó. Hơn nữa, trong các trường hợp khác, từ nguyên có thể đưa ra ánh sáng những gì tiềm ẩn trong cảm nhận của chúng ta đối với ngôn ngữ và do đó mà trao cho nó sự xác nhận và tính hợp lý. Trong những trường hợp như vậy, Heidegger đã thành công trong việc truy tìm các từ cho đến tận trải nghiệm ban đầu mà chúng xuất sinh.
Trong mọi trường hợp, rõ ràng không phải là vấn
đề về các khẳng định đối với các từ mà tiềm năng ý nghĩa của nó có thể được
nhận ra và được biểu đạt. Một trình thức như vậy có
các tiền thân của nó, trên hết là
Aristotle. Ví
dụ được biết đến nhiều nhất là từ οὐσία “Ousia” tiếng Hy Lạp có nghĩa là Hữu thể, đã có được ý nghĩa essentia
(bản chất) trong siêu hình học Latin hóa. Đây là từ Latin
được Cicero dịch từ
tiếng Hy Lạp “Ousia”. Nhưng từ này có nghĩa gì trong ngôn ngữ nói Hy Lạp thời đó? Trong tiếng Đức, chúng tôi được trang bị
tốt để tái tạo cấu hình. Ousia có nghĩa là das
Anwesen (trong tiếng
Đức, Anwesen là khu đất, mảnh đất, ấp trại - HHN) lời nói dối về mảnh đất nào đó, như chúng ta vẫn nói, một ngôi nhà hoặc một lãnh địa riêng lẻ. Một nông dân có thể nói về tài sản của mình: “đó là một viễn cảnh hấp dẫn” [Anwesen]. Người Hy Lạp cũng có thể đã nói điều này và ngày hôm nay họ có thể vẫn nói điều
này. Những người biết rõ về Athens sẽ đánh giá cao sự xác nhận sau đây. Sau cuộc
di cư của người Hy Lạp khỏi Trung Đông vào đầu những năm hai mươi,
Athens cũ đã tăng thêm khoảng một triệu người tị nạn và lan ra vùng nông thôn. Nhưng mọi người đều được sống trong các
điền sản nhỏ của mình. Vì vậy, mọi người vẫn có Anwesen riêng, một
không gian riêng. Vì vậy, cái mà Ousia
tạo nên Hữu thể của các hiện hữu vẫn được bảo tồn trong một trực giác chân thực. Cái
Anwesen đó
chính là cái có và do đó tạo nên bản chất (Wesen) của cuộc sống vùng quê. Anh ta ở trong Oikos
lãnh địa của riêng mình, ý thức về sự hiện hữu của chính mình, và chắc chắn là vẫn như
vậy. Chính vì thế mà từ Ousia cho
chúng ta thấy rằng ý nghĩa khái niệm chân chính có thể được làm rõ dưới ánh
sáng của nghĩa gốc của từ này.
Nếu người ta nhận thức được toàn bộ cấu hình khẩu ngữ bao gồm “οὐσία” ousia (hữu thể), “παρουσία” parousia (hiện diện), “ἀπουσία” apousia (vắng mặt), thì
người ta
không thể thấy được
việc sử dụng khái niệm Vorhandenheit
(tính hiện có) là không được thỏa đáng. Tôi không có một đề xuất nào tốt hơn, nhưng bằng cách
biểu đạt Vorhandenheit, người ta cũng bị ảnh hưởng bởi nghĩa rộng của sự tồn tại đơn giản theo nghĩa existentia tồn tại như thuật ngữ đó được sử dụng trong triết học học đường của thế kỷ thứ mười tám (vậy là hiểu khái niệm này theo hướng của phức hợp khái niệm thuộc về khoa học thực nghiệm
hiện đại), hoặc người khác buộc phải dựa vào cách nói chung, trong bất kỳ bản dịch
nào về thuật ngữ này ra tiếng nước ngoài, vậy là khiến cho gần như không thể phân biệt được vorhanden (hiện
có) với zuhanden (có trong tay). Cả hai nghĩa
này đều không
được tìm thấy trong khái niệm Anwesen,
có nghĩa là một cái gì đó hoàn toàn khác với bất kỳ sự tồn tại nào của thứ vật thể dễ bị ảnh hưởng bởi trọng lượng và biện pháp, tuy
nhiên lại không thể bị đồng hóa với bất kỳ cái “Πρόχειρος” procheiron (cẩm nang, hướng dẫn) nào được hướng dẫn bởi hành vi. Trong mọi trường hợp, khi Heidegger quyết định cách biểu đạt Vorhandenheit, ông đã bỏ qua sự khác biệt giữa
sự hiểu biết về
hiện hữu thuộc về khoa học tự nhiên hiện đại và liên quan đến cái Meta-‘Physik' Đàng sau-Vật lý (Siêu hình học) của Hy Lạp, và điều đó gây khó khăn cho việc
nắm bắt sự hiện diện của cái
linh thánh trong “Hữu
thể”. Đây là những gì xảy ra khi người ta cố gắng để các
từ cất tiếng nói - đôi khi cố gắng vượt qua ý định mang tính khái niệm chân chính. Từ Heidegger, người ta có thể học cả
rủi ro lẫn cơ hội gắn liền với việc sử dụng ngôn ngữ
theo một cách mới.
Đặc biệt cách
dịch từ Aletheia (ἀλήθεια)
chân lý của Heidegger là Unverborgenheit tính không ẩn giấu là
mang tính chỉ dẫn. Việc sử dụng tiếng Hy Lạp thực sự khiến cho việc nói “tính
không che đậy” (Unverhohlenheit) trở nên dễ chấp nhận hơn. Đây cũng là cách Humboldt dịch
nó. Khi Heidegger nghĩ về từ đó là tính không ẩn dấu, thì
ông đã chân thật với tầm nhìn của chính mình, điều này đã
mang những suy tư của ông trở lại với các cội nguồn đã từng mờ mịt hơn, bởi vì
các cội nguồn sớm hơn của bằng
chứng văn chương Hy Lạp. Tính
ẩn giấu đã lên tiếng trong tính không ẩn giấu. Bằng cách này, đã đưa ra ánh sáng một sự liên tưởng mà Heidegger đã muốn công
khai và nội dung
của liên tưởng đó là cái mà giờ đây chúng ta đang
ở vào cái thế cần nắm bắt. Trong tính không ẩn dấu có
thể phát hiện ra một tình trạng treo lại của
cảm giác an toàn (Geborgenheit).
Những gì nổi lên qua lời nói và suy tư và vì vậy mà tự thể hiện thì
chính xác là
những gì bị chôn vùi (geborgen) trong
các từ và có lẽ vẫn bị chôn vùi ngay cả khi một thứ
gì đó được làm lộ rõ, được khai quật (entborgen). Chúng ta phát
hiện ra ở đây ẩn giấu trong các
tham vọng
khái niệm của Heidegger sự
trải nghiệm về Hữu thể như là trò chơi phản diện giữa khải lộ (Entbergung)
và che giấu (Verbergung).
Đối
với ngôn ngữ trong tư duy triết học thì điều gì nảy sinh từ tất cả những thứ này? Có
thể nào chúng ta lại không nhìn thấy ở đây cái bí mật của từ đó, và thậm chí nhiều hơn, về từ-khái niệm, cụ thể là, nó không chỉ đề cập đến một cái gì
khác theo cách của một dấu hiệu mà còn tự đào sâu thêm
vào bản thân hơn bao giờ hết? Nó liên quan đến bản chất của các dấu hiệu
mà họ nên tham khảo từ bên
ngoài bản thân họ. Đó là một thành tích khá tốt để có thể hiểu ngay cả
các dấu hiệu như là dấu hiệu. Chó không thể làm điều đó. Chúng không nhìn vào đó, nơi người ta đang chỉ nhưng
lại búng vào ngón tay dùng
để chỉ. Chúng ta đã là những nhà
tư tưởng ngay cả khi chúng ta chỉ hiểu biết các dấu hiệu. Chúng
ta hiểu được các từ nhiều hơn đến mức nào so với trường hợp này? Điều này không chỉ nói về việc
hiểu các từ riêng lẻ mà còn về cách chúng được nói trong sự thống nhất của một
dòng diễn ngôn du dương có được khả năng thuyết phục từ
cách khớp nối toàn bộ bài nói. Chúng luôn đại
diện cho các kết nối được thiết lập bởi diễn ngôn, và việc thảo luận không chỉ là việc xem lướt qua một phức hợp các từ mang ý nghĩa. Nó đủ để xem xét tính trống rỗng của những cụm từ minh họa mà chúng ta tìm thấy
trong một cuốn sách hay
về ngữ pháp nước ngoài. Chúng được dự định để trống rỗng ý nghĩa, để người ta
sẽ không bị phân tâm bởi nội dung của chúng mà bị cuốn hút vào
chúng với tư cách là các từ. Đây không phải là diễn ngôn đích thực. Một ngôn ngữ được sử dụng để nói chuyện với ai đó và
nói thông qua giọng điệu được nói ra. Và vì vậy, chúng ta tìm thấy những giọng điệu chân thực và cụ thể, những cách nói có sức thuyết phục
và không thuyết phục, đúng hay sai - và phần lớn điều này không bị kéo ra khỏi tính che giấu và được tái thể hiện bằng ngôn ngữ.
Heidegger cũng đã tìm ra một từ nguyên cho từ “λόγος” Logos.
Ông coi nó phải là legende Lese. [Trong
tiếng Đức danh từ legende là: 1. truyền thuyết, truyện truyền khẩu, 2. chú dẫn, chủ giải;
còn danh từ Lese là việc đọc, thu hoạch
nho - HHN] Khi tôi đọc nó lần đầu tiên, tôi đã phản đối, thấy nó là một cách hiểu gượng gạo về nghĩa ẩn của từ này. Tuy nhiên nó đã bắt đầu có ý nghĩa. Vì nếu người ta theo dõi việc khám phá ra lĩnh vực ngữ nghĩa đang được đề cập ở đây và sau đó quay
trở lại khái niệm nổi tiếng Logos, thì người ta sẽ thấy sở cứ này vận
hành quay trở lại với trực giác trí tuệ và ngôn ngữ của chính mình về cái Logos đó. Và vì vậy tôi muốn đưa ra lời thú nhận sau đây: Logos chính
là legende Lege. Legein
“λέγειν” có nghĩa là đọc, đọc cùng nhau
(zusammenlesen) và do đó mà hợp lại với nhau (zusammenlegen), để nó được gom lại và tập hợp lại như một vụ thu hoạch, giống như các chùm nho từ cây nho
vậy. Vì vậy, những gì được kết hợp thành sự thống nhất của việc hái nho (Lese) không chỉ đơn thuần là những từ tạo nên các câu. Đó là chính bản thân từ này, một từ trong đó đa tính được kết hợp thành nhất tính của cái
“εἶδος” Eidos (hình thức, bản chất, kiểu loại, loài - HHN) như Plato [5] đã
nói.
Vấn đề này có ý nghĩa đặc biệt liên quan đến Heraclitus. Đối với Heidegger, Heraclitus là nhà tư tưởng hấp dẫn nhất trong tất cả các nhà tư tưởng sớm của Hy Lạp. Những câu nói của ông bí hiểm chẳng khác nào các câu đố, lời nói của ông như gợi ý. Trong căn nhà gỗ nhỏ của Heidegger trên đồi Todtnauberg [6], chúng tôi thấy khắc trên cánh cửa dòng chữ: “Sấm sét điều khiển mọi thứ” (Τα δε Πάντα οιακίζει Κεραυνός - HHN). Bằng tiếng Hy Lạp tất nhiên. Trong tuyên bố này, như một vấn đề thực tế, tầm nhìn cơ bản của Heidegger phải được tìm ra, cụ thể là, những gì hiện tại được đưa ra trong tính hiện diện của nó khi sét đánh; trong một khoảnh khắc, mọi thứ rõ như ban ngày, nhưng để rồi tất cả lại đột ngột chìm vào đêm đen mịt mùng. Cái khoảng khắc trong đó “hiện tại” đã được Heidegger khải lộ chính là kinh nghiệm của người Hy Lạp về Hữu thể. Tia sét này khiến cho mọi thứ tự thể hiện trong một cú đánh được bảo tồn như hiện tại trong một thời khắc. Người ta có thể hiểu tại sao Heidegger rất thích những câu nói của Heraclitus. Ở đây chúng ta phát hiện ra toàn bộ một tuyên bố cho phép sự kết hợp ăn ý của việc mở ra và đạy lại trở nên hiển minh như là kinh nghiệm cơ bản về Hữu thể. Quả thật, những gì được nói đến ở đây là một kinh nghiệm cơ bản của con người. Vì chúng ta sống bằng việc nhận thức rằng ngay cả sự vắng mặt cũng hiện diện, nooi “νόος” (trong tinh thần). Toàn bộ suy tư giống như một luồng ra và phóng khỏi giới hạn của sự tồn tại ngắn ngủi của chúng ta. Chúng ta, chắc chắn không thể nhận ra – nhưng có lẽ không bao giờ có thể quên - rằng nó chỉ tồn tại trong một thời khắc, cho đến khi tính vô hạn của tinh thần bị giới hạn bởi sự hữu hạn của cái chết. Một lần nữa, Heidegger đưa ra cách biểu đạt cho trải nghiệm của mình bằng một từ khá đơn giản: “Nó cho”. Nó cái cho ấy là gì vậy? Và nó cho cái gì? Tất cả bơi trong một đám mây mờ ảo thế mà mọi người đều hiểu rất rõ ý nghĩa của nó. “Này là nó. Nó là này.” Heidegger đã không làm gì hơn là tìm từ ngữ cho cách biểu đạt giản đơn này.
Để chắc chắn, nhiệm vụ khổng lồ của tư tưởng bao gồm việc cố gắng bảo tồn, tíhc hợp vào các từ, vào lối diễn ngôn dễ
tiếp cận, cú sét đánh này trong đó mọi thứ đột nhiên trở nên bừng tỏ. Một ngày nọ, tôi ở cùng
Heidegger trong căn
nhà gỗ kia. Ông đọc cho tôi một tác phẩm của Nietzsche, lúc đó ông đang viết về nó.
Sau vài phút, ông tự ngắt lời, đập tay xuống bàn, mạnh đến nỗi những chiếc tách trà nảy lên và kêu trong
tuyệt vọng: “Toàn bộ thứ này là Tàu.” Đây chắc chắn không phải là cái cách của một người muốn
trở nên tăm tối và khó khăn. Rõ ràng Heidegger đã phải chịu đựng để cần phải tìm cho ra những từ có
thể vượt ra ngoài ngôn ngữ của siêu hình học. Làm thế nào để tổng thể tính của một tầm nhìn
được gợi ra từ tính
minh nhiên rực rỡ trong đó cú sét rạch toác màn đêm? Làm thế
nào để một chuỗi
tư tưởng có thể được gắn kết trong đó các từ mang lại
một phương thức diễn ngôn mới?
Chúng ta nghĩ gì, chẳng hạn về “sự khác biệt hữu thể”? Phần lớn vẫn bị hiểu lầm như thể ai đó-chúng ta-đã tạo ra sự khác biệt này. Điều này hơi vượt ra ngoài câu hỏi. Sự khác biệt hữu thể học là kết quả xuất hiện từ chính bản thân Hữu thể và khiến chúng ta có thể suy nghĩ. Đây chính là cái sau này sẽ trở nên có vấn đề và những gì chắc chắn được nêu trong quan điểm của ông về Kehre, “Bước ngoặt”. Nhưng nếu tôi có thể được phép một lần nữa viện đến quỹ kiến thức của mình như một nhân chứng đương thời, tôi muốn báo cáo rằng vào năm 1924, khi Gerhard Krtiger và tôi đi cùng Heidegger trở về ngôi nhà Marburg đầu tiên của ông sau hội nghị và hỏi ông về sự khác biệt hữu thể học, ông ấy đã quyết liệt từ chối ý tưởng cho rằng có thể chính là chúng ta tạo ra sự khác biệt này. Do đó người ta thấy rằng Kehre xuất hiện trước cái “Kehre” bước ngoặt đó. Hơn nữa, năm 1924 không phải là thời điểm xuất hiện đầu tiên của nó. Khi tôi còn là một sinh viên, vào đầu những năm 1920, ở Marburg chúng tôi đã nghe nói rằng Heidegger trẻ đã nói trong một bài giảng: “Nó những thế giới”. Đây thực sự là cái Kehre trước “Kehre” bước ngoặt đó.
Một câu hỏi cuối cùng: theo quan điểm sau này của Heidegger,
chúng ta nghĩ thế
nào về sự trải nghiệm cái chết, một trải nghiệm mà trong Hữu thể và Thời gian, và trong bối cảnh phân tích về trạng thái xao xuyến của ông được phát triển một cách linh hoạt? Cái nhị tính đạy và mở có thể được suy
tư ra sao? Có phải là “lĩnh vực” (Gebirg) mà cái chết được chôn vùi? Đó chẳng phải là cách nói
về cái chết được tái sinh trong mỗi nền văn hóa của con người? Ngay cả nơi mà một cái gì đó như
một tôn giáo kiếp sau được xếp đặt? Chắc chắn
sự mô tả được đưa ra trong Hữu thể và Thời gian là một mô tả được rút ra
từ các nguồn gốc Kitô giáo. Cách suy tư phương Tây của chúng ta
chắc chắn không phải là cách suy
tư duy nhất về trải nghiệm cái chết. Các tôn giáo về kiếp sau, ví dụ Hồi giáo,
dường như nghĩ khác. Có phải sau
này Heidegger nghĩ cách vượt khỏi kinh nghiệm Kitô giáo của chính mình? Có lẽ. Trong mọi trường hợp, chắc
chắn ông đã suy tư về con đường trở lại cội nguồn Hy Lạp của nó. Nếu người ta
không đồng ý với ý nghĩa của cội
nguồn Hy Lạp này đối với Heidegger, thì hầu như không thể hiểu được
Heidegger quá cố. Điều này không phải vì bản thân Heidegger mà vì ý nghĩa của
triết học và những gì văn hóa của chúng ta đã thể hiện trên con đường đến với tri thức. Chúng
ta vẫn được xác định bởi truyền thống này và phải cho phép bản thân được nó trao quyền cho
những khả tính tư duy mới.
Và trong khi chờ đợi, thì cần phải nói ra điều này: cái có tính sống còn đối với triết học Hy Lạp là nó đã đi theo cách của nó, cái cách của từ được nói ra và phản ứng mà không phản ánh về việc nói là gì hoặc người nói là ai. Người Hy Lạp không có từ nào cho chủ thể này. Logos là những gì được nói, những gì được đặt tên, những gì được kết hợp và đặt để. Đây không được xem là một hoạt động về phần người nói mà là một hoạt động về phần của cái mà từ đó mọi thứ kết hợp lại với nhau. Một cách ngôn điển hình của Socrates được viết như sau: “nó không phải là Logos của tôi'. Điều này đúng cho Heraclitus cũng như cho Socrates. Logos là chung. Do đó Aristotle đã bác bỏ bất kỳ lý thuyết nào quy cho các từ có mối quan hệ tự nhiên với sự vật. Các dấu hiệu từ là “κατα συνήθεια” kata syntheken có nghĩa là chúng là các quy ước. Nhưng điều này không có nghĩa là các nhất tính được kết hợp một cách võ đoán bất cứ lúc nào. Chúng là các nhất tính đi trước bất kỳ phân biệt nào trong những từ này hoặc những từ kia. Đây là cái cội nguồn chưa bao giờ bắt đầu nhưng đã luôn hiệu quả. Nó căn cứ vào tính lân cận không thể chia cắt của nghĩ và nói và vì vậy vẫn tồn tại câu hỏi liên quan đến Khởi thủy và Cáo chung của Triết học.
____________________________________________
Nguồn: Gadamer,
Hans-Georg (1992). The beginning and the end of philosophy.
In Martin Heidegger - Critical Assessments, Edited by Christopher Macann, Volume
I: Philosophy, published by
Routledge. (Bản dịch tiếng Anh của Christopher Macann).
Tác
giả: Hans-Georg Gadamer (1900 - 2002) sinh ở Marburg, Đức, là con trai của
giáo sư hóa dược Johannes Gadamer (1867-1928), hiệu trưởng Đại học Marburg. Cha
ông muốn ông theo học khoa học tự nhiên, nhưng ông đã chống lại mong muốn của
cha, và chỉ chú tâm vào các khoa học nhân văn, chủ yếu vì cái chết của mẹ, Emma Karoline Johanna Geiese
(1869–1904), khi Hans-Georg Gadamer mới 4
tuổi. Ông học triết với Richard Hönigswald tại Breslau, nhưng ngay sau
đó quay về Marburg nghiên cứu Kant Mới với các giáo sư Paul Natorp và Nicolai
Hartmann. Sau đó Gadamer tới Đại học Freiburg, nghiên cứu triết học với Martin
Heidegger và trở thành học trò thân cận của Heidegger. Khi Heidegger nhận ghế
giáo sư tại Marburg, Gadamer đã theo ông đến đó và gia nhập một nhóm sinh viên
cùng với những người như Leo Strauss, Karl Löwith và Hannah Arendt. Dưới ảnh
hưởng trực tiếp của Heidegger, ông đã hoàn toàn rời bỏ các ảnh hưởng Kant Mới
của Natorp và Hartmann. Ông nhận ghế giảng
viên tại Đại học Marburg năm 1929, và khác với thầy mình, ông đã chống lại Chủ
nghĩa Quốc xã. Năm 1937, ông trở thành giáo sư lâm thời của Đại học Marburg,
sau đó ông nhận ghế giáo sư tại Đại học Leipzig. Năm 1946, người Mỹ biết ông
không cộng tác với Quốc xã nên đã đề nghị để ông là hiệu trưởng Đại học
Leipzig. Gadamer cũng không mặn mà với Đông Đức Cộng sản nên đã chuyển sang Tây
Đức và nhận ghế giáo sư tại Frankfurt am Main, rồi kế vị Karl Jaspers tại Đại
học Heidelberg năm 1949, và sau khi về hưu ông vẫn là giáo sư danh dự ở đó cho
đến khi mất ở tuổi 102 vào năm 2002.
Ghi
chú của người dịch Việt bản:
[1]
Logic vị từ (predicative logic,
謂詞邏輯
vị từ la tập), là
gán các đặc điểm cho một chủ đề để tạo ra một tuyên bố có ý nghĩa kết hợp
các yếu tố bằng lời nói và danh nghĩa. Do đó, một đặc điểm chẳng hạn như warm “nóng” (được ký hiệu
thông thường bằng chữ in hoa W) có thể được khẳng định cho một chủ đề duy
nhất, ví dụ, một món ăn (dish)
được biểu tượng bằng một chữ cái d, thường được gọi là “đối số”. Tuyên bố kết
quả là “Món ăn này nóng”; tức là, Wd. Sử dụng ∼ để tượng trưng cho “không”, thì tuyên bố phủ
nhận ∼Wd cũng có thể được khẳng
định. Nếu lời tuyên bố
“nóng” được khẳng định là không xác định, thì một khoảng trống — có thể được để lại ở
vị trí vị từ, W—, hoặc có thể sử dụng biến x, do đó
tạo ra hàm mệnh đề mà x là “nóng” thay vì một mệnh đề xác định. Bằng cách định lượng hàm theo (∀x), nghĩa là “Cho mọi x…,” hoặc bởi (∃x), có nghĩa là “Có một x sao cho…,” nó lại được chuyển thành
một mệnh đề, kể cả chung hoặc riêng thay vì duy
nhất, khẳng định tính
chất “nóng” (hoặc phủ định nó) của một số hoặc nhiều chủ đề trong cùng một loại. Logic vị từ giống hệt
nhau nếu nó đặc trưng cho mọi chỉ
vật (x); nó khác nhau nếu không đặc trưng cho một số hoặc tất cả các chỉ vật.
[2]
Heraclitus Ephesus (khoảng 535 - 475 B.C.) là một triết gia Hy Lạp tiền
Socrates người vùng Ephesus, trên bờ biển Ionia của Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay. Thỉnh thoảngông được nói là có liên quan đến
trường phái triết học Ephesian, mặc dù ông thực sự là thành viên
nổi bật duy nhất của trường phái
đó. Ông có lẽ là nhà triết học phương Tây đầu tiên vượt ra ngoài lý thuyết
vật lý để tìm kiếm nền tảng siêu hình và ứng dụng đạo đức, và một số người coi
ông, cùng với Parmenides, là
các nhà triết học tiền Socrates có ý nghĩa quan trọng nhất. Ý tưởng của ông về một vũ trụ thường hằng biến đổi nhưng với
một trật tự hoặc lý do cơ bản,
mà ông gọi là Logos, tạo thành nền tảng thiết yếu của thế giới quan châu Âu. Nhiều nhà triết
học sau đó, từ Plato đến Aristotle, từ những người khắc kỷ đến các cha sứ, từ Georg Hegel
đến Alfred North Whitehead, đều
tuyên bố đã chịu ảnh hưởng bởi những ý tưởng của Heraclitus. Theo “Những cuộc đời và
Quan điểm của các Triết gia danh tiếng” của Diogenes Laërtius (sử
gia thế kỷ III về các nhà triết học Hy Lạp cổ đại), Heraclitus được sinh ra
trong một gia đình quý tộc ở Ephesus. Heraclitus đã nhường vương quyền cho anh trai mình,
và không quan tâm đến chính trị hay quyền lực. Khi còn trẻ, ông là một trí tuệ
phi thường, và tuyên bố đã tự dạy mình về mọi thứ bằng một quá
trình tự đặt câu hỏi.
Đôi khi ông cũng được gọi là Heraclitus
Bóng tối vì các
văn bản của ông tăm tối, chủ ý gây khó đọc, ông còn được gọi là “Triết gia Than khóc”, và người ta suy
đoán rằng ông bị u sầu hoặc trầm cảm. Diogenes Laërtius viết rằng, sau này, ông lang
thang trên núi, chỉ ăn cỏ và thảo mộc và những năm tháng đó đã làm cho ông bị phù nề và suy giảm thị lực
và sau một ngày tự điều trị theo
cách đặc ứng của riêng mình với thuốc xoa bóp bằng phân bò phơi nắng, ông đã chết và được
an táng tại chợ Ephesus.
[3] Jakob Böhme (1575 - 1624) là một triết gia người Đức, nhà
huyền môn Kitô giáo, và nhà thần học Tin lành Lutheran, sinh ra
tại Alt
Seidenberg (nay là Stary Zawidów, Ba Lan), một ngôi làng gần Görlitz ở Upper
Lusatia, một lãnh thổ của Vương quốc Bohemia. Khi 14 tuổi, ông được gửi đến Seidenberg học việc để trở thành thợ đóng giày. Ông được nhiều người
cùng thời trong truyền thống Lutheran coi là một nhà tư tưởng nguyên gốc, và cuốn sách đầu tiên của ông, thường được gọi là
Aurora, đã gây ra một vụ bê bối lớn. Böhme có ảnh hưởng sâu sắc đến các phong
trào triết học sau này như chủ nghĩa duy tâm Đức và chủ nghĩa lãng mạn Đức.
Hegel mô tả Böhme là “nhà triết học Đức đầu tiên”.
[4]
heißt trong tiếng Đức là thì hiện tại cách hai số ít, thì hiện tại
cách ba số ít, thì hiện tại cách hai số nhiều, và mệnh lệnh thức số nhiều của động
từ nguyên thể heißen, heißen có các nghĩa như: 1) gán tên xấu, đặt tên, lấy
tên, mệnh danh; 2) sai khiến, sai bảo, ra lệnh; 3) tên là, gọi là, xưng là; 4)
nghĩa là, có nghĩa là. Đặc biệt, heißt còn có nghĩa phụ thuộc được viết dưới dạng hissen có nghĩa là: kéo, giương, treo,
trương ra.
[5] Lý thuyết về hình thức hoặc lý thuyết về các ý tưởng là một lý thuyết triết học, mà khái niệm hay thế giới quan - được coi là của Plato - cho rằng thế giới vật chất không phải là hiện thực hoặc chân thực như những ý tưởng tuyệt đối, không thể thay đổi, vượt thời gian. Theo lý thuyết này, các ý tưởng theo nghĩa này, thường được viết hoa và dịch là “Ý tưởng” hoặc “Hình thức”, là các tinh chất phi vật chất của mọi sự vật, trong đó các vật thể và vật chất trong thế giới vật chất chỉ là các mô phỏng. Plato chỉ nói về các thực thể này thông qua các nhân vật đối thoại của mình, chủ yếu là Socrates đôi khi cho rằng các Hình thức này là đối tượng khảo sát duy nhất có thể cung cấp kiến thức. Bản thân Lý thuyết này được tranh luận từ các cuộc đối thoại của Plato, và đó là một điểm tranh cãi chung trong triết học.
[5] Lý thuyết về hình thức hoặc lý thuyết về các ý tưởng là một lý thuyết triết học, mà khái niệm hay thế giới quan - được coi là của Plato - cho rằng thế giới vật chất không phải là hiện thực hoặc chân thực như những ý tưởng tuyệt đối, không thể thay đổi, vượt thời gian. Theo lý thuyết này, các ý tưởng theo nghĩa này, thường được viết hoa và dịch là “Ý tưởng” hoặc “Hình thức”, là các tinh chất phi vật chất của mọi sự vật, trong đó các vật thể và vật chất trong thế giới vật chất chỉ là các mô phỏng. Plato chỉ nói về các thực thể này thông qua các nhân vật đối thoại của mình, chủ yếu là Socrates đôi khi cho rằng các Hình thức này là đối tượng khảo sát duy nhất có thể cung cấp kiến thức. Bản thân Lý thuyết này được tranh luận từ các cuộc đối thoại của Plato, và đó là một điểm tranh cãi chung trong triết học.
[6] Todtnauberg là một ngôi làng Đức ở Schwarzwald Rừng Đen
thuộc đô thị Todtnau, bang Baden-Wurmern. Nó được đặt tên theo từ đồng âm
khác nghĩa, “berg” trong
tiếng Đức có nghĩa là đồi hoặc núi. Nó nổi tiếng vì đây là nơi mà
triết gia người Đức Martin Heidegger đã có một căn nhà gỗ và viết các phần của kiệt
tác Hữu
thể và Thời gian của ông. Ngôi làng là một thị trấn tự trị cho đến khi nó được sát nhập vào Todtnau vào ngày 1 tháng 4 năm 1974.