Vén bức màn bí ẩn của đĩa Bích: Mô hình Dọi xe sợi (I)
Jean M. Green
Người
dịch: Hà Hữu Nga
Các
báo cáo khảo cổ học của nước Cộng hòa
Nhân dân Trung Hoa, đặc biệt kể từ cuối Cách
mạng Văn hóa vào
đầu những năm
1970, tiết lộ loại đĩa ngọc Bích với hình thức cổ điển của chúng trong các ngôi mộ hậu kỳ đá mới và cung cấp cơ sở cho một khảo sát mới về nguồn gốc của đĩa
Bích. (1) Đĩa
Bích là một loại đĩa ngọc (2) có chức năng nghi lễ hoặc trang trí có dáng phẳng và một lỗ nhỏ ở giữa (PIs. I, II). Kích cỡ khẩu độ của loại đĩa này cho thấy rằng hình thức ban đầu của nó đã có một công dụng (có nghĩa là, hình dạng phù hợp với một phần của một công cụ cổ xưa) vì
các hiện vật ngọc nghi lễ khác của Trung Quốc, rõ ràng là được tái tạo từ các vật dụng, như rìu, cuốc, và bôn,
có lỗ tra cán gỗ. Một hiện vật thông
dụng khác thời đồ đá mới là một loại
đĩa phẳng có một lỗ ở giữa, chính
là chiếc dọi xe sợi có hình đĩa. Chiếc
dọi xe sợi ấy chính là một bánh đà trên trục
của một con
suốt xe sợi được thiết kế để duy trì một xung
lượng xoắn cho sợi chỉ được rút ra từ một búi sợi. Do đó con suốt tay chính là một thiết bị đơn giản gồm một cây gậy và một quả trọng lực, là chiếc con lăn cọc sợi (PI. III).
Giả thuyết được đưa ra ở đây là loại hiện
vật được biết đến
như một chiếc
dọi xe sợi hình đĩa và cái đĩa Bích ấy được liên kết về mặt hình thức, về phương diện lịch sử, và mang
tính ngữ cảnh.
Giả thuyết này không phải là hoàn
toàn mới (Robert Poor, thông tin cá nhân, 1991). Ngay từ năm 1948, 郭寶崑 Quách Bảo Côn cho rằng đĩa
Bích có nguồn gốc
từ chiếc
dọi xe sợi (紡輪 phưởng
luân) hoặc chiếc rìu tròn (1948: 4-5). 周南泉Chu
Nam Tuyền lặp lại ý
kiến của Quách và đề cập đến sự giống nhau của
đĩa Bích với chiếc dọi xe sợi bằng
ngọc (1985: 82). Dọi
xe sợi ngọc được khai quật
trong điều kiện có kiểm soát tại các di chỉ Phúc
Tuyền Sơn thuộc văn hóa Lương Chử (PI IV.) khiến cho 趙慶芳 Triệu Khánh Phương, một cán bộ của Bảo tàng Nam Kinh, cho
rằng “Một đầu mối về nguồn
gốc của các đĩa Bích từ chiếc dọi xe sợi có thể được làm sáng tỏ bằng cách xem
xét kỹ lưỡng hơn về tính tương đồng hình dạng của chúng” (1989: 82). Bài viết
này cố gắng hoàn thành nhiệm vụ đó.
Giả thuyết liên quan đến sự
biến đổi của chiếc dọi xe sợi thành đĩa Bích nói
chung không được các học giả chấp nhận. Quan
niệm do Quách nêu ra đã không được đưa vào các thảo luận của
William Willetts (1958:
94, 1965: 46)
về vấn đề này, trong khi những người khác
hoàn toàn bác bỏ ý tưởng về một nguyên
mẫu công cụ như
vậy đối với đĩa Bích. Ví dụ, James
Watt, quản thủ cao cấp nghệ thuật châu Á của Bảo tàng Nghệ thuật Trung tâm ở New York, khẳng định rằng
ngọc Bích và ngọc Tông “đại diện cho các hiện vật của Trung Quốc được biết đến sớm nhất có
các hình dạng hoàn toàn khác biệt với bất kỳ vật dụng, trang trí hay thực
dụng nào” (1990: 11).
Nguồn gốc của chiếc ống nghi lễ
phức tạp, ngọc Tông, nằm ngoài
phạm vi của bài viết này, nhưng cả ngọc
Bích lẫn ngọc Tông có thể đều
phát triển trong Văn hóa Lương Chử (Fig. 1), và phát triển
mạnh ở vùng hạ lưu sông Trường Giang
(Dương Tử ), đặc biệt là ở bắc
Chiết Giang và nam Giang Tô, từ 3300 - 2200 năm TCN. (3) Bài viết này tập trung
vào văn hóa Lương Chử; mặc dù các di chỉ văn hóa đồ đá
mới khác cũng có đĩa
Bích, (4) nhưng các đĩa này không có tính
nhất quán, sự lặp lại, và tính thống nhất về
hình dạng đặc trưng
cho phiên bản Lương Chử. Mới đây Huang (1992:
78) cho biết, “Trong số hơn
200 ... vòng ngọc Bích được khai quật khảo cổ học, thì chỉ có dưới... 20 đĩa Bích được phát hiện từ các nền
văn hóa đồ đá mới khác”. Đĩa Bích Lương Chử lớn hơn
nhiều so với những đĩa Bích từ các khu
vực khác (Huang 1992: 78), và người thợ thủ công
Lương Chử
luôn gắn liền với loại đĩa Bích rộng mỏng,
một loại hình đã trở thành cổ điển.
Trong những năm gần đây
một số di chỉ Lương
Chử chủ yếu, bao gồm cả
phần còn lại của các nền văn hóa
trước, đã được khai quật trong các điều
kiện có kiểm soát và được xây dựng
hồ sơ tài liệu đầy đủ (Fig. 2). Các địa
điểm chính được thảo luận ở đây là: Thảo
Hài Sơn (Nam Kinh, 博物院 Bác vật viện
1980) ở Ngô Huyện, Giang Tô; Phúc Tuyền Sơn (上海市文物保管委员会选编《上海史料丛编》“Thượng Hải thị Văn vật Bảo quản Ủy
viên hội Tuyển biên “Thượng Hải Sử liệu Tùng biên” 1986; 上海市文物管理委員會工作,1990年
“Thượng Hải thị Văn vật Bảo quản Ủy viên hội, Thượng Hải”); Tự Đôn (Nam Kinh
博物院 Bác vật viện 1981, 1984) ở quận Vũ Tiến, thành
phố Thường Châu, Giang Tô; Dao
Sơn và Phản Sơn ở Chiết Giang,
gần Hàng Châu (浙江省文物考古研究所編 Chiết Giang tỉnh Văn vật Khảo cổ Nghiên cứu Sở biên, 1988; 浙江省文物考古研究所編反山考古隊 Chiết Giang tỉnh Văn vật Khảo cổ
Nghiên cứu Phản Sơn khảo cổ đội 1988). Các hiện vật ngọc từ nghĩa địa Dao Sơn và Phản Sơn là đặc biệt
quan trọng và thể hiện một chuỗi
phát triển từ dọi xe sợi
đến đĩa Bích.
Quan hệ chính thức giữa đĩa Bích và
dọi xe sợi hình đĩa
Hình dạng của đĩa Bích: Vào khoảng hai thiên niên kỷ sau khi kết thúc văn hóa Lương Chử, các tác giả của sách 耳雅 Nhĩ nhã, đã cố gắng phân biệt đĩa Bích khỏi các loại đĩa ngọc bích khác. Theo Nhĩ Nhã, một đĩa Bích có một lỗ khoan kích cỡ bằng một nửa chiều rộng của nó, trong khi một ngọc Hoàn có kích cỡ lỗ khoan tương tự, còn ngọc Viện thì có lỗ khoan gấp hai lần chiều rộng của nó (Anon 1929-1936:. 4).[《爾雅•釋器》載:“肉(器體)倍好(穿孔)謂之璧,好倍肉謂之瑗,肉好若一謂之環。”根據中央孔徑的大小把這種片狀圓形玉器分為玉璧、玉瑗、玉環三 種。“Nhĩ nhã, Thích khí” tái: “nhục (khí thể) bội hảo (xuyên khổng) vị chi bích, hảo bội nhục vị chi viện, nhục hảo nhược nhất vị chi hoàn”. Căn cứ trung ương khổng kính đích đại tiểu bả giá chủng phiến trạng viên hình ngọc khí phân vi ngọc bích, ngọc viện, ngọc hoàn tam chủng] - Sách Nhĩ Nhã chú giải đồ ngọc, viết: “kích thước vành đĩa ngọc lớn hơn lỗ khoan ở giữa thì chính là Bích; lỗ khoan lớn hơn vành đĩa thì đó là ngọc Viện; nếu kích thước vành đĩa bằng kích thước lỗ khoan thì đó là ngọc Hoàn vậy”. Căn cứ vào kích cỡ to nhỏ của thân và lỗ khoan của đồ ngọc mà phân thành ba loại ngọc Bích, ngọc Viện, ngọc Hoàn vậy- HHN].
Mối quan hệ giữa ngọc Bích và dọi xe sợi - Hình dáng của ngọc Bích
Na Chí Lương làm rõ Nhĩ nhã bằng cách xác định chính xác hình dáng khi miêu tả ngọc Bích. Ông viết: “Khi hiện
vật có lỗ khoan nhỏ hoặc khi đường
kính của lỗ khoan
nhỏ hơn so với khoảng cách từ mép của lỗ đến rìa cạnh của hiện vật (肉 nhục), thì
gọi nó là Bích” (那志良,古玉鑑裁 Na Chí
Lương 1980, Cổ ngọc Giám tài: 74-75). Hạ Nãi lưu ý rằng “trong số các hiện vật khai quật các ...
tỷ lệ này không đồng nhất” (1986: 212) và gọi
tính cứng nhắc
của sách Nhĩ nhã là “phỉnh gạt và chẻ sợi tóc
làm tư” (1986: 212). Tuy nhiên Hạ Nãi lại cho rằng “Những hiện vật có thể tạng mảnh mai và các
lỗ khoan có đường kính lớn hơn một nửa
của cả hiện vật đó, đặc biệt có thể gọi là
ngọc Hoàn” (1986: 213). Ở bài viết khác, Hạ
Nãi (1983: 25) xác định ngọc Bích như sau “những hiện vật có đường kính lỗ khoan và chiều
rộng cùng kích thước, hoặc có lỗ khoan
nhỏ hơn so với chiều
rộng của hiện vật…Những hiện vật có thể tạng
nhỏ, tinh tế nhưng lỗ khoan
lớn hơn
chiều rộng, thì tôi gọi là vòng ngọc bích…” (1983:25). Tôi sẽ sử dụng cách xác định của Hạ Nãi như một định nghĩa để làm việc. Ngọc Bích Lương Chử đáp ứng được các tiêu chí
này. [夏鼐:《商代玉器的分類,定名和用途》(《考古》1983
年5期)一文提出:"好"是指當中的孔,'肉'是指周圍的邊。而出土玉璧,與《爾雅》所說不符。認為"'瑗'字在古玉名稱中今後似可放棄不用。
... 瑗"玉"古籍中有明文規定,且戰國中山王墓出土玉環,瑗上,墨書文字寫名,也與《爾雅·釋器》一致。Hạ
Nãi: “Thương đại ngọc khí đích phân loại, định danh hòa dụng đồ” (“Khảo cổ”) 1983
niên 5 kì) nhất văn đề xuất: “hảo” thị chỉ đương trung đích khổng, “nhục” thị
chỉ chu vi đích biên. Nhi xuất thổ ngọc bích, dữ “Nhĩ nhã” sở thuyết bất phù. Nhận
vi “Viện” tự tại cổ ngọc danh xưng trung kim hậu tự khả phóng khí bất dụng.
… “viện ngọc” cổ tịch trung hữu minh văn quy định, thả Chiến quốc Trung San
vương mộ xuất thổ ngọc hoàn, viện thượng, mặc thư văn tự tả danh, dã dữ “Nhĩ
nhã - Thích khí”nhất trí - Dịch ý: Hạ Nãi “Phân loại, xác định tên gọi và cách dùng”
(Khảo cổ, 1983, kỳ 5), Bài viết nêu rõ: “hảo” chính là lỗ khoan ở giữa hiện vật,
“nhục” là chu vi biên của hiện vật. Nhưng ngọc Bích đã được khai quật, mà cách
chú giải của Nhĩ Nhã thì lại không phù hợp. Cho rằng “Viện” là tên gọi ngọc cổ sau
có thể bỏ đi không dung… “Ngọc” Viện trong thư tịch cổ có quy định rõ, hơn nữa
khi khai quật mộ Trung Sơn vương thời Chiến quốc đã phát hiện được ngọc Hoàn,
ngọc Viện ở trên, bút mực đã viết rõ tên, vậy nên cũng nương theo “Nhĩ nhã - Thích
khí” mà đồng ý. HHN].
Việc
tiêu chuẩn hóa hình dạng ngọc
Bích thấy trong các ngôi mộ ở Phản Sơn và Tự Đôn (PI. V, VI) đã chứng tỏ rằng những đĩa có lỗ nhỏ là một
đối tượng có thể nhận dạng.
Những đĩa Bích lớn có một cấu
hình khá nhất quán: một dạng bánh đà lớn. Các quy luật cơ học khẳng định rằng hình
dạng này có thể làm công việc quay sợi
dễ dàng hơn cái gọi là ngọc
Viện đục lỗ lớn có cùng một
đường kính ngoài, độ dày, và chất
liệu. Hình dạng phổ biến của ngọc
Bích Phản Sơn và Tự Đôn cho thấy những đĩa
Bích này chính thức liên quan đến một công cụ làm việc, đó là cái dọi xe sợi hình đĩa.
Các
quả dọi của con suốt xe sợi trong thời đồ đá mới
Trung Quốc có nhiều hình dáng khác nhau,
chẳng hạn như loại hình nón cụt, hình quả cân, hoặc các
dạng hình cầu. Tuy nhiên, Dieter Kuhn
trong tuyển tập
công trình của mình về công nghệ
dệt may Trung Quốc đã viết, các
hình dạng phổ biến
nhất đối với một quả dọi suốt
xe sợi chính là một đĩa phẳng với một lỗ ở giữa
(1988: 152). Trọng lượng của quả
dọi thay đổi trực tiếp liên quan đến
sức nặng của loại sợi được
xe, do đó kích thước đường kính
ngoài của các dọi xe
sợi thường từ khoảng 2,6-11,2 cm (Kuhn 1988: 151). Như thể hiện trong Fig. 3, các quả dọi có kích thước trùng
với kích thước đường kính của
đĩa Bích nhỏ hơn.
Dữ liệu khảo cổ và văn bản
đều ủng hộ tiên đề cho
rằng loại hiện vật mà các nhà khảo cổ Trung Quốc gọi là dọi
xe sợi thực sự đã được sử dụng cho hoạt động quay sợi với thiết kế rất phù hợp của nó
[5]. Các mảnh vải
Trung Quốc được định niên đại từ thời kỳ đồ đá mới đều
có chứa những sợi vải đã được xe. Điều đó có nghĩa là người ta đã sử dụng loại con suốt cầm tay, vì bánh xe quay chưa có ở Trung Quốc cho đến giai đoạn nhà Chu (khoảng
1100-256 năm TCN) (Kuhn 1988: 142).
Giáp cốt văn, trong đó mô tả việc bện hoặc xe hai hoặc ba sợi tơ thành một sợi bằng một con suốt quay tay, đã
cung cấp bằng chứng văn bản cho chức năng quay của nó (Kuhn 1988: 89-90). Những mẩu tơ lụa sớm
nhất (2850-2650 năm TCN) được phát hiện cho đến nay đều có chứa những
sợi tơ được xe và có nguồn gốc từ văn hóa Lương Chử. (6) Một mảnh “có số lượng sợi là
72:64 sợi dọc - sợi ngang/mỗi cm” (Kuhn 1988: 273), thể hiện thực chất tiên tiến của nghề
thủ công này vào thiên niên kỷ thứ ba TCN.
Con
suốt quay tay có thể thực hiện nhanh chóng, hiệu quả việc
tạo ra các sợi làm một khổ vải với kết cấu sợi đan
quyện vào nhau chặt đến nỗi người
ta không thể sổ lỏng ra được. Người xe sợi có thể chủ đích thay đổi chất lượng, độ đàn hồi, hoặc độ bền của các sợi tơ (Kuhn 1988:
70). Kuhn cho rằng “Không có vấn đề là con suốt quay tay nên được coi
là phát minh quan trọng nhất từng được thực hiện trong lĩnh vực công nghệ xe sợi. Nó đã đạt đến một thành tựu
xuất sắc về công nghệ
và văn hóa của thời kỳ đồ đá
mới, một “cuộc cách
mạng” trong dệt
may, một thay đổi hoàn
toàn trong việc sản xuất sợi” (1988: 70).
______________________________________
Nguồn: Jean M. Green 1993. Unraveling
the Enigma of the Bi: The Spindle Whorl as the Model of the Ritual Disk.
Asian Perspectives, Vol. 32, no. I, © 1993 by University of Hawaii Press. All
rights reserved.
Tác giả: Jean M. Green là một nhà nghiên cứu độc lập, 809 W. 52nd Terrace,
Kansas City, Missouri.
Ghi chú
1. Phiên
âm, phương pháp latinh hóa chữ
viết của Cộng hòa Nhân dân
Trung Hoa, được sử dụng ngoại trừ
các đoạn trích dẫn, trong
đó lối viết của các tác giả xưa vẫn được giữ lại. Trong các văn bản và trích dẫn, họ được đặt trước tên riêng cho tất cả các tên người Trung Quốc. Trong Phụ lục A và trong các ghi chú tên Trung
Quốc được viết bằng cách sử dụng tên riêng. Trong các tài liệu tham khảo tên
họ của mỗi tác giả được viết
sau dấu phẩy
và trước tên riêng. Nếu không phải trường hợp tác giả Trung Quốc thì tên riêng
được đặt trước họ
cho tất cả các tài liệu tham khảo.
2. Từ ngọc bích được
sử dụng rộng rãi trong bài viết
này bao gồm khoáng chất khác nhau được tìm thấy gần Thái Hồ, như serpentin,
actinolit, tremolite, mã não, và chrysotile. Nephrite, “một hình thức
cô đặc của tremolite
hoặc, nếu sắt có mặt với một hàm lượng đáng
kể, thuộc actinolit”, thì chỉ được sử dụng một cách không thường xuyên (Yang
Jianfang 1987: 186).
3. Đối với các nền văn hóa đồ đá mới Trung Quốc tôi đã chọn sử dụng các niên đại do An Chí Mẫn (1988: 756), Phó giám đốc Viện Khảo cổ học, Viện Khoa học Xã hội Trung Quốc cung
cấp. Việc thảo luận về các niên đại mà các cơ quan khác sử dụng được đưa
vào Phụ lục A.
4. Các văn hóa đồ đá mới khác
được báo cáo có ngọc Bích là Hồng Sơn, Đại Văn Khẩu, Đại Khê, Long Sơn, Mã
Gia Diêu, Kỳ Giai, (Huang 1992:
80). Một đĩa
Bích màu xanh lá
cây cũng đã được báo cáo ở Văn hóa Miếu
Đệ Câu ở Nội Mông (Nei Menggu Wenwu Kaogu yanjiusuo
1989: 29-30), và tôi thảo luận về báo cáo một đĩa Bích ở Songze.
5. Sẽ là một sai
lầm nếu tự ý phân biệt công cụ hiện
đại với con người thời đồ đá mới. Một số dọi
xe sợi cho thấy có vết mòn trên các rìa cạnh có thể
đã gây ra bởi việc sử dụng theo cách nào đó chứ không chỉ là quay. Một công cụ như vậy cũng có thể được
sử dụng như một cái rìu, cho các công cụ nông nghiệp, công cụ săn bắn, biểu
tượng của quyền lực, đối tượng tôn giáo,
vật trang trí, hoặc công
cụ làm đồ da (Yun 1986: 535-546). Một số hiện vật không
phải hình đĩa, chẳng hạn như hình nón, hình
quả cân, và hình cầu, được các báo cáo xác
định là dọi xe sợi, có thể ban
đầu đã được thực hiện cho một số mục đích khác, chẳng hạn như làm chì lưới, làm con suốt dọc, hoặc con suốt ngang. Một số
suốt dọc hoặc suốt ngang, được làm bằng hòn cuội có vết lõm nhẹ trên
bề mặt để giữ sợi (Kent và Nelson năm 1976, 1977). Quả dọi, trên thực tế,
là các ống
suốt nặng hoặc các suốt sợi và không phải
là hình đĩa. Tóm lại, mặc dù các quả
dọi hình đĩa dẫn trong bài viết này có thể đã được sử dụng cho các mục đích khác, thiết
kế này đặc biệt thích hợp cho một bánh đà và đặc biệt phù hợp với chức năng quay.
6. Mảnh lụa sớm
nhất được tìm thấy ở Trung Quốc sử dụng các
sợi, một số được quay theo hướng S và một số quay theo hướng Z. Các sợi là tơ tằm thuần, Bombyx
mori. Các mảnh lụa đã được phát hiện trong một giỏ tre “tại di chỉ Chhien-shan-yang, [sic quận 1 Wu-hsing trong tỉnh Chekiang”. Lớp chứa hiện
tượng này đã được định niên đại
C14 từ 2850 - 2650 năm TCN. Các di chỉ này có lẽ hầu hết
thuộc về văn hóa Lương Chử” (Kuhn: 1988: 272-273).
Sợi libe, chẳng hạn
như cây gai dầu (Cannabis sativa, tên
Trung Quốc là zhuma, và đậu leo (Pueraria
thunbergiana, tên Trung Quốc ge, hoặc kuzu là
loại thực vật thấy ở Nhật Bản) cũng được xe thành sợi (Kuhn
1988: 23-39, 274).
References
References
An, Zhemin 1988. Archaeological research on Neolithic China.
Current Anthropology 29/ 5: 753 - 759.
Anonymous 1929-1936. Er ya. Vol. 2 of Sihu congkan. Shanghai:
Hanfenlou.
Chang, Kwang-chi 1986. The Archaeology of Ancient China, 4th ed. New
Haven and London: Yale University Press.
Childs-John, Elizabeth 1988. Dragons, masks, axes and blades from four
newly documented jade-producing cultures of ancient China. Orientations
19/4:30-41.
Chou, Nan-chuan 1985. Shilun Taihu diqu xinshiqi shidai yuqi (Some
exploratory remarks on the jade objects of the Neolithic in the Lake Tai area).
Kaogu yu wenwu 5:74-89.
Hemudu Yizhi Kaogu Dui (The Hemudu
Archaeological Team) 1980. Zhejiang
Hemudu yizhi dierqi fajue de zhuyao shouhuo (Important results of the second
season of excavation at the Hemudu site in Zhejiang Province). Wenwu 5:1-16.
Huang, Tsui-Mei 1992. Liangzhu-A
late Neolithic jade-yielding culture in southeastern coastal China. Antiquity 66:75-83.
Keightley, David N. 1978. The religious commitment: Shang theology and
the genesis of Chinese political culture. History of Religions 17:211-225.
Kent, Kate P., and Sarah M. Nelson
1976. Net sinkers or weft weights.
Current Anthropology 17(1):152.
Kent, Kate P., and Sarah M. Nelson
1977. On warp weights: A correction.
Current Anthropology 18(1):112.
Kuhn, Dieter 1988. Textile technology: Spinning and reeling, in
Science and Civilization in China: 5:
pt. 9, sec. 31, ed. Joseph Needham. Cambridge: Cambridge University Press.
Kuo, Pao-Chun 1948. Guyu xinquan
(Notes on some old jade objects). Guoli zhongyang yenjiuyuan lishi yuyan
yanjiusuo jikan 20 / 2: 1- 46.
Na, Chih-Liang 1980. Guyu jiancai xu {Interpretation and Judgment
of Ancient Jade Objects}. Taibei: Cathay Art Museum.
Nanjing Bowuyan (Nanjing Museum) 1980.
Jiangsu Wuxian Caoxieshan yizhi (Remains from Caoxieshan, Wu County, Jiangsu).
Wenwu ziliao congkan 3:1-24.
Nanjing Bowuyan (Nanjing Museum) 1981. Jiangsu Wujin Sidun yizhi de shijue
(Excavations of remains at Sidun, Wujin County, jiangsu). Kaogu 3:193-200.
Nanjing Bowuyan (Nanjing Museum) 1984.
1982 jiangsu Changzhou Wujin Sidun yizhi de fajue (The excavation of the site
of Sidun, Wujin County in Changzhou, jiangsu in 1982). Kaogu 2:109-129.
Nei Menggu Wenwu Kaogu Y Anjiusuo
(Inner Monggolian Institute of Archaeology) 1989. Nei Menggu Chayuqianqi
Miaozigou yizhi kaogujilue (Archaeological notes on the Miaozigou site in
Chayuqianqi, Inner Mongolia). Wenwu 12:28-39.
Organization Committee of The
Exhibition of Archaeological Finds of
the People’s Republic of China 1975. The
Chinese Exhibition. Kansas City, Mo.: Nelson Gallery Foundation.
Rawson, Jessica 1975. Chinese Jade
throughout the Ages. Exhibition Organized by the Arts Council of Great Britain and
the Oriental Ceramic Society.
Shanghaishi Wenwu Baoguan
Weiyuanhui (Shanghai City Cultural Relics Concervation Bureau) 1986. Shanghai Qingpu Fuquanshan Liangzhu wenhua
mudi (Cemeteries of the Liangzhu Cultureat Fuquanshan in Qingpu County,
Shanghai). Wenwu 10:1-26.
Shanghaishi Wenwu Guanli Weiyuanhui
(Shanghai City Cultural Relics Administration Committee) 1990. Qingpu
Fuquanshan yizhi Songze wenhua yicun (Remains of the Songze Culture at
Fuquanshan, Qingpu County). Kaogu Xuebao 3: 307 - 337.
Shilong Guojiang Shuiku Zhi Hui Bu
Wenwu Gongzuodui (The Archaeological Team of The Commanding Headquaters of Shilong
Guojiang Reservoir) 1956. Hubei Jingshan
Tianmen kaogu fajue jianbao (Archaeological report on the excavation at Tianmen, Jingshan County, Hubei). Kaogu
tongxun 3:11-14.
Wang, Xu 1990. Bajiaoxing wen yu
shiqian zhiji (The eight-pointed motif and the prehistoric loom). Zhongguo
wenhua 2:84-94.
Wang, Yucheng 1992. Hanshan yugui
ji yupian bajiaoxing laiyuan kao (The search for the ongm of the eightpointed
motif on the jade plaque and the jade turtles from Hanshan). Kaogu 4:56-6l.
Watt, James 1990. The arts of ancient China. Metropolitan
Museum of Art Bulletin 48/1.
Willetts, William 1958. Chinese Art. Baltimore: Penguin.
Willetts, William 1965. Foundations
of Chinese Art. New York: McGraw-Hill.
Wu, Hung 1985. Bird motifs in eastern Yi art. Orientations
1611 0:30-41. 124
Xia, Nai 1983, 1986. Jade and Silk
of Han China, trans. Chu-tsing Li. Lawrence, Kans.: H.F. Spencer Museum of Art.
The classification, nomenclature, and usage of Shang Dynasty jades, in Studies of Sharlg Archaeology: 207-236,
ed. Kwang-chih Chang. New Haven: Yale University Press.
Xia Nai Ed. 1986. Zhongguo
daibaike quanshu: kaoguxue (Chinese Encyclopedia
of Archaeology). Beijing and Shanghai: Chinese Encyclopedia Publishers Press.
Yang, Boda, Ed. 1986. Zhongguo
meishu quanji gongyi meishu bian yuqi (The Collection of Chinese Arts: Crafts:
Jade). Beijing: Wenwu Publishing House.
Yang, Jianfang 1987. Zhongguo chutu guyu (Jade Carving in Chinese Archaeology). Hong Kong: Chinese
University Press.
Yun, Xiang 1986. Woguo faxian de huangren shiqiji xiangguan
wenti (Peripherally edged stone tools found in China and some related
problems). Kaogu 6:535-546.
Zhang, Ming Hua, and Huiju Wang 1990.
Taihu diqu xinshiqi shidai de taowen (On Neolithic pottery inscriptions from
the Taihu area). Kaogu 10:903-908.
Zhao, Qing Fang 1989. On Bi and Congo Orientations 20/5:78-82.
Zhejiangsheng Wenwu Kaogu Y Anjiusuo
(Zhejiang Provincial Institute of Archaeology) 1988. Yuhang Yaoshan Liangzhu wenhuajitan yizhi
fajuejianbao (Excavation of the altar remains of the Liangzhu Culture at
Yaoshan in Yuhang County). Wenwu 1:32-52.
Zhejiangsheng Wenwu Kaogu Yanjisuo
Fanshan Kaogudui (Zhejiang Provincial Institute of Archaeology) 1988. Zhejiang Yuhang Fanshan Liangzhu mudi fajue
jianbao (Excavation of the Liangzhu tombs at Fanshan, Yuhang County, Zhejiang).
Wenwu 1:1-32.
Zhejiangsheng Wenwu Kaogu Y Anjisuo
(Zhejiang Provincial Institute of Archaeology), Shanghaishi Wenwu Baoguan Weiyuanhui
(The Shanghai City Cultural Relics Conservation Bureau), and Nanjing Bowuyuan
(The Nanjing Museum) 1989. Liangzhu
wenhua yuqi (Liangzhu Culture Jade Objects). Hong Kong: Wenwu Liang Mu Publishers.
Zhongguo Kexueyuan Kaogu Y
Anjiusuo Jishushi (Archaeological Institute of The Chinese Academy of Sciences,
Technical Section) 1972. Mancheng Hanmu
jinlu yuyi de qinli he fuyuan (The cataloguing and reconstruction of the gold-threaded
jade suits of the Han tombs at Mancheng). Kaogu 2:39-47.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét