Nguồn gốc và các cuộc di cư của người Khách Gia (I)
謝廷玉
(Hsieh T’ing Yu - Tạ Đình Ngọc)
Người dịch: Hà Hữu Nga
Thuật ngữ 客家 người Khách Gia, Hakka hay Hẹ đã làm dấy lên nhiều mối
quan tâm về nguồn gốc và lịch
sử của dân tộc này. Riêng
cái tên của họ ngụ ý rằng
họ là “người lạ” hay “khách”, và không phải là cư dân gốc của các vùng mà bây giờ họ cư
chiếm. Rất khó xác định xem có phải chỉ có những người
tự gọi mình là Khách Gia mới được coi
là người Khách Gia, và những người, trong mọi phương diện đều mang đặc trưng Khách Gia, hoặc liệu
người Khách Gia còn phải bao gồm thêm cả các nhóm được phân loại như vậy
dựa vào phong tục tập quán; chẳng hạn một số người ở vùng 北江 Bắc
Giang đã không thừa nhận tên gọi đó vì nó làm giảm phẩm giá của họ,
nhưng cách nói của họ lại liên quan chặt chẽ với người Khách Gia, mặc dù vẫn
có một vài biến thể.
Bên ngoài Quảng Đông, lại càng khó phân ranh giới các khu vực
cư chiếm của họ. Ví dụ, ở Nam
Giang Tây, cách nói thông tục hoặc
còn gọi là 土谈 thổ đàm, mà chúng ta dễ
dàng nhận ra là người Khách Gia, lại trở nên khó
hiểu hơn so
với tiếng phổ thông, hay
còn gọi là tiếng 官话 quan thoại khi chúng ta đi về phía bắc.
Vì các mục đích thực tiễn, có thể nói rằng người Khách Gia là một nhóm riêng biệt gồm những người được phát hiện ở nhiều vùng tại Quảng Đông, Quảng Tây, Phúc Kiến, Giang Tây, Hồ Nam, Tứ Xuyên, Đài Loan, và ở nước ngoài, những người nói những phương ngữ liên quan chặt chẽ, và có các đặc trưng, phong tục rất giống nhau. Nơi tập trung chủ yếu của họ là ở tỉnh Quảng Đông.
Vì các mục đích thực tiễn, có thể nói rằng người Khách Gia là một nhóm riêng biệt gồm những người được phát hiện ở nhiều vùng tại Quảng Đông, Quảng Tây, Phúc Kiến, Giang Tây, Hồ Nam, Tứ Xuyên, Đài Loan, và ở nước ngoài, những người nói những phương ngữ liên quan chặt chẽ, và có các đặc trưng, phong tục rất giống nhau. Nơi tập trung chủ yếu của họ là ở tỉnh Quảng Đông.
2. Quảng Đông nơi tụ cư của người Khách Gia
Trong một số quận huyện mà ở đó họ độc chiếm toàn bộ vùng nông thôn, như trong quận cũ 嘉应州 Gia
Ứng Châu [Còn gọi là 梅州 Mai
Châu, gồm các huyện 梅县 Mai Hiền, 兴宁 Hưng Trữ, 五华
Ngũ Hoa, 平远
Bình Viễn, 蕉岭 Tiêu Lĩnh hoặc 镇平 Trấn Bình]. Trong các bộ phận khác của tỉnh, họ tạo thành một
nửa, một phần ba dân số hoặc ít hơn, xen kẽ với
người 本地 bản địa. [Cư dân cũ của Quảng
Đông, những người tự coi mình là chủ sở hữu hợp pháp của vùng
đất này. Họ tạo thành trên một nửa tổng dân
số], và người Phúc Lão (福佬) [Còn được gọi là Haklos,
Học Lão (学佬), nhóm thứ
ba định cư dọc theo bờ
biển từ biên giới của tỉnh Phúc
Kiến xuống đến 香港 Hongkong. Họ được cho là hậu duệ của những
người di cư từ Phúc Kiến
đến]. Ở một số nơi, họ đã định cư một phần trên các vùng đất cao
hơn, và vì vậy mà được gọi là người Cao nguyên Trung Quốc”, nhưng đây là một
thuật ngữ dùng sai chỉ có thể sử dụng ở
địa phương, vì ở những nơi khác,
họ mở rộng cư trú trên các vùng đồng bằng
cũng như các huyện thuộc
vùng đồi núi. (Ball, Hakka
Made Easy. Giới thiệu.)
3. Bên
ngoài Quảng Đông
Người Khách Gia không chỉ giới hạn ở tỉnh Quảng Đông nơi họ chiếm gần một phần ba dân số. [Các ước tính rất khác nhau. Hơn ba mươi 县 huyện có đại diện trong các mít ting quần chúng Khách Gia tại 广州 Quảng Châu năm 1921; tổng số cử tri Khách Gia ít nhất có thể gấp đôi]. Một số lượng lớn người Khách Gia sống ở Phúc Kiến, đặc biệt là ở Chương Châu 漳州, và cả ở 汀州, Đinh Châu, 福建 Phúc Kiến, quê cũ của người Khách Gia. Họ cư chiếm vùng Nam 江西 Giang Tây và nhiều vùng ở 广西 Quảng Tây. Có những cộng đồng phân bố rải rác ở 四川Tứ Xuyên, 湖南 Hồ Nam, và 台湾 Đài Loan. [Có lẽ khoảng 10.000.000 người Khách Gia ở Quảng Đông, 1.000.000 ở Quảng Tây, 1.000.000 ở Giang Tây, 2.000.000 ở Phúc Kiến, 200.000 ở Hồ Nam, 50.000 ở Tứ Xuyên, và 250.000 ở Đài Loan, tổng cộng là 15.000.000 người Khách Gia ở Trung Quốc].
Số
di dân Khách Gia ở nước ngoài đông thứ hai sau người bản địa Quảng Đông, [vì] họ đã định cư tại
Nhật Bản, Philippines, Siêm, An Nam, bán đảo Malay,
Bắc Borneo thuộc Anh, Batavia, Ceylon, Sabang,
Natal, Transvaal, Tây Ấn, Cuba, California, Mexico,
Nam Mỹ, Hawaii, và
Úc. Vì vậy, có
một dòng Khách
Gia trải khắp trên toàn thế
giới.
4. Danh tiếng Khách Gia
Đặc tính Khách Gia được thể hiện khá rõ trong tên gọi và lịch sử của họ. Họ là một chủng người mạnh mẽ, cứng rắn, đầy nghị lực, không hề sợ hãi, với những thói quen đơn giản nhưng tính khí thì lại rất hay sinh sự và thích kiện tụng. Tự lực cánh sinh và năng động, sự bành trướng nhanh chóng, và tính ham mê tài sản của họ thường đẩy họ vào các cuộc xung đột với các láng giềng của mình.
嘉应州 Gia Ứng Châu, thành trì của người Khách Gia, là vùng đất nổi danh của các học giả. Nó cung cấp một
số lượng lớn các 鄉貢 hương cống và 衙门 nha lại cho các triều đại trước. Năm trong số mười
một đình thí trúng cách 进士 Tiến
sĩ năm 1752 [thời Càn Long 1736-1795] là người Gia Ứng Châu. Xem
Niên giám Gia Ứng Châu 20 / 6.
Thậm chí cả người nghèo nhất cũng muốn cho con cái được học hành.
Ngày
nay 梅县 Mai
Huyện [thuộc Gia Ứng Châu và các vùng lân cận] rải rác
với hơn sáu trăm trường
học và họ khẳng định tỷ lệ biết chữ cao nhất trong tỉnh. Huntington ước tính tỷ lệ biết
chữ của nam giới
ở Mai Huyện cao tới 80%. (Character of Races. p. 167.) Người Khách Gia rất tự hào về những thành tựu văn học của tổ tiên họ; họ có nhiều văn nhân nổi tiếng. Người
Khách Gia là “người của tương lai,” không hề bị ngáng trở hoặc
vướng phải những định kiến hoặc thói ăn không ngồi rồi của những chúa đất cũ,
là những kẻ luôn hãnh diện về sự giàu có và thói ăn trên ngồi chốc cảnh vẻ của họ. (Stauffer, op.
Cit., P. 352.)
Ngôi làng của họ là một biểu hiện tự nhiên của các
đặc trưng cư dân. Nhà của người Khách Gia sạch sẽ và được xây dựng chỉnh tề. Người nước ngoài đến thăm Mai Huyện ngạc nhiên khi thấy sự sạch sẽ và thoáng
đãng tại đây. “Không dễ tìm
thấy một huyện vùng sâu nào mà dân
cư và nhà cửa đều khang trang như ở Mai
Châu.” [Huntington, op. . cit, p, 167]
5. Cuộc sống hàng ngày của người Khách Gia
Những người dân sống trong các thôn làng nằm rải rác hoặc những ngôi nhà được xây dựng ngay ngắn trong các thung lũng, nơi mà người nông dân có thể sống với những cánh đồng bao quanh nhà. Trong làng các trưởng lão của gia tộc đưa ra toàn bộ các quyết định quan trọng.
Ở những nơi mà người Khách Gia sống phân tán tại các thôn làng nhỏ giữa vùng đồi núi và thuê đất của người bản địa, hay tụ tập ở các làng lớn hơn và sau đó tiếp tục tranh đấu với người bản địa để giành quyền sở hữu các ngọn đồi và những cánh đồng mà họ cư chiếm. (Eitel, Ethno. Sketches of Hakkas, p. 265.) Độc lập và tiết kiệm, từng chút một họ dần chuyển ra khỏi những vùng đồi núi và thay thế những người dân vùng biển phía nam và phía đông. Đây là lý do tại sao rất nhiều người bản địa lo sợ và chửi rủa họ.
Về cơ bản người Khách Gia là nông dân, do nghèo khổ nên họ buộc phải vật lộn với những mảnh đất cằn cỗi và trần mình giành giật mưu sinh trên mảnh đất đó. 镇平 Trấn Bình (một trong bốn huyện thuộc Gia Ứng Châu) có không dưới 300.000 gia đình và sản xuất hàng năm của huyện chỉ có thể đáp ứng được có ba tháng ...” (Niên giám Gia Ứng Châu, 32/16). Họ thường cư chiếm vùng đồi và các huyện ít màu mỡ, trong khi dân bản địa vẫn sở hữu những vùng châu thổ và đồng bằng màu mỡ, còn dân Phúc Lão thì sống ở vùng ven biển.
Tầng lớp nông dân thực sự rất nghèo; chỉ một tỷ lệ nhỏ trong số họ sở
hữu vài cánh đồng và họ thường lâm vào cảnh nợ nần. Do đó nhiều nghề
mà dân bản địa không làm thì người Khách Gia làm, chẳng hạn như nghề cắt tóc, thợ rèn
lưu động, nghề thợ thổ. Một số trở thành thương nhân, đặc biệt là những người vùng 兴宁 Hưng Trữ, khu công nghiệp giàu có nhất của người Khách Gia, nơi
đã từng sản xuất đủ quạt giấy để
cung cấp cho một nửa Trung Quốc. Hiện nay Nhật Bản đang
vận hành ngành thương mại này và ngành dệt vải bông đã chiếm
mất vị thế sản xuất quạt. (Stauffer, op. Cit.,
P. 352.)
Có vài ngành công nghiệp sản xuất các hạng mục xa xỉ phẩm trong những huyện
nghèo ở Quảng Đông. Các điều kiện làm việc buộc người dân phải phụ thuộc vào trình
độ học vấn của mình nhiều hơn các lĩnh vực kiếm sống của họ từ thời 宋 Tống [960-1279] (Niên giám Gia Hưng Châu, 8/2.), và di cư đến các quận khác màu mỡ hơn hoặc
tìm kiếm vận may của họ ở nước
ngoài dưới thời nhà Thanh [1644-1911].
Không có nhiều lựa chọn giữa phục
trang và phong tục của người
Khách Gia và của người bản địa. Nếu có những khác biệt nào, thì đó là do địa lý chứ không
phải là những nguyên do chủng người [tức, văn hóa] “Thức ăn của người Khách Gia, tính
trung bình, kém chất lượng
so với người bản địa, nhưng vẫn tốt hơn so với hầu hết các vùng thuộc Bắc Trung Quốc. Cơm gạo là cơ bản, nhưng thường được
“gia giảm” để tăng thêm số lượng bằng việc bổ sung khoai lang. Các
món ăn bổ sung khác thường rất đạm bạc.”
(Stauffer, op. Cit.,
P. 352.) Tuy
nhiên, mô tả này chỉ áp dụng cho
các huyện nhiều núi đồi
và nghèo hơn mà thôi.
Không
nên phân biệt quá khắt khe về giới trong cuộc sống gia đình người
Khách Gia như trong trường
hợp với một
số nhóm người Trung
Quốc khác. Nữ
giới thường mạnh mẽ và nhiều nghị lực, họ chưa bao giờ chấp nhận tập quán bó chân. Ngoài các bổn phận trong gia
đình, họ cũng vẫn đi làm đồng, kiếm cỏ đun nấu, và chăn nuôi lợn. “Không có phụ nữ nào
siêng năng như những người phụ nữ Khách Gia.” (Biên niên Gia Hưng Châu, 8/53.) Hiếm khi người Khách Gia bán con gái làm nô lệ hoặc cung nữ; chế độ đa thê không phổ
biến chủ yếu do hoàn
cảnh nghèo khó của người Khách Gia. Điều đó đã được viết trong “Biên niên Gia Hưng Châu” như sau:
“Đất không màu mỡ
và người dân
nghèo
khó. Có rất nhiều đồi núi nhưng lại rất ít ruộng để canh tác. Vì thế nam giới muốn di cư, còn việc quản lý gia đình thì nữ giới phải gánh vác. Ngay sau khi lệnh cấm nhập
cư ở nước ngoài đã được dỡ bỏ,
người ta đổ xô đến 南洋 Nam Dương [Một thuật ngữ chung để chỉ Đông Nam Á và các
đảo lân cận, nơi có nhiều di dân từ Quảng
Đông và Phúc Kiến
tới định cư]. Họ bắt đầu làm những công việc tầm thường, nhưng dần dần tích lũy được một tài sản nhất định. Một số quay
về quê sau ba hoặc năm năm, trong khi những người khác trì hoãn đến mười hay hai mươi
năm sau mới
về. Một số thậm chí rời bỏ nhà cửa từ
thời trẻ và quay trở về
khi tóc đã bạc. Khi rời nhà, họ bỏ
lại người thân, con nhỏ, ruộng
nương, mồ mả tổ tiên, và nhà cửa
để lại cho vợ chịu trách nhiệm... Đó là lý do tại sao mọi người có thể di cư ra nước ngoài. Những người phụ nữ ở những nơi
khác bó chân và phải phụ thuộc vào người
hầu kẻ hạ giúp đỡ; do đó đàn ông phải
chăm lo rât nhiều việc nhà và không thể nghĩ đến việc di cư đến những nơi xa xôi ....(Biên niên Gia Hưng Châu, 8/34.)
Người
Khách Gia đặt trọng tâm lớn vào
việc thờ cúng tổ
tiên; đây là đặc trưng của người Trung Quốc với tư cách
là một toàn thể. Mồ mả và nhà thờ tổ tiên được trông nom cẩn thận. Trong làng, dù
to hay nhỏ thì mỗi gia tộc đều có nơi thờ tự, được gọi là 祠堂 từ đường. Người Khách Gia là những người
rất tin vào thuật 风水 Phong thủy.
Trong các
ngôi chùa, việc thờ Phật Bà 观音 Quan Âm là phổ biến nhất. Người ta còn xây những ngôi miếu đặc biệt dành riêng thờ Chiến thần
[có lẽ tác giả muốn nói đến Quan Vũ - HHN] và thờ người bảo trợ văn chương. Khổng Tử và các
đệ tử của ông được tôn kính
ở trường học và nhà riêng. Về
đại thể, việc thờ phụng của họ, rất giống với người
bản địa. Tuy nhiên, ở một số huyện, nơi người bản địa chiếm ưu thế, người Khách Gia được coi là
những kẻ xâm nhập và họ không thờ chung các thần linh địa phương cũng như các từ đường của tổ tiên. Các nhà truyền giáo của Đức
đã rất tích cực hoạt động trong các huyện của người Khách Gia.
6. Ngôn ngữ Khách Gia
Nhiều người có thẩm quyền đều nhất trí rằng “các phương ngữ Khách Gia không phải là một sự phát triển đơn thuần của địa phương, cũng không phải là thổ ngữ của một số phương ngữ khác, nhưng lại có sự phát triển độc lập trong vốn ngôn ngữ chung của Trung Quốc, và, do đó có thể nói rằng di tích kết tinh của một trong những giai đoạn khác nhau, thông qua đó ngôn ngữ này phát triển từ ngôn ngữ bản địa, là di tích lâu đời nhất của hình thức ban đầu của ngôn ngữ Trung Quốc, thành tiếng phổ thông, đại diện cho giai đoạn mới nhất trong quá trình phát triển, mà ngôn ngữ Trung Quốc đã trải qua.” (Eitel, Ethno. Phác họa người Khách Gia p.. 265.)
Ngôn
ngữ Khách Gia vẫn “giữ lại một
số âm cuối tạo
thành đặc trưng Quảng Đông, trong khi ở tiếng
phổ thông hiện đại và ở một số ngôn
ngữ Trung Quốc, chúng gần như đã biến mất, những
bào mòn của các thế hệ sử dụng đã tước
đi rất nhiều từ của các dấu tích cổ đại này.” (Ball, sđd..)
Nó không thanh thoát bằng tiếng phổ thông và có âm
thanh rõ ràng hơn người bản địa. Giáo sư E.H. Parker đã nêu rõ đặc trưng đó là “ở một mức độ lớn, có các nguyên
âm của Bắc Kinh, các nguyên âm đôi của Phúc Châu 福州, các âm cuối của Quảng Châu, và các thanh điệu của vùng 汉口 Hán Khẩu.” (Ibid)
Giống
như các phương ngữ khác của Trung Quốc, nó chứa đựng bên trong giới hạn của
nó không phải chỉ một vài biến
thể. Ngay từ cái nhìn đầu tiên,
các biến thể dường như không nhiều như trong một số cách nói của tiếng Trung Quốc; Tuy
nhiên, trong thực tế, sự khác biệt trong ngôn ngữ giao tiếp cản trở đáng kể việc hiểu nhau một cách hoàn toàn giữa những người sử dụng hoặc liên quan đến các phương ngữ này.
7. Sự hiểu lầm Lịch sử Khách Gia
Liên quan đến nguồn gốc và lịch
sử của người Khách Gia, đã có nhiều tranh cãi và hiểu lầm. Cuốn “Bách khoa toàn thư Truyền
giáo” đủ táo
tợn để nói rằng “người Khách Gia là một chủng tộc hoặc bộ lạc
đặc thù, sống ở các vùng núi gần Quảng Châu hoặc hoặc 汕头 Sán Đầu, là những người có một thang bậc xã hội thấp hơn so với người
gốc Trung Quốc. Ngôn ngữ của họ được
viết bằng chữ Trung Quốc.”
(Trích trong Campbell, Origin và Mig.
of Hakkas, p. 474) “Bách
khoa thư Quốc tế” cho biết
thêm rằng trong hai ngàn năm, người Khách
Gia đã là “đối tượng thù
địch dai dẳng và thâm căn cố đế và
bách hại dưới bàn tay của một
phần dân cư bản địa của Trung Quốc”. (International Encyclopedia,
VIII 943.)
Mối ác cảm truyền thống của một phần dân cư Quảng Đông có lẽ là nguyên nhân gây ra ấn tượng phổ biến rằng Khách Gia là một chủng người lai văn minh hơn người bản địa, nhưng khó mà đòi được quyền ngang hàng với người Trung Quốc. Mối quan tâm phổ biến được khuấy động lên bởi những tranh cãi về sự khẳng định được đưa ra trong cuốn “Địa lý học Thế giới” của D. Roger Wolcott, được Commercial Press, Limited, Shanghai xuất bản, cho rằng người Khách Gia là một dân tộc lạc hậu. “Trong các vùng núi có nhiều bộ tộc hoang dã và con người lạc hậu, như người Khách Gia và Ikias ...” (p 132 của ấn bản tháng Tư, năm 1920. Trích dẫn từ Jiāyìng Magazine, 2/103).
Cuộc biểu tình phẫn nộ đã bùng lên từ các tổ chức Khách Gia ở Trung Quốc và ở nước ngoài. Ngày 03 Tháng Tư năm 1921, một cuộc mit ting quần chúng đông đảo của người Khách Gia được tổ chức ở Quảng Châu. Hơn một ngàn đại biểu đại diện cho hơn ba mươi huyện từ năm tỉnh - Phúc Kiến, Quảng Đông, Giang Tây, Hồ Nam, Quảng Tây - đã bầu 饶芙裳 Nhiêu Phù Thường, cựu nghị sỹ của Viện Dân biểu, làm chủ tọa các văn phòng. Người ta đã thông quan Nghị quyết phải có các biện pháp cần thiết để làm cho Nhà Xuất bản Thương mại rút lại tuyên bố này. Biên bản và nghị quyết của cuộc họp này đã được in trong một cuốn sách mỏng gọi là 中华客语攷原总会章程 - Trung Hoa Khách ngữ Khảo nguyên Tổng hội Chương trình - Bản tuyên bố của Tổng hội Khảo xét Nguồn gốc Khách Gia ngữ toàn Trung Quốc.
Mối ác cảm truyền thống của một phần dân cư Quảng Đông có lẽ là nguyên nhân gây ra ấn tượng phổ biến rằng Khách Gia là một chủng người lai văn minh hơn người bản địa, nhưng khó mà đòi được quyền ngang hàng với người Trung Quốc. Mối quan tâm phổ biến được khuấy động lên bởi những tranh cãi về sự khẳng định được đưa ra trong cuốn “Địa lý học Thế giới” của D. Roger Wolcott, được Commercial Press, Limited, Shanghai xuất bản, cho rằng người Khách Gia là một dân tộc lạc hậu. “Trong các vùng núi có nhiều bộ tộc hoang dã và con người lạc hậu, như người Khách Gia và Ikias ...” (p 132 của ấn bản tháng Tư, năm 1920. Trích dẫn từ Jiāyìng Magazine, 2/103).
Cuộc biểu tình phẫn nộ đã bùng lên từ các tổ chức Khách Gia ở Trung Quốc và ở nước ngoài. Ngày 03 Tháng Tư năm 1921, một cuộc mit ting quần chúng đông đảo của người Khách Gia được tổ chức ở Quảng Châu. Hơn một ngàn đại biểu đại diện cho hơn ba mươi huyện từ năm tỉnh - Phúc Kiến, Quảng Đông, Giang Tây, Hồ Nam, Quảng Tây - đã bầu 饶芙裳 Nhiêu Phù Thường, cựu nghị sỹ của Viện Dân biểu, làm chủ tọa các văn phòng. Người ta đã thông quan Nghị quyết phải có các biện pháp cần thiết để làm cho Nhà Xuất bản Thương mại rút lại tuyên bố này. Biên bản và nghị quyết của cuộc họp này đã được in trong một cuốn sách mỏng gọi là 中华客语攷原总会章程 - Trung Hoa Khách ngữ Khảo nguyên Tổng hội Chương trình - Bản tuyên bố của Tổng hội Khảo xét Nguồn gốc Khách Gia ngữ toàn Trung Quốc.
Kết quả là, phiên bản sửa đổi lần thứ tư trong tháng Năm của năm đó đã xuất hiện những thay đổi sau đây: “... người
Khách Gia đã tạo thành một phần của dân số Quảng Đông, tổ tiên của họ đã di cư về phía nam vì
tình trạng rối loạn và vô luật pháp
ở các tỉnh khác trong thời Ngũ Đại. Ngôn ngữ và phong tục của
người Khách Gia trùng hợp
một phần với ngôn ngữ và phong tục của những người thời cổ ở miền bắc Trung Quốc.” [ Wolcott, Địa lý Thế giới, p. 144. Tác
giả đã viết thư đề ngày 18 tháng 3 năm 1928,
cho ông Fong, F. Sec của Commercial Press, English
Editorial Department, yêu cầu thông tin chi tiết liên quan đến vấn
đề này. Câu trả lời sau đây
đã được viết vào ngày
03 Tháng Tư năm 1928: “... Vài năm trước đây
một số người Khách Gia ở Thượng Hải đã kêu gọi chúng tôi phản đối một số đoạn mà ông Wolcott đã
viết liên quan đến dân tộc họ. Chúng tôi đã chuyển vấn đề này đến ông Wolcott, sau đó ông đã sửa đổi các
tài liệu liên quan. Việc sửa đổi đó là thỏa đáng đối với người Khách
Gia và vấn đề này đã được
khép lại...”.
8. Nguồn gốc người Khách Gia: Danh mục Lý thuyết
Tối thiểu có năm lý thuyết cố gắng giải thích nguồn gốc và lịch sử của người Khách Gia: (1) Người Khách Gia là con cháu của những người lính đồn trú Mông Cổ. (Eitel, Ethno. Sketches of Hakkas, p. 265.); (2) Người Khách Gia là thổ dân Phúc Kiến đã bị người Trung Quốc đồng hóa. (Stauffer, op. Cit., P. 351.); (3) Người Khách Gia là hậu duệ của nửa triệu binh sĩ của Tần Thủy Hoàng, mà nhiều người trong số đó đã kết hôn với phụ nữ 夷家 người Di sinh ra họ. (Mesney, Chinese Miscellany, II, 475); (4) Người Khách Gia là hậu duệ của những tàn dư của Vương quốc Việt đã bị nước Sở tiêu diệt năm 333 TCN (Bái 白, Mínguó Dìzhì 民国 地志. 31/4/43.); (5) Người Khách Gia là hậu duệ của người Trung Quốc từ các vùng phía Bắc Trung Quốc tiếp sau các triều đại Tấn, Đường” (Campbell, op. Cit., P. 476.).
_____________________________________________
Nguồn: Hsieh T’ing-yu 1929. Origin and migrations of the Hakkas. The
Chinese Social & Political Science Review (Běijīng), vol 13, pp. 202-227.
Tác giả: Tạ Đình Ngọc, 1905-1990, sinh năm 1905 tại Honolulu,
Hawaii. Cha ông là
người quận Trung Sơn, Quảng Đông. Năm 1924, ông tốt nghiệp từ trường trung học McKinley (McKinley High
School), và vào Đại học Hawaii,
sau đó nghiên cứu tại Đại học Thượng
Hải, tốt nghiệp năm 1928. Sau khi tốt nghiệp, ông dạy sử tại trường trung học Thiên
Tân. Năm 1930 ông trở về Đại học Hawaii để
nghiên cứu, năm 1932 học
thạc sĩ. Từ năm 1930 đến 1936
ông là giảng viên đại
học ở Hawaii,
về Ngôn ngữ và Lịch sử Trung Quốc.
Tài liệu dẫn
Ball,
James Dyer 1884. Hakka Made Easy (London, 1884). Introduction.
Broohall,
Marshall (ed) 1907. The Chinese Empire (London, Morgan & Scott, 1907). Pp.
43-45 on the Hakkas.
Campbell,
George “Origin and Migrations of the Hakkas,” in the Chinese Recorder, XLIII, (Shanghai).
Cooling,
Samuel (ed.) 1915. Article on Hakkas. p, 222, in Encyclopedia Sinica (Shanghai,
Kelly & Walsh, 1915).
Eitel,
E. J. A series of articles on the Hakka Chinese in The China Review (London),
such as Vol. II. pp. 160-164, on the Outline History of the Hakkas; Vol. VIII. pp
316-318 on the Hakka Dialect; pp, 316-321 on Marriage Customs ; and Vol. XX,
pp. 263-267 on Ethnological Sketches of the Hakkas.
Encyclopedia
Britannica 1910. Article on Hakkas, p. 828, in Vol. XII, 11th Edition
(Cambridge, 1910).
Huntington,
Ellsworth 1924. Character of Races (N. Y., Scribner, 1924), pp, 149-171 on
migrations of Chinese to the South.
Lechler,
Rev. Rudolf 1878. “The Hakkas Chinese” in the Chinese Recorder (1878) IX.
352-359.
Little,
Archibald 1905. The Far East (Oxford, 1905), p. 149 on history of the Hakkas.
Liu,
Ch’iang (Liú Qiáng 劉強)
1842. “Isolation and Contact as Factors in the Cultural Evolution of China,
Korea, and Japan prior to 1842,” in the Chinese Soc. and Pol. Science Review
(1927) XI, pp. 492-493, on the intermingling of the early Chinese settlers.
Meadows,
Thomas Taylor 1856. The Chinese and Their Rebellions (London, Smith, 1856). pp.
36-48.
Mesney
1896. The Chinese Miscellany (Shanghai, 1896) II, p. 475.
New
International Encyclopedia (N. Y., 1905), IX, p. 461.
Piton,
Rev. Charles 1870. “The Hia-K’ah in the Chekiang Province and the Hakka in the
Canton Province,” in the Chinese Recorder (1870) II, pp. 218-220.
Piton,
Rev. Charles 1873-4. “The Origin and History of the Hakkas ; in China Review
(London, 1873-1874) II, pp. 222-224.
Richard,
L 1908. Comprehensive Geography of China
(Shanghai, 1908), pp. 199, 204-207, 343-344.
Stauffer,
Milton T. (ed.) 1922. Christian Occupation of China (Shanghai, 1922). See
article on Hakkas by Rev. D. Oehler, pp. 351-353.
Williams,
Samuel Wells 1901. The Middle Kingdom (N. Y.. Scribner’s, 1901), I, p. 138, and
II., p. 586-591, on the Hakkas.
Wolcott,
Roger D 1926. Geography of the world (Shanghai, Commercial Press. 1926, 4th
revised edition) p. 144.
Zamborowski,
M. 1879. Sur cinq cranes d’Hakkas et les origines chinoises. Article in
Bulletin de la Société d’Anthropologie de Paris, Série 3, Tome 2, pp. 557-578
(Librairie de l’Académie de Médicine, 1879).
Foreign (Not located)
Delaway, M. 1879. Lettre on the Hakkas Article in Mission Catholique, 1879. Vol. Xl, pp. 505 -606.
Foreign (Not located)
Delaway, M. 1879. Lettre on the Hakkas Article in Mission Catholique, 1879. Vol. Xl, pp. 505 -606.
de
Rialle, Girard 1885. The Hakkas. Article in Review d'Anthropologie (Jan. and
April, 1885).
Girard,
Dr. Henry 1898. Notes sur les Chinois du Quangsi, Article in L'anthropologie,
1898, Vol. IX, pp. 144-170.
HUBRIG
1879. Die Hakka Chinesen. Article in Verb. Berliner Ges. f. Antli., 1879.
MacIver,
D. 1905. Ann English-Chinese Dictionary in the Vernacular of the Hakka People.
(Am. Presbyterian Mission Press, Shanghai, 1905).
North
China Herald, June 29, 1867 (Shanghai). Article on Hakka reprinted from the
China Mail, Hongkong.
Piton.
Rev. Charles 1892-3. Une visite au pays des Hakkas dans la province de Canton.
See Bul. Soc. Neuchâteloise Geog., VII. pp. 31-51 (1892-1893).
Vaillart,
Mr. Louis 1920. Contribution a l'étude anthropologie des Chinois-Hakka de la
province de Moncey (Tonkin). See L'Anthropologie, XXX. No 1-2, pp. 83-109
(June, 1920).
Vomel,
Johann Heinrich Von 1913. Der Hakka Dialect. See T'oung Pao 通報 (Dec. 1913) pp. 597-696.
Chinese
Bái Yuèhéng 白月恆 - 著民國地誌.(化京高師圖書館總發行民十初版.)
Chinese
Bái Yuèhéng 白月恆 - 著民國地誌.(化京高師圖書館總發行民十初版.)
Céng
Guófān 曾國藩
-
等重修江西通志
Chéng
Mèngjiǎn 程夢簡
- 修鈸平縣志
Dèng
鄧
- 氏族譜
Gù
Yánwǔ 顧炎武
- 著天下郡國利病書
Hé
Kūn 和坤
-
等纂修大清一統志
Huáng
黃
- 氏族譜
Kong
Tíngzhāng 孔廷璋
- 等譯編中華地理全誌.
(上侮中華書局民四第三版.)
Li
Jífǔ 李吉甫
- 選元和郡縣圖志
Li
Xián 李賢
- 等撰·明一統志
Li
Zhòngyuán 李仲元
- 撰修寧化縣志
Lù
Yìngyáng 陸應陽
- 撰·廣輿記
Ma
Duānlín 馬端臨
-著·文獻通考
Ruan
Yuán 阮元
- 等重修廣束通志
Shen
Zuògān 沈作乾
- 著畬民調責記.
(見東方雜誌廿一卷
第七號
十四年十月.)
Sima
Guāng 司馬光
- 著·資治通鑑
Sun
Ěrzhǔn 孫爾準
- 等市纂福建通志
Wáng Cún 王存 - 等纂修元豐九域志
Wáng Cún 王存 - 等纂修元豐九域志
Wáng
Xiàngzhī 王象之
- 褊輿地紀勝
Wáng
Yìnglín 王應麟
- 撰玉梅叢書
Wáng
王 -
錫祺輯小方壺齊輿地叢鈔
Wen
Shēnhé 溫伸和
- 等修嘉應州志
Xie
Qi Kūn 謝啟昆 - 等修廣西通志
Yáng
楊 -
氏續修族譜
Yuè
Shǐ 樂史
- 選太平寰宇記
Zhang
Tàiyán 章太炎
- 著章氏叢書.
(新方言篇有嶺外三州一章.)
Zhang
Tiānpéi 張天培 -
纂修興寧縣志
Zhang
Xījīng 張希京
- 等修典江縣志
Zhōng
dúfó 鍾獨佛
- 著粵省民族攷原.(見嘉應雜誌 第二期 民十年五月.)
Zhōnghuá
Dìxué Huì 中華地學會 -
地學雜誌 (Geographic Magazine)
Zhōnghuá
Kèyǔ 中華客語 -
攷原總會章程.
(客系大同盟
民十年四月在廣州開會.)
Chinese
(Not located)
Huáng Gōngdù 黃公度- 客族考原
Huáng Gōngdù 黃公度- 客族考原
Huáng
Xiāngtiě 黃香鐵-石窟一徵
Méizhōu
Tújīng 梅州圖經
Shàntóu
Dàtóng Bào 汕頭大同報-
(民十一年?)
Shàntóu
Gōngyán Bào 汕頭公言報-
(民十年一月二十九日.)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét