Chính thể Dạ
Lang và Nguồn gốc của cái tên Trung Quốc (II)
Geoff Wade
Người dịch:
Hà Hữu Nga
4. 'Dạ Lang' là 'Trung Quốc'
Vấn đề này khiến ta phải tìm câu trả lời ở đâu? Một mặt, chúng ta có bằng chứng về một chính thể lớn mà người Trung Quốc gọi là Dạ Lang và nó nằm ở phía nam của chính thể Thục (Tứ Xuyên hiện đại). Đó dường như là tuyến đường mà các sản phẩm của xã hội Trung Quốc đã đến được với Ấn Độ trong khoảng thời gian tối thiểu là vài thế kỷ cuối cùng trước Công nguyên. Mặt khác, chúng ta có từ “China" - Trung Quốc, dường như có nguồn gốc trực tiếp với tất cả các hình thức hiện đại của nó từ tiếng Phạn चीन Cīna, hoặc chí ít là từ một nguồn gốc chung với nó. Cách diễn giải nổi bật nhất cho cái tên này vẫn còn là một mối tương quan giữa Cīna và chính thể Tần của Trung Quốc thế kỷ thứ ba trước Công nguyên. Chúng ta hãy tìm tòi sâu hơn về hai vấn đề này.
“Dạ
Lang” [Yèláng] là cách phát âm hiện đại của tiếng phổ
thông Trung Quốc của hai từ 夜郎. Không cần phải
là một nhà ngôn ngữ học lịch sử mới hiểu được rằng cách phát âm của hai từ tiếng Trung Quốc đó đã trở nên khác biệt theo thời
gian và lại còn khác biệt về không
gian nữa. Thông qua các nghiên cứu
dựa trên các cuốn sử thi, dựa trên các vần điệu thơ
ca và các bằng chứng khác, các học giả đã tái dựng khả năng ngữ âm học của hai từ này trong các
giai đoạn trước đó. Các công trình sớm chuyên về lĩnh vực
này là của Bernard Karlgren
(48), bên cạnh đó Edwin Pulleyblank
đã đưa ra nhiều dữ liệu có liên
quan với nhau trong một ấn phẩm rất
hữu ích gần đây (49). Việc phục dựng chữ Hán đầu thời
Trung cổ của ông (có lẽ thế kỷ thứ sáu SCN) cho hai tự vị này là: jiah lang (50)
Trong trường hợp này, các tự vị ấy đã được sử dụng để phiên âm chứ không phải là để ghi nghĩa và rõ ràng đã được người
Trung Quốc sử dụng để thể hiện một cái tên chính thể bản địa. Những
người hiện sống trong
khu vực trước đây được người Trung Quốc gọi là Yelang / Jiah-lang, Dạ
Lang ấy và những người có nguồn gốc lịch sử ở khu vực này hiện thuộc về nhóm ngôn ngữ Lô
Lô / Di. Những năm gần đây đã thấy một số ấn phẩm về lịch sử truyền thống của người
Lô
Lô / Di, và những dữ
liệu đó đã được sử dụng để phục dựng lại tên địa danh, tộc người và tên chính thể
vùng này. Hầu hết các câu
chuyện lịch sử này có phả hệ lâu
đời, nhưng chỉ mới được ghi thành văn bản trong thời gian gần đây. (51)
Các câu
chuyện này thường liên quan đến các
tổ tiên của những người cư trú ở các khu vực 乌蒙 Ô Mông, 梁山 Lương Sơn
và 哀牢 Ai Lao, dọc theo biên giới giữa các tỉnh Tứ Xuyên và Vân Nam hiện nay.
Một trong những văn bản phù hợp nhất cho việc khảo sát hiện nay đã được xuất bản dưới tiêu đề tiếng Trung Quốc là
夜郎史傳 Dạ
Lang sử truyện. (52) Đây là một bộ sưu tập những bài sử thi mô tả về gia phả của thị tộc ʐina (Dạ
Lang), quay ngược về quá khứ có lẽ đến năm 500 TCN, và diễn
tiến của cái chính thể có
tên gọi đó. Sử truyện bao gồm các chi tiết về
thị tộc ʐina (Yelang 夜郎) thuộc ngành 烏伯 Ô
Bá của người Lô Lô / Di. Công trình
này mô tả tổ tiên của họ, và việc thành lập một chính thể và một hệ thống cai trị, có thể thuộc khu vực phía đông bắc của
tỉnh Vân Nam ngày nay. Bằng
việc phán đoán dựa trên dữ liệu trải qua nhiều thế hệ, có thể sử
truyện này nói đến các sự kiện sớm tới 500 TCN. Thị tộc cư trú trên bờ phía nam của con sông 太液 Thái
Dịch, cũng có ý kiến cho là sông 遯水 Độn
Thủy được đề cập
trong các văn bản triều đại nhà Hán ở Trung Quốc với tư cách là quê
hương “Trúc Vương” của người Dạ Lang.
Bằng cách gộp
hai dòng dõi của sáu vị tổ tiên huyền thoại của người
Lô
Lô / Di, 鄂魯默 Ngạc Lỗ Mặc, hậu duệ thế hệ đời
thứ mười bốn của vị
tổ khai sáng 僰阿蒙 Bặc A Mông của họ đã theo đuổi sự nghiệp
mở rộng chính
thể theo tất cả các hướng, kể từ kinh đô 可樂 Khả Lạc (53) từ 濮 Tây Bộc và việc định đô tại vị trí này. Sau này
chính thể được mở rộng về phía tây, với trung tâm chính trị chính chuyển tới
khu vực ngày nay gọi là 曲靖 Khúc Tĩnh
ở Vân Nam. Hầu như không có cơ sở cho việc xác định niên đại so sánh trong công trình
này, có lẽ ngoại trừ việc đề cập đến một vị vua tên là To-t'o, được
xác định là người trị vì Dạ Lang 多同 Đa Đồng trong các văn bản chữ Hán. (54)
Chính thể được mô tả trong tác phẩm này
có vẻ lớn hơn so với “Dạ
Lang” được mô tả trong các văn bản của Trung Quốc, điều này cho thấy nhiều
chính thể khác nhau đã được đề cập trong các văn bản của
Trung Quốc (như 且蘭 Thả Lan, 頭蘭 Đầu Lan, và chính thể của người 濮 Bộc) là một
bộ phận của một “Dạ
Lang” lớn hơn như cách cảm nhận của người Lô Lô / Di. Sự phân bố hiện nay của người nói ngôn ngữ Lô Lô / Di cho thấy một ý tưởng nào
đó về phạm vi địa lý của
những người này và có thể cả các cụm chính thể/văn hóa sớm hơn của họ
nữa. Nhưng ở
đây, mục tiêu của chúng tôi không phải là nghiên cứu sự phát triển của chính thể này, hoặc so
sánh những cách giải thích của Trung Quốc và của người Lô Lô / Di
về nó. Thay vào đó, điều
quan trọng nhất đối với chủ đề là
cái tên bản địa của chính thể
được phục nguyên là “Dạ Lang” bởi văn hóa Trung Quốc. Thuật ngữ
sử dụng trong suốt văn bản này cho cái
thị tộc và chính thể
mà bộ sử thi nói đến là:
Âm tiết đầu tiên của cái tên bản địa bao gồm một phụ âm đầu, là loại phụ âm sát ngạc
cứng hữu thanh và một nguyên âm cuối ngắn “i”, trong khi âm tiết thứ hai bao gồm âm mũi ổ
răng “n” với một nguyên
âm cuối ngắn “a”. Người Trung Quốc hơn hai
thiên niên kỷ trước, khi tạo ra cái
tên “Dạ Lang” để thể hiện chính thể bản địa này, đã sử dụng jiah (夜) để thể hiện âm tiết đầu và lang (郎) để thể hiện âm tiết thứ hai. Các thay đổi cho nhau giữa / l /
và / n / là một
hiện tượng được ghi nhận trong các
phương ngữ miền Nam Trung Quốc, giúp
loại bỏ một trong những sự
phản đối chủ yếu đối với tiểu luận này. Ngữ âm học của cách thể hiện chữ Trung Quốc này
cần phải được các chuyên gia thảo luận thêm, nhưng có thể có chút
nghi ngờ rằng cái
tên bản địa đó được phát âm từ hai thiên niên kỷ trước, tuy rằng ngày nay, việc thể hiện nó bằng từ tiếng Phạn Cina hầu
như lại phù hợp một cách hoàn hảo về ngữ âm.
5. Kết luận
Vậy thì liệu chúng ta có thể kết luận rằng ʐina, cái tên tự gọi của người Lô Lô / Di cho mình và cho cái chính thể được biết đến bằng tiếng Trung Quốc là Dạ Lang ấy, trong thực tế, có phải là nguyên gốc của từ “China” - Trung Quốc không? Tôi tin rằng chúng ta có thể nói như vậy. Các bằng chứng được viện dẫn bao gồm:
1. Sự tương đồng về ngữ âm gần gũi hơn bất kỳ một ví dụ nào được gợi ý trước đó. Bản chất âm song tiết của cái tên chính thể ấy và cái tên “China” cũng là đồng dạng.
2. Về mặt địa lý, chính thể ʐina / Dạ Lang hoàn toàn phù hợp với tất cả các bằng chứng sớm cho “Cina” / “China” - Trung Quốc. Cái tên Thinai (θίναι), chẳng hạn, được ghi trong sách Periplus Maris Erythraei, nằm ở miền cực bắc Ấn Độ Dương, bên ngoài Chrysê.
3. Tiểu luận này cũng giúp giải thích sự tồn tại của Cīna trong bộ Luật Manu và trong bộ đại sử thi Mahabharata của Ấn Độ, có khả năng định niên đại trước thời Tần Thủy Hoàng. Pelliot đã bác bỏ những tài liệu tham khảo này và cũng đặc biệt phản đối khả năng Cīna có thể “ngay từ đầu là để định danh cho một bộ lạc trên dãy Himalaya” với cái tên được “phát triển thành China - Trung Quốc chỉ khi tên gọi của “những người của Ch’in (Tần) được biết đến ở Ấn Độ.” (55 ) Pelliot thừa nhận rằng các văn bản tiếng Phạn “đã sử dụng từ ‘Cīna’ một cách lỏng lẻo để gọi người dân ở phía bắc và phía tây bắc của Ấn Độ”, nhưng vẫn luôn cố gắng giải thích nó bằng cách lưu ý rằng “chúng ta không được quên rằng Trung Quốc, vào cuối thế kỷ thứ hai TCN, đã cử các đoàn thám hiểm đi khắp Turkestan thuộc Trung Quốc, và trong thế kỷ tiếp theo, vào những thế kỷ I và II SCN, lại một lần nữa đã trở thành thế lực thống trị ở đó. Mặc dù ngay từ những ngày đầu, đã có một con đường trực tiếp từ Trung Quốc đến sông Hằng qua nẻo Vân Nam và Miến Điện, đó chủ yếu là nhờ các đường đèo núi Tây Bắc mà Ấn Độ đã tiếp xúc được với Trung Quốc, với tư cách là kết quả của thương mại hoặc ngoại giao. Tạm thời, tôi cảm thấy thiên hơn về phía cho rằng Cīna trong văn bản tiếng Phạn về nguyên tắc, và ngay từ đầu là thể hiện người Trung Quốc.”(56) Trong khi đó chí ít cũng có thể là vào thời điểm các tài liệu tham khảo đề cập đến Cīna và Mahācīna trong thời nhà Đường đã được dùng để nói đến các bộ phận của đế chế Đường, (57), chắc rằng chúng ta không thể giả định, như Pelliot rằng sự thật là việc sử dụng thuật ngữ này sớm nhất, có lẽ đã từ hơn 1.000 năm trước đó. Trên cơ sở nghiên cứu của ông về các tài liệu tham khảo khác nhau đối với cái tên Cīna trong các văn bản Ấn Độ, 繞宗頤 Nhiễu Tông Di cho rằng “Cái tên Cīna được đề cập trong các sử thi Ấn Độ nằm ở phía Đông của Ấn Độ, thuộc vùng đất biên giới Tạng-Miến.” (58)
4. Cái tên Cīna trong các văn bản Ấn Độ rõ ràng là một chính thể có ảnh hưởng. Chính thể ʐina / Dạ Lang rõ ràng cũng hùng mạnh và là một trung tâm quan trọng trong việc liên kết giữa tiểu lục địa này với Đông Á. Đây là một dân tộc / chính thể kiểm soát các vùng bình nguyên ở cuối dãy Himalaya, một khu vực đã kết nối về phía bắc với các nền văn hóa Hán hóa, về phía nam với các nền văn hóa Việt và về phía tây, với các nền văn hóa của tiểu lục địa Ấn Độ. Vì vậy mà nó đã thường xuyên được đề cập đến trong các văn bản Ấn Độ.
Các bằng chứng nêu trên cho thấy
một cách rất thuyết phục rằng cái tên “China” - Trung Quốc có nguồn gốc ban đầu từ
ʐina, tên bản địa của chính thể Lô Lô / Di được ghi nhận trong các văn bản của Trung Quốc với các tự vị 夜郎 (jiahlang chữ
Hán đầu thời Trung cổ hoặc Yelang thời hiện đại). Đó
chính là cái chính thể được gọi là Cina trong các văn bản Ấn Độ.
Do đó (và ở đây chúng ta quay trở lại với thành ngữ ngay ở đầu tiểu luận này - Dạ Lang tự đại), không
phải là người Dạ Lang đã có một
cảm giác không xứng đáng, tự quan trọng
hóa bản thân, bởi vì giờ đây chúng ta có
thể nhận thấy nó đã từng là
một trong những chính thể hùng mạnh của khu vực Đông Á
và Đông Nam Á, kiểm soát các vùng đất ở cuối phía đông của dãy Himalaya, và đóng vai trò
cầu nối giữa các nền kinh tế Đông Á và Nam Á. Thông qua tầm
quan trọng khá dài hạn này và quá trình lệ thuộc dần dần về văn hóa và
chính trị của nó vào những
người láng giềng phương bắc mà
cái tên ʐina / Cina của nó cuối cùng đã trở thành tên gọi ngoại lai cho các nền
văn hóa tuyệt vời mà ngày nay chúng ta gọi là “China” - Trung Quốc.
_________________________________________________
Nguồn: Geoff Wade 2009. The Polity of Yelang (夜郎) and the
Origins of the Name ‘China’.
Institute of Southeast Asian Studies, Singapore. Victor H. Mair, Editor Sino-Platonic
Papers Department of East Asian Languages and Civilizations University of
Pennsylvania, Philadelphia, PA 19104-6305 USA.
Tác giả: Geoff Wade (韋傑夫 Vi Kiệt Phu) là một sử gia chuyên về các diễn
giải lịch sử Trung Quốc – Đông Nam Á và biên niên sử so sánh, đặc biệt là công
trình cơ sở dữ liệu Southeast Asia in the Ming Shi-lu [Minh Thực Lục*]: An Open Access Resource,
cung cấp cho người đọc hơn 3000 tài liệu tham khảo về Đông Nam Á được dẫn từ
biên niên sử đời nhà Minh; ông cũng vừa chủ biên bộ sách đồ sộ China and
Southeast Asia (Routledge, 2009), gồm 6 tập khảo sát các công trình nghiên
cứu có ảnh hưởng lâu dài về các mối quan hệ Đông Nam Á – Trung Quốc.
Tài liệu dẫn
48. Bernard Karlgren, Grammata
serica : script and phonetics in Chinese and Sino-Japanese,Reprinted from the
Bulletin of the Museum of Far Eastern antiquities. No.12, 1940 (Taipei:
Chengwen, 1966).
49. Edwin G. Pulleyblank, Lexicon
of Reconstructed Pronunciation in Early Middle Chinese, Late Middle Chinese and
Early Mandarin(Vancouver: UBC Press, 1991).
50. Pulleyblank, Lexicon of
Reconstructed Pronunciation, pp. 364, 183.
51. Wu Gu, “Reconstructing Yi
History fromYi records” in Stevan Harrell (ed.), Perspectives on the Yi of Southwest
China(Berkeley: University of California Press, 2001), pp. 21–34.
52. Wang Ziyao and Liu Jincai
(eds.), Yelang shi zhuan, Chengdu, Sichuan minzu chubanshe, 1998. 王子堯,劉金才主編,《夜郎史傳》,成都 四川民族出版社,1998.
53. Located in what is today
Hezhang (赫章) County in Guizhou Province, PRC.
54. Wang and Liu, Yelang shi
zhuan, p. 5.
55. Pelliot, Notes on Marco
Polo,Vol. 1, p. 269.
56. Pelliot, Notes on Marco
Polo,Vol. 1, p. 269.
57. See, for example, the account from 730 CE, reprinted in the Song gaoseng chuanwhich notes “The kingdom of Yindu (India) commonly call Guang-fu (Canton) ‘Zhina’ (Cīna) and refer to the imperial capital as ‘Mohe zhina’ (Mahācīna). See Pelliot, Notes on Marco Polo,Vol. 1, p. 272. A similar claim is seen in the Da Tang qiufa gaoseng chuan(大唐求法高僧傳).
57. See, for example, the account from 730 CE, reprinted in the Song gaoseng chuanwhich notes “The kingdom of Yindu (India) commonly call Guang-fu (Canton) ‘Zhina’ (Cīna) and refer to the imperial capital as ‘Mohe zhina’ (Mahācīna). See Pelliot, Notes on Marco Polo,Vol. 1, p. 272. A similar claim is seen in the Da Tang qiufa gaoseng chuan(大唐求法高僧傳).
58. Jao, “Shu bu yu Cinapatta”, p.
231.
59. Shiji, juan 116.
60. Shiji, juan 117.
61. Burton Watson (trans.) Records
of the Grand Historian by Sima Qian(Revised edition) (New York: Columbia
University Press, 1993), pp. 284–89.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét