Có phải Man Di không? Tộc người và sự biến đổi các quan niệm
về các tộc Việt cổ khoảng năm 400-50 TCN (I)
Erica Brindley
Người
dịch: Hà Hữu Nga
Việc nghiên cứu về tộc người trong các khoa học xã hội đương đại giúp thiết kế một con đường phức tạp hơn cho các nghiên cứu của chúng tôi về bản sắc trong lịch sử châu Á. Tuy nhiên, phạm vi nghiên
cứu nói chung vẫn còn hạn chế ở các vùng biên giới cổ phía bắc và tây bắc, và vùng biên giới đương đại Tây Nam Trung Quốc, (1) trong
khi các lĩnh vực cụ thể khác về nghiên cứu tộc người vẫn còn chừa lại. Một trong các
lĩnh vực nghiên cứu còn bị bỏ qua lại liên quan đến các mối quan hệ
tộc người trong chính lịch sử cổ đại nam Trung Quốc.
(2) Mục đích của tôi trong bài viết này là nhằm khắc phục sự thiếu hụt
nhận thức về lịch sử
tộc người trong các
vùng phía nam Trung Quốc bằng
cách xem xét các tác gia thời Chiến Quốc và triều đại nhà
Hán (khoảng 400-50
năm TCN) đã nhìn nhận ra sao về người 越 Việt với tư cách là một bản sắc khác với bản thân họ. Những tiêu chí biến đổi mà
các tác giả này
sử dụng trong việc thể hiện các
bản sắc và những khác biệt
với họ là gì, và làm thế nào để có thể phân biệt hoặc
đồng ý với những tiêu chí ấy đối với hiểu biết hiện tại của chúng ta về tộc người? Các tác giả này đã phản ánh ý thức riêng của họ ra sao về bản sắc
thông qua các phán xét của họ về tính khác biệt Việt ấy theo cách mà họ đã phân
biệt về các bối cảnh văn hóa, chính trị và tri thức? (3) Có
phải họ đã coi Việt tộc là khác
biệt nhưng vẫn
ít nhiều dựa trên cơ sở bình đẳng? Hay họ cho rằng Việt
tộc chỉ là lũ tiểu nhân - “man rợ” - trong mối quan hệ với bản
thân họ?
Sự thiếu hụt chung về tính chất học thuật liên
quan đến tộc người trong lịch sử ở miền Nam là rất
đáng quan tâm, vì các văn bản sớm của Trung Quốc đặc biệt không né
tránh đề cập đến hàng trăm nhóm tộc
người khác nhau xuất hiện trong cảnh quan ban đầu của phương nam. Được viết bằng chữ Trung Quốc bởi các thành
viên của tầng lớp có học, các nguồn tư liệu này gợi lên một bối cảnh lịch sử phức
tạp của các mối quan hệ tộc người
ở phương nam, và họ
nói khá thẳng thắn về các vương quốc phương nam với rất nhiều loại người, ngôn ngữ phong tục,
và nguồn gốc khác nhau. Họ cũng
không quên trình bày một
lịch sử chung về cung cách
mà các nhóm ưu trội chẳng hạn như các quốc gia hùng mạnh và các triều đại đế vương đã tương tác, bành trướng, đồng hóa,
và mặt khác, chịu ảnh
hưởng của các nền văn hóa
và các chính thể ở các vùng phía Nam.
Vậy thì, tại sao các
học giả đương
đại đa phần lại
bỏ qua lịch sử này? Tôi cho rằng đó không phải do thiếu quan tâm, mà đúng hơn là, do tác động đặc biệt được tạo
ra bởi các công trình kiến tạo một bản sắc dân tộc “Trung Quốc”
hiện đại, (4) liên
quan mật thiết đến những gì mà Lydia Liu gọi là “sáng kiến
của Trung Quốc trong việc tạo dựng thế giới hiện đại”
và việc kiến tạo bản sắc đó có nguồn gốc trong
các huyền thoại bản sắc sớm
của nó. (5) Được
truyền bá trong thời Chiến Quốc và
coi cuốn 史記 Sử
kí của 司馬遷 Tư Mã Thiên về buổi đầu nhà Hán là khuôn mẫu, các huyền thoại ấy đã dựng đặt sự tồn tại của
một dân tộc “華” Hoa, “夏” Hạ, và “華夏” Hoa Hạ, hoặc “諸夏” Chư Hạ liên tục và đồng nhất,
một dân tộc được truy nguyên nguồn gốc từ các vị đế vương hiền triết cổ đại, nhưng họ lại
không thừa nhận cách thức mà những ám
chỉ bản sắc này đã được chuyển
đổi và tái tạo dựng theo thời gian. (6) Họ cũng không
thừa nhận những cách thức rất liên quan mà bản sắc Trung Quốc đã bị ảnh hưởng
và thay đổi bởi các tộc người khác, thường là các nhóm, các bản sắc
và các tộc người xa lạ. Quan điểm cho rằng bản sắc “Trung Quốc” (những gì được các tác giả sớm
gọi là Hoa, Hạ, và đại loại thế, như đã đề cập) được thừa hưởng một quá trình tồn tại liên tục
và đồng nhất từ thời cổ đại
đã che mờ hiểu biết của chúng ta về sự
phát triển sớm của các quốc gia
hỗn tạp và các nền văn hóa trong những khu
vực bây giờ là miền nam Trung
Quốc. (7) Ví dụ, từ những giai đoạn sớm
nhất, lúc liên tục,
lúc đứt đoạn cho đến tối
thiểu là cuối thế kỷ thứ
sáu SCN, các nhà nước và các nền văn hóa thống trị ở phía nam, chẳng hạn như Sở 楚, Ngô 吳, và 越 Việt trong thời 東周 Đông Chu, cũng
như Thục 蜀 và Ngô 吳 sau khi nhà Hán sụp đổ, đã luôn tương tranh
khốc liệt với nhau và với các quốc gia phương bắc để giành ngôi vị bá chủ. (8)
Không nghi ngờ gì là các dân tộc và các nền văn
hóa của nhà nước này đã chịu ảnh hưởng đáng kể bởi những di sản
văn hóa Trung Quốc (mà trong suốt các
triều đại sau đó vẫn được gọi chung là văn hóa “漢” Hán), nhưng điều đó không có nghĩa là họ không tiếp tục tạo dựng và tái tạo ý thức riêng của họ về các truyền thống dân tộc, lịch sử, văn hóa, và thậm chí cả
các truyền thống
chính trị. Hơn nữa, mặc dù tất cả các quốc
gia góp phần vào lịch sử của
cái bây giờ là Trung Quốc,
thì nhiều nhà
lãnh đạo và nhiều cộng đồng người vẫn
không tự nhận mình là người
Trung Quốc theo bất kỳ loại
nhãn lịch sử nào
được gán cho. Ngay cả khi một số người phương Nam đã tự coi mình là người
Trung Quốc (đặc biệt là sau
sự sụp đổ của nhà Hán và những
người xuất thân từ các tầng lớp tinh hoa), họ vẫn
có thể hiểu rõ
căn cước của mình bằng việc phân biệt họ
với người Trung Quốc theo như cách hiểu ở miền
bắc, hoặc họ thậm chí
còn có thể đồng nhất mình với khối người đông đảo nơi họ sống, mặc
dù khác họ về tộc thuộc. (9)
Thuật ngữ “越” Yue (Việt) theo cách phát âm hiện đại bằng tiếng phổ thông Trung Quốc,
về phương diện ngữ âm còn gần với “Việt” hơn là tên gọi ngày nay của “Việt Nam”, hoặc 南越 “Nam-Việt” trong lịch sử - vốn
là nguồn gốc của cái tên “Việt Nam”. (10) Trong việc mô tả các quan điểm về người Việt đã được viết ra từ lâu trước khi
có sự xuất hiện của một nước Việt Nam trong lịch sử, tôi không xem
xét lịch sử của các ranh giới hiện tại của Việt
Nam, hiện nằm xa về phía tây nam của
khu vực mà chúng ta đang nói đến. Tôi cũng không định giải quyết lịch sử của các dân tộc Việt Nam hiện nay, mà lịch sử cổ xưa của họ có thể không giao thoa trực tiếp với các dân tộc mà chúng ta nói đến ở đây. (11) Tuy nhiên tôi lại hướng đến lịch sử sớm của thuật ngữ Việt và những
ám chỉ đã thay đổi của nó, mà thuật
ngữ này lại không thể thiếu cho sự hiểu biết về nguồn gốc của các
nền văn hóa và các
thực tiễn, không nghi ngờ gì nữa, đã tác động ảnh hưởng đến tầng lớp lãnh đạo và xã hội của chính thể
Việt Nam sau này.
Trong suốt bài viết này, thứ giọng nói cất lên và mô tả về các dân tộc Việt không phải là tiếng nói của bản
thân người Việt. Vì chỉ có rất ít đại diện tự thân của người Việt tồn tại trong văn liệu châu Á cổ, nên thực tế tôi cũng không xem xét bản sắc tự
thân Việt. (12) Thay vào đó, tôi phân
tích cách thức các tác giả trong các khu vực của các nhà nước Trung Quốc đó tự xác định bản sắc của họ trong mối quan hệ với người
khác ở phía Nam. (13) Như được mô tả trong các nguồn tư
liệu sớm, bản sắc Việt trở nên không có gì
đơn giản hơn là sự phóng chiếu của người khác trong mối
quan hệ với bản thân
mình.
Các quan điểm Khảo cổ học và Ngôn ngữ học về Việt tộc
Vậy
thì những tộc người nào gắn liền với thuật ngữ Việt? Trong một số giới khảo cổ học và ngôn ngữ học, các học
giả vẫn gộp toàn
bộ một khu vực địa lý trong
cả thời tiền sử và sơ sử, bằng
cách gọi đó là “đại văn hóa” Việt. (14) Họ cho rằng
nền văn hóa này trải dài từ sông Dương Tử về phía nam kể cả các vùng ven biển đông nam Trung Quốc và các dân tộc Việt là cư dân ven biển và cư dân nông nghiệp lúa nước. Những đặc điểm nổi bật khác của văn hóa Việt, đôi khi còn được
gọi là văn hóa Ngô-Việt (Wu-Yue), bao gồm việc
sản xuất đồ gốm văn
in hình học, rìu đá có vai,
và bôn có nấc. (15)
Các
nhà ngôn ngữ học như Jerry Norman, 梅祖麟 Mei
Tsu-lin [Mai Tổ Lân], và Edwin Pulleyblank gợi
ý về một cơ tầng Nam Á cho các nền văn hóa xuất hiện ở các khu vực
này vào thời đại
Đá mới và Thời đồ đồng, và thậm chí còn đến cả thời Chiến
Quốc (464-221 trước công nguyên). (16) Một số học giả thậm chí còn liên tưởng kết nối ngôn ngữ với phạm trù tộc người mờ mịt hơn. Theo
Pulleyblank, thực tế thì cái tên Việt trong các văn bản sớm của Trung Quốc là để chỉ tất cả các tộc người dọc theo bờ
biển “là bằng chứng
thoạt nhìn thì có một bản
sắc dân tộc và ngôn ngữ trong số các cư dân
của toàn khu vực, nhưng tất nhiên nó không chứng minh rằng thực tế là như vậy. Đó có thể là
một cách dùng sai một cái tên quen
thuộc của người Trung
Quốc cho những tộc người hoàn toàn không liên
quan.” (17) Ở đây,
Pulleyblank gắn việc sử dụng
cái tên Việt
của người Trung Quốc với cả thực tế ngôn ngữ và tộc người, mặc dù theo các bằng
chứng mà ông sử dụng, thì thực sự không
có căn cứ để người ta có
thể khẳng định về
điều này. Tuyên bố của Pulleyblank cho chúng ta cái nhìn sâu sắc vào cách thức mà người ta có
thể dễ dàng trượt từ cách nghĩ về Việt như là một ám chỉ
đến Việt như là một tộc người riêng biệt.
Khả năng các dân tộc đầu tiên của miền Nam nói các
thứ tiếng thuộc cùng nhóm ngôn ngữ có lẽ là lớn hơn nhiều
so với khả năng tất
cả các nhóm người trong khu vực này đều
cùng là một tộc người. Mai Tổ Lân và Jerry Norman đã chứng minh một cách khá thuyết phục rằng các tộc người gắn liền với ám chỉ Việt thì “ít nhất một phần là AA (Nam Á).” (18) Họ trích dẫn tài liệu tham khảo
các từ
đơn lẻ trong tiếng Trung Quốc có
nguồn gốc Nam Á, và họ chỉ
rõ các từ ấy được liên kết lại theo nhiều cách khác nhau trong các văn liệu được thừa nhận thuộc về phương Nam (nước Sở), cũng như thuộc
về tộc “Việt” hay “Nam Việt” (Nan Yue 南越).” Ví dụ nổi tiếng nhất là từ “jiang 江” đã trở thành danh từ riêng chỉ sông
Dương Tử, nhưng vẫn có thể được truy nguyên tới danh từ chung chỉ “sông” trong một số ngôn ngữ Nam Á. (19)
Mai và Norman đưa ra giả
thuyết rằng cái
tên Nam Á này gia nhập vào vốn
từ vựng của Trung Quốc từ khu vực sông Hán gặp sông Dương Tử ở miền
nam Trung Quốc, qua đó cho thấy
một nguồn gốc ngôn ngữ phương nam đã ảnh hưởng đến tiếng Trung Quốc. (20) Họ tiếp tục ủng hộ cho mối
liên kết giữa các
ngôn ngữ Việt và Nam Á bằng cách chỉ ra những chú giải sớm của các học giả Trung Quốc về sự khác biệt ngôn ngữ đặc biệt
liên quan đến các tộc người
Việt. Ngay từ thời nhà Hán, nhà chú giải nổi tiếng Đặng Huyền 鄧玄 (127-200 năm
SCN) đã chứng minh sự khác biệt
này bằng cách làm
rõ từ “chết”, ông khẳng định rằng người Việt gọi “chết” là “cha”
hoặc “札” [“trat”] (21). Cuốn Từ điển 說文 Thuyết văn thời nhà Hán cũng chỉ ra một ví dụ khác, được kê trong
mục từ “獀” sou [sưu] mà “Nam Việt gọi là [nog-siog 獿獀]“con chó” .”(22 ) [說文- 獀:南趙名犬獿獀。从犬叜聲。清代 段玉裁《說文解字注》南越名犬獿獀也。獿獀曡韵字。南越人名犬如是。今江浙尚有此語。从犬。叜聲。所鳩切。[Thuyết văn - sưu: Nam Triệu danh khuyển nao sưu. Tòng khuyển tẩu
thanh. Thanh đại Đoàn Ngọc Tài “Thuyết văn Giải tự chú” Nam Việt danh khuyển
nao sưu dã. Nao sưu điệp
vận tự. Nam Việt nhân danh khuyển như thị. Kim Giang Chiết thượng hữu thử ngữ.
Tòng khuyển. Tẩu thanh. Sở cưu thiết. Đại ý: Thuyết văn chú giải từ "sưu": Nam Việt nhà Triệu gọi chó là "nao sưu", do chó có thanh tẩu. Đoàn Ngọc Tài nhà Thanh trong "Thuyết văn Giải tự chú" viết: Nam Việt gọi chó là "nao sưu" vậy. Nao sưu là từ điệp vận. Người Nam Việt gọi chó là thế. Ngày nay vùng Giang Chiết cũng vẫn gọi như vậy. Theo đó chó thanh tẩu. Phiên thiết âm "sưu" vậy - HHN dẫn]. Theo Mai và Norman, điều này cho thấy rằng nghĩa “con chó” đã được gắn liền với âm “sou”, là từ thứ hai trong hợp từ này. Do đó họ khẳng định rằng những âm sớm để chỉ “chết” và “chó” rõ ràng có thể được gắn liền với nhóm ngôn ngữ
Nam Á. (23)
Nhưng như Heather Peters đã chỉ ra, các nền văn hóa khảo cổ học hay ngôn ngữ học
hiện nay không
nên bị lẫn lộn
với các tộc
người: “Các đặc điểm văn hóa chung hoặc tương đồng
phổ biến không nhất thiết
phải chứng tỏ tính tộc người và có thể dễ dàng che
giấu một trạng
thái thừa mứa các nhóm tộc người và các nền văn hóa khác
nhau. Một số đặc điểm trùng lặp có thể chỉ đơn giản thể hiện một phản ứng sinh thái đối với một môi trường chung.” (24) Vì vậy khái niệm “Việt” mà các nhà khảo cổ học và ngôn ngữ học thường đề cập đến, không nên bị lẫn lộn
với “Việt tộc” lịch sử, vốn có thể hoặc
không thể là một tộc người duy nhất. Trong phần
thảo luận sau đây, tôi phác thảo
vắn tắt một số định nghĩa cơ bản về tộc người, bằng cách nhấn mạnh một định nghĩa tỏ ra là hữu ích nhất cho việc nghiên cứu tiếp theo. Khi
chấp nhận một định nghĩa về tộc người, tôi yêu cầu chúng ta xem lại cách hiểu của mình về tộc người ở nam Trung Quốc sao
cho chúng ta không đánh đồng
bằng chứng khảo cổ học hoặc thậm chí ngôn ngữ học với bằng chứng xác
thực về
tộc người chung.
________________________________________
Nguồn: Erica Brindley . Barbarians or Not? Ethnicity and Changing
Conceptions of the Ancient Yue (Viet) Peoples, ca. 400–50 BC.
Tác giả: Erica Brindley, Phó Giáo sư và Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu sau đại học về Châu Á học, là một nhà sử học chuyên về trí tuệ và văn hóa Trung Quốc (500 TCN đến 200 AD).
Sở thích của cô bao gồm các tác phẩm triết học và tôn giáo, chuẩn mực văn hóa, và nền văn hóa chính trị
đã được sinh ra và phát triển mạnh mẽ trong thời gian này.
Cô cũng quan
tâm đến lịch sử bản sắc và các mối tương
tác liên văn hóa giữa các nền văn
hóa trong khu vực ảnh hưởng văn hóa Hán ở miền Bắc và các nước láng giềng phía nam
của họ dọc theo bờ biển Đông Á. Gần đây cô
bắt đầu nghiên cứu Việt tộc trong lịch sử sớm
của vùng biên giới
phía nam Trung Quốc. Cô
tham gia nghiên cứu lịch sử sớm của Việt Nam cũng như các khu vực Quảng Đông và Phúc Kiến ở
miền nam Trung Quốc hiện đại.
Ghi chú
1. Sự tập trung một cách nhất quán
vào biên giới phía
bắc và tây bắc không có gì phải ngạc nhiên, do xung đột và
căng thẳng thường xuyên giữa Trung Quốc và các
láng giềng du mục thảo nguyên,
ví dụ, các nhóm như 蠻夷戎狄 [Man Di Nhung Địch] Hung Nô 匈奴 Hung Nô, Tabgatch 拓拔 Thác
Bạt, 鮮卑 Tiên Ti, 女真 Jurchen - Nữ Chân, Mông Cổ, và Mãn Châu, những
tộc người đã liên tục có vai trò trong việc hình thành, hướng dẫn,
tạo lập, hoặc thậm chí kiểm soát các chính sách và hành động của các nhà nước khác nhau của Trung Quốc. Một vài ví dụ đại diện cho ta một bức tranh đầy đủ về tầm
quan trọng học thuật này. Joseph Fletcher, Owen
Lattimore, Pamela Crossley, Mark Elliott, James Millward, Laura
Hostetler, Jonathan Lipman, và Dru Gladney đã thực các công trình nghiên cứu mở rộng về các mối quan hệ giữa Trung Quốc và Nội Á, Trung Quốc - Mãn Châu, và / hoặc
Trung Quốc - Hồi giáo từ nhà
Thanh đến thời hiện đại. Cụ thể hơn, đối với các
mối quan hệ tộc người và / hoặc quan hệ đối ngoại ở Trung Quốc trước nhà Thanh, các học
giả như 王赓武
Vương Canh Vũ và Morris
Rossabi xử lý vấn đề biên giới
phía bắc bằng việc phân tích các mối quan hệ của Khitans, Jurchens, và Mông Cổ
với người “Hán” thuộc các triều đại Tống
và Nguyên; xem Vương, The
Structure of Power in North China during the Five Dynasties (Stanford: Stanford
U.P., 1967), Rossabi, The Jur chens in the Yüan and Ming (Ithaca: Cornell U.
East Asia Papers, 1982), and Rossabi, ed., China among Equals: The Middle
Kingdom and Its Neighbors, 10th-14th Centuries (Berkeley: U. of California P.,
1983). Nhiều học giả
từ các ngành nghiên cứu về Lịch
sử nghệ thuật và Tôn giáo Lục triều đã
tập trung vào vấn đề về các mối quan hệ tộc người Trung Quốc với các lãnh chúa và các nhà lãnh đạo Trung Á trong viễn cảnh lịch sử. Đối với đế chế Trung Quốc, Nicola di Cosmo và Marc Abramson
tập trung chủ yếu vào khu vực biên giới phía bắc và phía tây cũng như tập trung vào các khác biệt giữa các tộc người và các nhóm du mục Trung và Bắc Á. Cuốn sách gần đây của Di Cosmo về các
mối quan hệ trước Hán và Hán với các nền văn hóa “thảo nguyên” thực hành du canh du cư đã đem đến một điểm khởi đầu quan trọng để hiểu lịch sử sớm của vùng biên giới
phía bắc Trung Quốc: Ancient
China and Its Enemies: The Rise of Nomadic Power in East Asian History (Cambridge:
Cambridge U.P., 2002); và Abramson, “Deep Eyes and High Noses: Constructing
Ethnicity in Tang China (618–907),” Ph.D. diss. (Princeton U., 2001). Xem them
công trình của 王明珂 Vương Minh Kha về các tộc Mãn Thanh trước Hán, chẳng hạn “The
Ch’iang (Qiang) of Ancient China through the Han Dynasty: Ecological Frontiers
and Ethnic Boundaries,” Ph.D. diss. (Harvard University, 1992). Cũng không có
gì đáng ngạc
nhiên là nhiều công trình về tộc người lại rơi vào thời kỳ đương đại và
hiện đại, kể từ khi các nhà nhân học văn hóa thường tham gia vào các
chủ đề như vậy nhằm nghiên cứu nền các văn hóa và các đối tượng
hiện tồn. Các công trình nhân học về Trung Quốc cũng có một cấu phần không gian, và nó thường bao gồm các biên giới phía tây nam, gần Tây Tạng, Miến Điện và Việt Nam. Xem các
tác phẩm tiêu biểu của Joseph
Rock, Sow-Theng
Leong, Stevan Harrell,
và Ralph Litzinger;
Harrell, ed., Perspectives on the Yi of Southwest China (Berkeley:
U. of California P., 2001), Harrell, ed., Cultural Encounters on China’s Ethnic
Frontiers (Seattle: U. of Washington P., 1996), and Leong, Migration and
Ethnicity in Chinese History: Hakkas, Pengmin, and Their Neighbors (Stanford:
Stanford U.P., 1997).
2. Một số công trình về lịch sử sớm Nam Trung Quốc bao gồm các
tác phẩm của Keith Taylor, The Birth of Việt Nam (Berkeley:
U. California P.,
1983), cũng như Rao Zongyi 繞宗頣 Nhiễu Tông Di, Vương
Minh Kha, Wolfram Eberhard, Leonard Arrousseau, Richard
Holcombe, và CP
FitzGerald. Đối với nước Sở và vị
trí của nó trong bối cảnh Xuân
thu Chiến quốc, xem Constance Cook and John Major, eds., Defining
Chu: Image and Reality in Ancient China (Honolulu: U. Hawaii P., 1999). For an
account of later Chinese frameworks for civilizing measures on its southern
frontiers, see Magnus Fiskesjo, “On the Raw and the Cooked: Barbarians of
Imperial China,” Inner Asia 1.2 (1999), pp. 139–68.
3. Chắc chắn, nền tảng học vấn của cá nhân mỗi
tác giả cũng sẽ giúp xác
định cách thức tiếp cận của họ đối
với thuật ngữ “Việt”. Tuy nhiên trong nhiều ví
dụ về “Việt” từ thời kỳ này, chúng ta thường phải đối mặt với sự thiếu khuyết thông tin tiểu sử hoặc ngữ
cảnh về tác giả. Điều này cản trở nghiêm trọng khả năng của
chúng ta trong việc xác định nguyên
nhân sâu xa của từng loại phương
pháp tiếp cận để nhận dạng, cũng như khả năng của chúng ta trong việc so sánh các thay đổi quan
niệm về tộc người theo một cung cách lịch sử nhất định.
4. Tất nhiên, chúng tôi không nói rằng khái niệm xuyên-văn hóa, dân tộc, chính
trị và bản sắc “Trung Quốc” không tồn tại vào thời điểm đó. Các tài liệu tham về
các bản sắc như vậy rất phong phú, nhưng chúng cũng đã thay đổi liên tục, và ranh giới gắn
liền với mỗi bản
sắc luôn thay đổi liên tục. Trong thời kỳ Chiến Quốc, ví dụ các khái niệm “Hoa”, “Hạ”, “Hoa Hạ” hoặc “Chư
Hạ” chắc chắn sẽ
có các tài liệu tham khảo liên quan tự xác định, nhưng không phải là “Trung Quốc”, hoặc thậm chí “Hán”. Vấn đề còn không rõ ràng khi
“Hán” bắt đầu được sử dụng như một
nhãn tộc
người, mặc dù trong thời nhà
Nguyên nó đã được sử dụng như vậy,
bổ sung cho các thuật ngữ tộc người cũ và các
địa danh gắn kết chặt chẽ với
chúng, bao gồm cả “Trung Nguyên”
và “Trung Quốc”.
Các dấu hiệu chính trị và thời gian của bản
sắc đã định danh cho dân tộc theo triều đại
mà họ sống trong đó. Trong thời Hán, thuật ngữ “Hán” được sử dụng bởi người ngoài như
Hung Nô để chỉ dân tộc thuộc triều đại đó. Các từ về
bản sắc dựa trên cơ sở triều đại khác bao gồm “Đường”, “Tống”, “Nguyên”, “Minh” và “Đại Thanh”. Rất thú vị
là một số định danh triều đại đã được chọn bởi những người ở Trung Quốc và các nơi khác để chỉ
“Trung Quốc” như một dân tộc (ví
dụ, “Hán” như là một cái nhãn được sử dụng ở Trung Quốc và Nhật
Bản, cũng như “Đường” khi được sử dụng tại Nhật Bản). Xem
Endymion Wilkinson’s Chinese History: A Manual (Cambridge: Harvard University
Asia Center, 1998), pp. 96–97, 682–88, 694–704, 722–25.
5. Lydia Liu, The Clash
of Empires: The Invention of
China in Modern World Making (Cambridge: Harvard U.P., 2004), pp. 75–81. Liu cho thấy cách thức
mà siêu dấu
hiệu, Trung Quốc, đã được chấp nhận như là một hình thức về
bản sắc tự thân duy nhất trong thời hiện đại. Vì
thuật ngữ “Trung Quốc” bắt nguồn từ các
từ tiếng Phạn hoặc tiếng Ba Tư: Cina, Chini, đó là một địa danh được sử dụng bởi những người khác và do đó
không phải là một phần của một
tiết mục Trung Quốc bản địa
tự xác định. Việc tôi sử dụng thuật ngữ “China”
và “Chinese” trong bài viết
này chỉ đơn thuần là một cách viết tắt thuận tiện, các
ám chỉ emic - người trong cuộc và ngôn ngữ
địa phương thực tế về bản sắc là chủ đề của các luận chiến lý thuyết nói chung, và cần phải thảo luận nhiều. Như Charles Holcombe
xác định: “Các xu hướng dự phóng các bản sắc dân tộc-quốc gia hiện đại
vào quá khứ xa xưa và cho rằng
bằng cách nào đó chúng vĩnh cửu và không thay đổi, tuy nhiên có thể hiểu được, là một sai
lầm (nguy hiểm)”; Holcombe, “Early Imperial China’s Deep
South: The Viet Regions through Tang Times,” T’ang Studies 15–16 (1997–1998), p.
133.
6. Tư Mã Thiên đã viết ra một dòng đơn giản cho dân tộc Hoa Hạ là truy nguyên trở lại thời
Tam hoàng, Ngũ đế, sau đó đến các triều đại Hạ, Thương, và
Chu; Sima Qian, Shi ji (Beijing: Zhonghua shuju, 1992; hereafter S J )
1–5, pp. 1–171.
7. Thần thoại về
tính liên tục và đồng nhất của
người Hán giả định một khái niệm về văn hóa “Trung Quốc”, hoặc “Hán”, bao gồm toàn bộ vùng địa lý rộng lớn tương ứng với ranh giới của các
triều đại hoàng đế sau này, và
đặc biệt là đế chế nhà Thanh.
8. See Cook and Major, Defining
Chu. See also Rafe de Crespigny, Generals of the South: The Foundation and
Early History of the Three Kingdoms State of Wu, Asian Studies Monographs, ns
16 (Canberra: The Australian National University, 1990).
9. See Liu, Clash of Empires, p.
80.
10 C. Michele Thompson,
Scripts, Signs and Swords: The Viet Peoples and the Origins of
Nom,” Sino-Platonic Papers 101(March, 2000), p. 17; ở những chỗ khác tác giả trích dẫn luận án Jeffrey
Barlow viết rằng Việt được xác định bởi sự kết hợp với một chiếc rìu chiến lớn rìu (鉞 việt), dùng
làm từ cùng gốc cho Việt (ibid., p. 22). Rao
Zongyi 繞宗頣 Nhiễu Tông Di,
trích dẫn Da Dai Li
Ji 大戴禮記 Đại Đái Lễ kí,
cho thấy rằng thuật ngữ “Việt” ngược lại, có thể là một từ
vay
mượn thay cho từ thích 戚 [thân thích]; 繞宗頣, 吳越文化
(Nhiễu Tông Di - Ngô Việt Văn hóa), ZYYY 41,4
(1969), n. 2,
p. 628. “Yuenan” hay Việt Nam, lần
đầu tiên được các nhà cai trị Mãn Châu của
nhà Thanh ban cho như một tên gọi
dân tộc Việt Nam vào năm 1802; Holcombe, “Early Imperial China’s Deep South,” p. 133.
11.
Xem Keith Taylor bác bỏ lý thuyết di cư của
Leonard Aurousseau của
các dân tộc Việt. Như Taylor ghi nhận, cư
dân Việt Nam hiện nay nhiều khả năng bắt nguồn từ các khu vực xung quanh Việt Nam hiện tại hơn là từ các vùng Việt xưa ở nam Trung Quốc. Trong khi
các giai cấp thống trị Việt di chuyển về phía nam vào Việt Nam
theo thời gian, thì thật phi lý khi khẳng định rằng phần lớn dân số
hiện nay của Việt Nam di cư cùng với họ; Taylor, Birth of Vietnam, pp. 314–15. Xem thêm nhận xét của Mark Lewis về tính bất động của những người nông dân, trái ngược với tầng lớp thượng lưu trong “Warring States: Political History,” trong Michael Loewe and Edward
Shaughnessy, eds., Cambridge History of Ancient China: From the Origins of
Civilization to 221 B.C. (Cambridge: Cambridge U. P., 1999), p. 649.
12. Việc
ghi lại tài liệu sớm như vậy về tiếng nói Việt xuất hiện trong một bài hát Việt
cổ xưa, phiên
âm trong 說苑
Thuyết uyển của 劉向 Lưu
Hướng. Vì không có hình thức bằng văn bản của ngôn ngữ đang được đề cập, tác giả người Hán cung cấp cho người đọc một bản
phiên âm của lời bài
hát Việt, cùng với một bản dịch tiếng Hán của nó. Những mảnh còn lại của giọng nói Việt có thể được tìm thấy trong Sử ký, trong các
đoạn trích dẫn của những con người xuất sắc và học vấn cao từ
các chính thể Việt khác nhau; họ cũng rất
giỏi về văn hóa và các chuẩn mực Trung Quốc và cho là có
mối quan hệ có vấn đề với
người dân bản địa nơi họ cai trị. Trong trường hợp lời bài Việt nhân ca, bản dịch Hán ngữ của Lưu Hướng “có chút ít dấu hiệu cho thấy
âm tiết được phiên âm tương ứng với
âm tiết của từ Hán”, khiến cho rất khó xác định nhóm
ngôn ngữ ấy là gì; Tsu-lin
Mei and Jerry Norman, “The Austroasiatics in Ancient South China: Some Lexical
Evidence,” MS 32(1976), p. 277.
今夕何夕兮搴舟中流
今日何日兮得與王子同舟
蒙羞被好兮不訾詬恥
心兒頑而不絕兮得知王子
山有木兮木有枝
kim tịch hà tịch hề khiên chu
trung lưu
kim nhật hà nhật hề đắc dữ
vương tử đồng chu
mông tu bị hảo hề bất tí cấu sỉ
tâm nhi ngoan nhi bất tuyệt hề đắc tri
vương tử
san hữu mộc hề mộc hữu chi
Chẳng biết
hôm nay lễ lạt gì,
Việt nhân tôi
lướt sóng chu du cùng Vương Tử
Phận thấp
hèn, tôi nào đâu mơ ước
Tiếp Vương
gia, tâm can tôi vui sướng vô ngần
Núi có rừng
và cây kia có nhánh
Vương
Tử người có thấu nỗi lòng tôi!
[dẫn
theo Lâm Hà 1985: 106; 1995: 72]
Nguyễn Ngọc Thơ, Việt nhân ca – bài ca người Việt cổ, http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn/ Wednesday, 22 September 2010 [HHN dẫn].
Như vậy, mặc dù bài hát Việt của Thuyết uyển gợi ý về một quan điểm cho rằng nó có nguồn gốc Việt, thì
đó vẫn là thông qua bộ lọc
ngôn ngữ Trung Quốc để chúng ta tiếp xúc với nó. Hơn nữa, việc
thể hiện bài hát bằng giọng Việt vẫn không tự nó loại trừ
khả năng là phong cách và nội dung của
bài hát đã bị ảnh hưởng rất nhiều
bởi các hình thức trữ tình hoặc các mô hình thi
ca nhà Chu. Để có được một nghiên cứu ngôn ngữ ngắn gọn và bản dịch của bài hát này (sang tiếng Nhật), xem Izui Hisanosuke 泉井久之助 “Ryū Eko Setsu
En kan daiichi
không Etsuka ni
tsuite” 泉井久之助<刘向<说苑>卷十一越歌 Tuyền Tỉnh Cửu
Chi Trợ <Lưu Hướng - Thuyết uyển> Quyển thập nhất - Việt ca> Gengo Kenkyū 22/23 (1953), tr. 41-5.
13. Danh pháp “Trung Quốc”, như được sử
dụng trong thời Chiến Quốc, để chỉ một cách mơ hồ cho
các quốc gia thuộc các khu vực
xung quanh trung tâm nhà Chu ở lưu vực sông Vị và lưu vực
sông Hoàng Hà. Sử dụng chung cái
danh pháp đó cũng cho thấy rằng các nhà
nước này là các thành viên
chính thức của vũ trụ chính trị nhà Chu. Danh pháp này không bao
gồm các quốc gia xen kẽ trong cùng khu vực địa
lý thuộc các tộc người
Nhung, Di, và nhiều tộc người khác.
14. Heather Peters, “Tattooed
Faces and Stilt Houses: Who Were the Ancient Yue?” SinoPlatonic Papers 17(April
1990), p. 7.
15. Peters, “Tattooed Faces,” p.
3. See also Rao, “Wu Yue wenhua,” p. 610; and William Meacham, “Origins and
Development of the Yue Coastal Neolithic: A Microcosm of Culture Change on the
Mainland of East Asia,” in David Keightley, ed., The Origins of Chinese
Civilization (Berkeley: U. California P., 1983), pp. 147–76.
16. Mei and Norman,
“Austroasiatics in Ancient South China,” pp. 274–301. See also E. G.
Pulleyblank, “The Chinese and Their Neighbors in Prehistoric and Early Historic
Times,” in Keightley, The Origins of Chinese Civilization, pp. 411–66.
17. Pulleyblank, “Chinese and
Their Neighbors,” p. 438.
18. Mei and Norman,
“Austroasiatics in Ancient South China,” p. 276.
19. Ibid., pp. 280–83.
20. Ibid., p. 282.
21. Ibid., p. 277.
22. Ibid., pp. 277–79.
23. Như trên. Từ Trung
Quốc cho hổ (虎); răng lớn
(ya: 牙); nỏ (nu 弩); và từ cổ xưa thời
Chu chỉ bay, hoặc
một loại muỗi (wei), là
những từ có nguồn gốc từ một nhóm
ngôn ngữ như vậy, mặc dù không có bằng chứng về mối liên hệ giữa các thuật ngữ này và người Việt; Mei và
Norman, “Austroasiatics in Ancient South China,” pp. 284–94., pp. 284-94.
Một khẳng định hơi khác của
Stephen O'Harrow, cho rằng tiếng Việt cổ có thành
ngôn ngữ chung của các nền văn hóa trải
từ miền Bắc Việt Nam đến nam Trung
Quốc trong thời đại đồ đồng;
O’Harrow, “Men of Hu, Men of Han, Men of the Hundred Man: The
Biography of Si Nhiep and the Conceptualization of Early Vietnamese Society,”
BEFEO 75(1986), pp. 249–66.
24. Peters, “Tattooed Faces,” p.
10.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét