Số phận thăng
trầm của nước Việt (II)
Eric Henry
Người dịch:
Hà Hữu Nga
Niên đại, danh sách các vua và
những gì còn lại
Quan điểm cho rằng những người trị vì nước Việt là hậu duệ
của một người con trai của Hoàng
đế nhà Hạ là 少康 Thiếu Khang
xuất hiện sớm từ sách 左傳 Tả Truyện,
trong đó chúng ta thấy 伍子胥 Ngũ Tử Tư
cảnh báo 吳夫差 Ngô Phù Sai rằng đối thủ 句踐 Câu Tiễn của ông được làm nên từ loại chất liệu
cứng rắn giống hệt như tổ tiên
xa xôi, là người đã phục hưng triều đại
của mình từ bên bờ vực tuyệt chủng.
(8)
Phiên bản sớm, chi tiết nhất của huyền thoại về
cội nguồn này xuất hiện trong một 正意 chính ý - một quan niệm chính thức - ở một đoạn
trong Sử
kí 41. Trích dẫn từ một văn bản đã mất có tên là 會稽記 Cối Kê
kí nói rằng 少康 Thiếu Khang đưa một người con trai của mình
đến khu vực 會稽山
Cối Kê Sơn để trông giữ ngôi mộ của
người sáng lập nhà 夏 Hạ là vua Đại Vũ 禹. Người con trai này được cho là 無餘 Vô Dư,
tổ sáng lập nên nhà nước 於越 Ư Việt.[吳越春秋 6: 禹以下六世而得帝少康。少康恐禹祭之絕祀,乃封其庶子於越,號曰無餘。餘始受封,人民山居,雖有鳥田之利,租貢才給宗廟祭祀之費。乃復隨陵陸而耕種,或逐禽鹿而給食。無餘質樸,不設宮室之飾,從民所居。春秋祠禹墓於會稽。Ngô Việt Xuân Thu: Vũ
dĩ hạ lục thế nhi đắc đế Thiếu Khang. Thiếu Khang khủng Vũ tế chi tuyệt
tự, nãi phong kì thứ tử ư Việt, hào viết Vô Dư. Dư thủy thụ phong, nhân
dân sơn cư, tuy hữu điểu điền chi lợi, tô cống tài cấp tông miếu tế tự chi phí. Nãi phục
tùy lăng lục nhi canh chủng, hoặc trục cầm lộc nhi cấp thực. Vô Dư chất
phác, bất thiết cung thất chi sức, tòng dân sở cư. Xuân thu từ Vũ mộ vu Cối Kê
- Sách Ngô Việt Xuân Thu viết: "Từ Vũ truyền đến đế Thiếu Khang là sáu đời. Thiếu Khang lo sợ việc cúng tế đế
Vũ tuyệt tự, bèn phong đất cho người con thứ ở Việt, tên là Vô Dư. Dư bắt đầu
nhận đất phong, người dân ở núi, cho dù phải lấy việc canh tác trên ruộng cỏ
làm lợi, thu tô và tài vật làm chi phí tế tự tông miếu. Rồi lại tùy vào lăng mộ
mà cho gieo trồng hoặc đuổi cầm thú mà cấp lương ăn. Vô Dư tính tình chất phác,
không bày đặt trang hoàng cung thất, thuận theo dân sở cư. Xuân thu cúng tế mộ
Đại Vũ tại Cối Kê." HHN chú].
Một đoạn khác trong 吳越春秋 Ngô
Việt Xuân Thu 6 đã cho thấy sự tiếp nối
của truyền thuyết này, nói rằng con cháu
của 無餘 Vô Dư cai trị hơn mười thế hệ
cho đến lúc một người kế thừa quá yếu, không còn
khả năng duy trì được địa vị trong khu vực và trở thành một
người bình thường, và mộ của
Đại Vũ bị bỏ không được trông nom trong hơn mười
năm.
Sau đó xuất hiện một
dị nhân có pháp thuật gọi được quỷ thần trợ giúp, tuyên bố rằng ông là hậu duệ của 無餘 Vô Dư và sẽ
mang lại phúc lành cho những người dân bằng việc tiếp tục chăm sóc mộ Đại Vũ. Ông được người
dân theo về rất đông, và cuối cùng thì nước Việt bắt đầu trở
thành “một nhà nước có vua quan”. Tên của nhân vật này là 無壬 Vô Nhậm. Người
con trai kế nhiệm ông là 無囗 Vô Vi (tự
vị gốc 109 có ngữ âm 瞫 Thẩm), là người cai trị siêng năng. Tuy nhiên tác giả của đoạn văn này, không
thể kể tên bất kỳ người kế
nhiệm nào của Vô Vi, vì vậy mà đây cũng chính là nơi huyền thoại truyền thuyết nguồn gốc Việt đi đến một kết cục. (9)
Trong khi các di tích khảo cổ học cho thấy rõ ràng rằng
nền văn hóa Việt mang một đặc trưng đã thành của cảnh quan nhân văn đông nam
Trung Quốc vào thiên niên
kỷ thứ hai TCN, nhưng lại vẫn không thể nói được bất cứ điều
gì rõ ràng về sự tồn tại của một nhà nước Việt trong thời này. Một số giáp cốt văn thời Thương có đề cập đến Việt, chẳng hạn
như “Việt không đến?” “Phải làm cho Việt đến chứ?” “Sẽ thu được Việt chứ?”, cho thấy sự
lo lắng về lòng trung thành
của nhóm bộ tộc hoặc vương quốc được định
danh bằng từ này. Ký tự có lẽ thể hiện từ Việt được
khắc không có tự vị gốc 走 “tẩu” như thấy trong từ Việt hiện đại. Tự vị này dường như
là một đồ hình của một chiếc qua có móc, hay một chiếc rìu. (10)
Một số tài liệu tham khảo trong sách 國語 Quốc Ngữ và các tài liệu khác nữa cho thấy một nhánh mơ hồ của dòng dõi 楚 Sở tiếp quản vùng đất Việt (phía bắc Chiết Giang) vào khoảng hai thế kỷ sau khi thành lập nhà Chu (11); do đó các nhân vật cai trị Việt xuất hiện vào cuối thời Xuân thu có thể có một mối quan hệ tổ tiên với người 楚 Sở, một khả năng hài hòa với sự hợp tác quân sự thường xuyên của Việt với Sở trong thời gian đó. Huyền thoại về dòng dõi từ 少康 Thiếu Khang của 無餘 Vô Dư, rất có thể là một sáng tác về sau nhằm làm cho các mối quan hệ của Việt với các nước láng giềng đã Hán hóa của nó trở nên êm thấm. Điều đó có thể cũng đã đóng một vai trò to lớn trong niềm tin của người dân thường Việt. Một số tên tuổi của những nhân vật cai trị Việt vào giữa thời Chiến Quốc (Vô Dư, Vô Chuyên, Vô Cương) có vẻ đã được mô phỏng theo cái tên Vô Dư, cho thấy có lẽ huyền thoại trong giai đoạn muộn có thể đã tác động mạnh hơn so với thời gian trước đó. (12) Trong thực tế, có lẽ không quá sai khi cho rằng sự sáng tạo ra 無餘 Vô Dư, con trai của Thiếu Khang, là thuộc vào giữa thời Chiến quốc, một giai đoạn giàu sáng tạo khi người ta bắt đầu tạo dựng các huyền thoại cội nguồn quốc gia .
Một số tài liệu tham khảo trong sách 國語 Quốc Ngữ và các tài liệu khác nữa cho thấy một nhánh mơ hồ của dòng dõi 楚 Sở tiếp quản vùng đất Việt (phía bắc Chiết Giang) vào khoảng hai thế kỷ sau khi thành lập nhà Chu (11); do đó các nhân vật cai trị Việt xuất hiện vào cuối thời Xuân thu có thể có một mối quan hệ tổ tiên với người 楚 Sở, một khả năng hài hòa với sự hợp tác quân sự thường xuyên của Việt với Sở trong thời gian đó. Huyền thoại về dòng dõi từ 少康 Thiếu Khang của 無餘 Vô Dư, rất có thể là một sáng tác về sau nhằm làm cho các mối quan hệ của Việt với các nước láng giềng đã Hán hóa của nó trở nên êm thấm. Điều đó có thể cũng đã đóng một vai trò to lớn trong niềm tin của người dân thường Việt. Một số tên tuổi của những nhân vật cai trị Việt vào giữa thời Chiến Quốc (Vô Dư, Vô Chuyên, Vô Cương) có vẻ đã được mô phỏng theo cái tên Vô Dư, cho thấy có lẽ huyền thoại trong giai đoạn muộn có thể đã tác động mạnh hơn so với thời gian trước đó. (12) Trong thực tế, có lẽ không quá sai khi cho rằng sự sáng tạo ra 無餘 Vô Dư, con trai của Thiếu Khang, là thuộc vào giữa thời Chiến quốc, một giai đoạn giàu sáng tạo khi người ta bắt đầu tạo dựng các huyền thoại cội nguồn quốc gia .
Cái tên Việt được đề cập đến ở sách
左傳 Tả Truyện có niên đại 601 (宣公 Tuyên Công 8)
- 544 (襄公 Tương Công 29), 538 (昭公 Chiêu Công
4), 537 (昭公 Chiêu
Công 5), 518 (昭公 Chiêu Công 24), và 506 (定公 Định Công
4). Sách 吳越春秋 Ngô
Việt Xuân Thu cũng đề cập đến một cuộc tấn công bất ngờ của người Ngô sang đất Việt vào năm
510. (13) Các mục
trong sách Tả Truyện đề cập đến một
số quan lại Việt
theo tên. Người ta có thể thấy các đoạn văn ngắn
nói rằng, từ giữa đến cuối thế kỷ thứ 6
TCN, Việt đã phải chịu rất nhiều sự thống trị của Sở, và thường bị buộc phải cung đốn cho các chiến dịch của Sở chống lại Ngô.
Thời đại của những vị vua Việt
có tên gọi, được bắt đầu vào
cuối giai đoạn Xuân Thu và kéo dài đến thời giữa và cuối Chiến Quốc. Tri thức Trung Quốc về niên
đại thực tế liên tục của các vị vua, dường như đã bị cực
kỳ lẫn lộn. Rất
có thể
là, trong số các yếu tố góp phần vào sự nhầm lẫn này còn có cả khác biệt về ngôn ngữ Việt - Trung Quốc, dẫn
đến gia tăng sự khác biệt trong cách xác định của Trung Quốc và Việt đối với cùng
một nhân vật, một sự thờ ơ về độ chính xác về phía những người cung cấp thông tin Việt, mà kẻ hỏi là người Trung Quốc, và việc
tổ chức tương đối hỗn loạn,
cũng như nhiều khi có vô số quốc gia hoặc các thực
thể khác được gọi là “Việt”. Những gì chúng
ta có ngày hôm
nay là ba
danh sách vua Việt phần lớn không thống nhất, một là danh sách trong 史記 Sử
kí 41, một danh sách trong 越絕書 Việt Tuyệt thư 10, và một
danh sách nữa dựa trên một văn bản mà tính xác thực của nó đã trở
thành một chủ đề tranh luận đáng kể: 竹書紀年 - Trúc thư
kỷ niên - Biên niên sử
Thẻ tre không được tái phục hồi. Trong ba nguồn, chỉ có nguồn
Trúc thư cung cấp nhiều
thông tin rời rạc liên
quan đến các niên đại. Các danh sách của 史記 Sử
kí và 越絕書 Việt Tuyệt
Thư rất đơn giản, gọn gàng, và cung cấp một ít thông tin chi tiết. Danh sách của Trúc thư lộn xộn, phức tạp, và
cung cấp một ít thông tin gián tiếp. Tác giả của bình luận 史記 Sử kí 41, 索隐 Tác Ẩn cho biết chi tiết hơn về quá trình nỗ lực để điều
chỉnh cho khớp danh sách của
Trúc thư với danh sách của Sử kí.
Vị
vua Việt sớm nhất được đề cập
trong Sử kí 41 là 允常 Doãn Thường,
người xuất hiện ở gần phần đầu của
chương với tư cách là người tiền
nhiệm của Câu Tiễn. Mặc dù Sử kí 41 không đề
cập đến sự kiện đó, nhưng nó phải thuộc thời trị vì của Doãn Thường khi, vào năm 506, Việt đã tấn công Ngô, bằng cách lợi dụng tình thế 1) sự vắng
mặt của quân đội nhà Ngô, vì họ đang bận tập trung vào vùng kinh đô Sở; và 2) sự phân chia bè
phái trong triều đình nhà Ngô. Vị vua này được coi là vị vua Việt đầu tiên nhận
tước “Vương”. (14)
Hầu hết những gì có trong Sử kí 41 đều liên quan đến
các truyền thuyết
nổi tiếng gắn liền với sự trị vì
của Câu Tiễn. Sau đó, ở phần gần cuối chương này,
chúng ta được biết:
“Khi 勾踐 Câu Tiễn chết, con trai ông 於賜 Ư Tứ hay còn gọi là 與夷 Dữ Di hoặc 越王鹿郢 Việt vương Lộc Dĩnh lên ngôi. Khi Dữ Di chết, con trai ông 越王不壽 Việt vương Bất Thọ lên ngôi. Khi Việt vương Bất Thọ chết, con trai ông 越王朱勾 Việt vương Chu Câu hoặc 王翁 Vương Ông lên ngôi. Khi Vương Ông chết, con trai ông 越王翳 Việt vương Ế lên ngôi. Khi Vương Ế chết, con trai ông 越王 錯 枝 Việt vương Thác Chi, còn gọi là 搜 Sưu - lên ngôi. Khi Việt vương Thác Chi chết, con trai ông 越王 無余 Việt vương Vô Dư, còn gọi 莽安 Mãng An, 之侯 Chí Hầu Vương Vô Cương lên ngôi ". (15)
Sau đó chúng
ta được biết rằng 越王無余 Việt vương Vô Dư tấn công 齊 Tề (339-329), nhưng ngay
sau khi được một thuyết khách giỏi giang người Tề thuyết phục thay vì tấn công 楚 Sở,
Sở Uy vương (r. 339 -
329) đã huy động một đội quân lớn đánh bại Việt, giết Việt
vương Vô Cương, và sát nhập tất cả lãnh thổ trước đó thuộc đất
Ngô, tất cả vùng
đất đến sông Chiết (Chiết Giang). Sau sự kiện này, câu chuyện tiếp tục,
Việt tan rã thành các nhóm khác nhau do các vị vua và các lãnh chúa dẫn dắt, tất cả đều thề trung thành với Sở. Ở một mức độ nhất
định trường hợp này sẽ được thảo luận chi
tiết dưới đây.
Danh sách của Việt Tuyệt thư 越絕書 bắt đầu, không
có Doãn Thường, nhưng người tiền nhiệm trực tiếp của ông lại được xác định là 夫譚 Phú Đàm:
“Có một khoảng cách thời gian rất lớn từ Việt vương 夫譚 Phú Đàm đến người sáng lập 無余 Vô Dư; các thế hệ giữa họ không thể được xác định. Con trai Phú Đàm là 允常 Doãn Thường và con trai Doãn Thường là Câu Tiễn, một vị đại bá, tự xưng vương và dời đô tới 琅琊 Lang Da. Con trai Câu Tiễn là 與夷 Dữ Di; trong thời mình, ông cũng là một bá chủ. Con trai 與夷 Dữ Di là 子翁 Tử Ông cũng là một bá chủ. Con trai 子翁 Tử Ông là 不揚 Bất Dương cũng trở thành bá chủ. Con trai của 不揚 Bất Dương là 無疆 Vô Cương cũng là một bá chủ trong thời mình. Ông tấn công Sở. Sở Uy vương 楚 威王 (Tên thật là 熊商 Hùng Thương) đã tiêu diệt Vô Cương. Con trai Vô Cương là Chi Hầu; ông lén lút tôn mình thành quân trưởng. Con trai Chi Hầu là Tôn cũng tự xưng quân trưởng. Con trai Tôn là Thân, đã mất sự ủng hộ của thần dân. Sở tấn công ông, và ông phải chạy đến vùng Nam Sơn. Các hậu duệ Việt vương kể từ Thân ngược lên đến Câu Tiễn, tất cả được tám đời, định đô ở 琅琊 Lang Da được 224 năm. Những người từ Vô Cương ngược trở về trước đều là các vị bá chủ và tự gọi mình là vương. Những người từ Chi Hầu về sau đã suy yếu và tự gọi mình là 君長 quân trưởng. (16)
[越絕書‧外傳‧記地傳:
越王夫鐔以上至無餘,久遠,世不可紀也。夫鐔子允常。允常子句踐,大霸稱王,徙瑯琊,都也。句踐子與夷,時霸。與夷子子翁,時霸。子翁子不揚,時霸。不揚 子無疆,時霸,伐楚,威王滅無疆。無疆子之侯,竊自立為君長。之侯子尊,時君長。尊子親,失眾,楚伐之,走南山。親以上至句踐,凡八君,都瑯琊二百二十四 歲。無疆以上,霸,稱王。之侯以下微弱,稱君長。“Việt tuyệt thư Ngoại truyện: Kí địa
truyện”: Việt vương Phu Đàm dĩ thượng chí Vô Dư, cửu viễn, thế bất khả kỉ
dã. Phu Đàm tử Doãn Thường. Doãn Thường tử Câu Tiễn, đại bá xưng vương, tỉ
Lang Da, đô dã. Câu Tiễn tử Dữ Di, thì bá. Dữ Di tử Tử Ông, thì bá. Tử Ông tử Bất
Dương, thì bá. Bất Dương tử Vô Cương, thì bá, phạt Sở, Uy vương diệt Vô
Cương. Vô Cương tử Chi Hầu, thiết tự lập vi quân trưởng. Chi Hầu tử Tôn,
thì quân trưởng. Tôn tử Thân, thất chúng, Sở phạt chi, tẩu Nam Sơn. Thân
dĩ thượng chí Câu Tiễn, phàm bát quân, đô Lang Da nhị bách nhị thập tứ tuế.
Vô Cương dĩ thượng, bá, xưng vương. Chi Hầu dĩ hạ vi nhược, xưng quân trưởng. “Việt tuyệt thư Ngoại truyện: Kí địa
truyện” viết: “Một khoảng thời
gian dài bị đứt quãng giữa Việt vương Phu Đàm và Việt vương Vô Dư; thế thứ
không thể ghi chép được. Con của Phu Đàm là Doãn Thường. Con của Doãn Thường là
Câu Tiễn, trở thành đại bá, xưng vương, rồi rời đô về Lang Da. Con của Câu Tiễn
là Dữ Di là bá chủ. Con của Dữ Di, Tử Ông cũng là bá chủ. Con của Tử Ông, Bất
Dương vẫn bá chủ. Con của Bất Dương là Vô Cương kế tục ngôi bá chủ, đem quân
chinh phạt nước Sở, bị Sở Uy vương tiêu diệt. Con của Vô Cương, Chi Hầu tự lập
thành quân trưởng. Con Chi Hầu, tên Tôn, vẫn ngôi quân trưởng. Con của Tôn là
Thân, không được lòng người, bị Sở đem quân chinh phạt, bèn chạy về vùng Nam
Sơn. Kể từ Thân ngược lên đến Câu Tiễn có tất cả tám đời vua, đóng đô ở Lang Da
224 năm. Từ Vô Cương ngược lên thảy đều làm bá và tự xưng vương. Từ Chi Hầu trở
đi suy yếu nên xưng quân trưởng [HHN chú].
Hai cách giải thích cùng xuất hiện để mô tả một khoảng thời gian kéo dài đến khi Sở diệt Vô Cương, mở ra một thời kỳ tan rã và suy yếu của Việt. Tuy nhiên nhiều chi tiết khác lại không thể ăn khớp với nhau. Một bất thường đặc biệt nổi bật ở trên là sự xuất hiện của cái tên 之侯 Chi Hầu trước Vô Cương trong danh sách của Sử kí, nhưng lại sau Vô Cương trong danh sách của Việt Tuyệt Thư. Điều này cho thấy khả năng tồn tại đồng thời của nhiều hơn một chính thể Việt cả trước khi có sự tan rã của Việt được đề cập trong Sử kí, cùng với khuynh hướng về phần chính thể Việt của Sử kí đã gây nhầm lẫn hoặc gộp các chính thể ấy làm một. Khẳng định của Việt Tuyệt Thư cho rằng tất cả những người cai trị từ Câu Tiễn đến Thân đều định đô ở xa về phía bắc tại 琅琊 Lang Da cũng là điều đáng kinh ngạc, vì có vẻ rõ ràng là Sở đã chiếm tất cả những gì đã từng là nước Ngô sau khi tiêu diệt Vô Cương. Nếu điều đó là đúng, thì chúng ta phải tưởng tượng một nước Việt nhỏ bé cùng tồn tại vào cuối thời kỳ Chiến Quốc với nhiều thực thể “Việt” nhỏ bé khác kéo dài từ Chiết Giang về phương nam.
Hai cách giải thích cùng xuất hiện để mô tả một khoảng thời gian kéo dài đến khi Sở diệt Vô Cương, mở ra một thời kỳ tan rã và suy yếu của Việt. Tuy nhiên nhiều chi tiết khác lại không thể ăn khớp với nhau. Một bất thường đặc biệt nổi bật ở trên là sự xuất hiện của cái tên 之侯 Chi Hầu trước Vô Cương trong danh sách của Sử kí, nhưng lại sau Vô Cương trong danh sách của Việt Tuyệt Thư. Điều này cho thấy khả năng tồn tại đồng thời của nhiều hơn một chính thể Việt cả trước khi có sự tan rã của Việt được đề cập trong Sử kí, cùng với khuynh hướng về phần chính thể Việt của Sử kí đã gây nhầm lẫn hoặc gộp các chính thể ấy làm một. Khẳng định của Việt Tuyệt Thư cho rằng tất cả những người cai trị từ Câu Tiễn đến Thân đều định đô ở xa về phía bắc tại 琅琊 Lang Da cũng là điều đáng kinh ngạc, vì có vẻ rõ ràng là Sở đã chiếm tất cả những gì đã từng là nước Ngô sau khi tiêu diệt Vô Cương. Nếu điều đó là đúng, thì chúng ta phải tưởng tượng một nước Việt nhỏ bé cùng tồn tại vào cuối thời kỳ Chiến Quốc với nhiều thực thể “Việt” nhỏ bé khác kéo dài từ Chiết Giang về phương nam.
Các tài liệu tham khảo về Việt trong Trúc thư bắt đầu với
năm 472, khi Câu Tiễn chinh phục và tiêu
diệt Ngô. (17) Từ đó trở đi, các mục liên quan đến Việt, luôn luôn thuộc về dạng có hai âm tiết như Ư Việt, là rất nhiều và tương đối nhiều thông tin, nhưng các chi tiết được cung cấp dường như đôi
khi chỉ mong manh liên quan với những gì được ghi trong Sử kí và Việt Tuyệt Thư. Những gì tiếp theo là lịch sử Việt
thuộc các thế kỷ thứ 5 và thứ 4 theo nguồn này, cùng với
ý kiến của tôi để
lấp chỗ trống:
Vào năm 468, thủ đô của Ư
Việt đã được chuyển
đến 琅琊 Lang Da. (Vị
trí này ngày nay nằm ở phía tây tỉnh Sơn Đông, gần
các nước Lỗ và Tề. Động thái dời đô này cho thấy rằng Câu Tiễn đã thừa hưởng tham vọng của 吳夫差 Ngô
Phù Sai để được công nhận là bá
chủ các quốc gia phương bắc. Việt
Tuyệt Thư 10 có kể câu chuyện về một chuyến
thăm của 魯哀公 Lỗ Ai Công đến Lang Da sau khi trở thành kinh đô của nước Việt.
Năm 465 Việt hầu Câu Tiễn của Ư Việt, được biết
đến là 菼執 - Thảm Chấp, người cầm
bông lau - đã qua đời, và con
trai ông là Lộc Dĩnh thừa kế ngôi vị. (Người
ta cho rằng 菼執 Thảm Chấp là phiên bản
tiếng Việt
của cái tên Câu Tiễn. Tôi nghĩ ngược lại mới thích hợp,
vì âm tiết “câu” xuất hiện trong những
cái tên khác của các nhà cai
trị Việt. “Gou Jian” - Câu Tiễn không có nghĩa trong tiếng Trung Quốc. “Thảm Chấp” có nghĩa là “người cầm bông lau”. Điều này sẽ
được thảo luận chi tiết hơn trong phần tiếp theo. Vì đối với 越王鹿郢 Việt vương
Lộc Dĩnh, mà tác giả của các lời bình “Tác Ẩn” có trích dẫn một
bậc phu tử
Việt là 樂子 Nhạc Tử nói rằng 鼫與 Thạch Dữ,
cái tên được đặt cho người kế nhiệm Câu Tiễn trong Sử kí, chính là tên Việt của 鹿郢 Lộc Dĩnh, nhưng có vẻ
như không có lý do gì mà điều ngược
lại không thể xảy ra. Việt Tuyệt Thư sử dụng cái tên 與夷 Dữ Di cho vị này.)
[勾踐卒,【索隱】紀年云:「晉出公 十年十一月,於粵子勾踐卒,是為菼執。」子王鼫與立 。【索隱】鼫音石。與音餘。按:紀 年云「於粵子勾踐卒,是菼執。次鹿郢立,六年卒」。樂資云「越語謂鹿郢為鼫與也」。王 鼫與卒,子王不壽 立。王不壽卒,【索隱】紀年云:「不壽立十年見殺,是為盲姑。Câu
Tiễn tốt, [Tác Ẩn] kỉ niên vân: Tấn xuất công thập niên thập nhất
nguyệt, Ư Việt tử Câu Tiễn tốt, thị vi Thảm Chấp. Tử vương Thạch Dữ lập. [Tác Ẩn]
thạch âm thạch. Dữ âm dư. Án: kỉ niên vân Ư Việt tử Câu Tiễn tốt, thị Thảm Chấp.
Thứ Lộc Dĩnh lập, lục niên tốt. Nhạc Tư vân Việt ngữ vị Lộc Dĩnh vi Thạch Dữ
dã. Vương Thạch Dữ tốt, tử Vương Bất Thọ lập.
Vương Bất Thọ tốt, [Tác Ẩn] kỉ niên vân: Bất Thọ lập thập niên kiến
sát, thị vi Manh Cô - Câu Tiễn chết [Tác Ẩn] kỉ niên (ghi chép chuyện
trong năm) viết: Tấn đánh mười năm mười một tháng, người Ư Việt là Câu Tiễn chết,
Đó chính là Thảm Chấp [nghĩa đen: người cầm cây/bông lau sậy] vậy. Con là Vương
Thạch Dĩnh kế vị. [Tác Ẩn] Thạch (鼫)
âm là thạch (石).
Dữ (與)
âm là dư (餘).
Lời
bàn: kỷ niên viết: Câu Tiễn người Ư Việt chết, là Thảm Chấp. Con thứ Lộc Dĩnh kế
vị, được sáu năm thì mất. Nhạc Tư nói: “Đối với Việt ngữ thì Lộc Dĩnh chính là
Thạch Dữ vậy”. Việt vương Thạch Dữ chết, con là Bất Thọ kế vị. Việt vương Bất
Thọ chết, [Tác Ẩn] kỉ niên viết: Bất Thọ ở ngôi mười năm thì bị giết, đó là
Manh Cô vậy].
Năm 459, 鹿郢 Lộc Dĩnh chết và người kế nhiệm là 不壽 Bất Thọ.
Năm 449, 於越侯 Ư Việt hầu 不壽 Bất Thọ bị giết; ông là nhân vật được gọi là 盲姑 Manh Cô. Người kế vị ông là 諸勾 Chư Câu. (Ở đây, rõ ràng là cái tên này không có nghĩa trong tiếng Trung Quốc, còn 盲姑 Manh Cô chính là tên gọi Việt của 不壽 Bất Thọ. Mặt khác, Bất Thọ, “không thọ”, thì lại hoàn toàn là cái tên có nghĩa trong tiếng Trung Quốc đối với một người cai trị bị ám sát vào năm thứ 10 trị vì của ông. 諸勾 Chư Câu rõ ràng là vị vua được gọi là 王翁 Vương Ông trong danh sách Sử kí. 諸勾 Chư Câu có vẻ là tên Việt, vì 1) nó không có nghĩa trong tiếng Trung Quốc, và 2) cả hai âm tiết trong cái tên của vị vua Việt đều không có nghĩa trong tiếng Trung Quốc.)
Năm 416, Ư Việt tiêu diệt nước 滕 Đằng.
Năm 415, 於越侯 Ư Việt Hầu 諸勾 Chư Câu, tấn công nước 郯 Đàm và bắt sống Đàm hầu tên là 鴣 Cô. (Cả hai quốc gia này đều gần Lang Da. Theo một đoạn trong 墨子 Mặc Tử, thì Việt cùng với Tề tham gia vào việc chia cắt lân bang nhỏ bé là nước 筥 Cử cùng khoảng thời gian này. Một đoạn trong Chiến quốc sách cho thấy nước 繒 Tăng kề bên cũng bị Việt chinh phục. 墨子 Mặc Tử nói rằng Việt cùng với Tề, Tấn, và Sở là bốn quốc gia hiếu chiến nhất thời đó. Mặc tử còn nói rằng Việt thường chiếm ưu thế trong các cuộc đụng độ với Sở, vì các sông ở phương nam đều chảy về phía đông làm cho Sở khó xoay trở, nhưng lại dễ dàng cho Việt.) (18) [《墨子•非攻中》:“東方有莒之國者,其為國甚小,間於大國之間,不敬事於大,大國亦弗之從而愛利。是以東者越人來削其壤地。西者齊人兼而有之。計莒之所以亡於齊越之間者,以是攻戰也。”“Mặc tử - Phi công trung”: “Đông phương hữu Cử chi quốc giả, kì vi quốc thậm tiểu, gian ư đại quốc chi gian, bất kính sự ư đại, đại quốc diệc phật chi tòng nhi ái lợi. Thị dĩ đông giả Việt nhân lai tước kì nhượng địa. Tây giả Tề nhân kiêm nhi hữu chi. Kế Cử chi sở dĩ vong ư Tề Việt chi giả gian, dĩ thị công dã chiến.” - Phương đông có nước Cử, nước đó quá nhỏ, nằm giữa các nước lớn, nhưng bất kính với cái lớn của họ, đại quốc chẳng qua cũng chỉ là hám lợi. Vậy là ở phía đông, người Việt liền đến đoạt lấy vùng đất màu mỡ ấy. Phía tây người Tề cũng chiếm lấy những gì chiếm được. Kể ra thì nước Cử mất vào tay Tề Việt cũng là do đánh lấy vậy]
Năm 413, Ư Việt hầu 諸勾 Chư Câu chết và con
trai ông là Ế kế vị (Đây chính
là 越王翳 Việt vương Ế trong
danh sách Sử kí.)
Năm 379, 於越 Ư Việt chuyển đô về đất Ngô.
Năm 376, tháng bảy, 诸咎, Chư Cữu thái tử của 於越 Ư Việt, giết chết 越王翳 Việt vương Ế. Tháng mười, người Việt nổi lên giết 诸咎 Chư Cửu, còn được gọi là 越滑 Việt Cốt. Sau đó người Ngô [nghĩa là những người Việt ở kinh đô hiện thời của Việt mà trước đây là kinh đô của nước Ngô] đưa 孚錯枝 Phú Thác Chi lên ngôi.
Năm 375, 寺區, Tự Âu một đại quan của Ư Việt, đã
giúp dẹp nội loạn và đưa 初無余 Sơ Vô Dư
lên ngôi; đó chính là 莽安 Mãng An. (Vị Việt
vương này có lẽ cũng
chính là 王之侯 Vương Chi Hầu trong danh sách của
Sử
kí.)
Năm 365, 思 Tư là em trai của 寺區 Tự Âu, giết Việt vương Mãng An. Người kế vị ông là 無顓 Vô Chuyên. (Danh sách trong Sử kí dường như đã gộp 無顓 Vô Chuyên với người kế vị ông là 無彊 Vô Cương làm một có lẽ do sự tương đồng về tên của họ. Nhà chú giải “Tác Ẩn”, lại một lần nữa dẫn “Việt Phu tử” Nhạc Tử cho thấy rằng 無顓 Vô Chuyên cũng chính là nhân vật tên là 子搜 Tử Sưu được nói đến trong Nhượng vương thiên của 莊子 Trang Tử: 《莊子讓王篇》,曰:“越人三弒其君,子搜患之,逃乎丹穴不肯出,越人薰之以艾,乘以王輿”。Trang tử, Nhượng vương thiên”, viết: “Việt nhân tam thí kì quân, Tử Sưu hoạn chi, đào hồ đan huyệt bất khẳng xuất, Việt nhân huân chi dĩ ngải, thừa dĩ vương dư”. Người Việt ba lần giết vua. Vì thế 子搜 Tử Sưu lo sợ chạy trốn vào động 丹穴 Đan Huyệt, quyết không ra. Người Việt lấy lá ngải đốt khói hun ông rồi đưa lên kiệu vua khiêng về.]
___________________________________________
Nguồn: Eric Henry 2007. The Submerged History
of Yuè, Victor H. Mair, Editor Sino-Platonic Papers, Department of
East Asian Languages and Civilizations, University of Pennsylvania,
Philadelphia, PA 19104-6305 USA, Number
176 May, 2007.
Tác giả: Giáo sư Đại
học North
Carolina, Tiến sỹ năm 1979 về Văn học Trung Quốc, Khoa Ngôn ngữ Đông Á, Đại học Yale., Đề tài “Hý kịch Trung Quốc,
Giới thiệu các vở kịch của Lý Ngư - Chinese Amusement: An Introduction to
the Plays of Li Yü”; Nghiên cứu tiếng Hán tại International University Program
for Chinese Language Studies at the Stanford Center in Taipei; Nghiên
cứu tiếng Việt tại Defense Language Institute Support Command. Biết tiếng Trung
Quốc, Pháp, Ý, Việt.
Chú thích
8. The
Shàokāng restoration story, with some variation in detail, actually occurs
twice in Zuŏ-zhuàn, first in an admonition allegedy directed by Wèi Jiàng to
Jìn Dào-gōng in 569 (Xiàng-gōng 4, second-to-last item) and then in an
admonition allegedly delivered by Wǔ Zǐ Xū to Fūchāi in 494 (Ai-gōng 1, second
item).
9. Zhào Yè,
Wú Yuè Chūnqiū, with translation and annotation by Zhāng Jué (Taibei: Táiwān
Gǔjī Chūbǎn shè, 1996), juàn 6 (“Yuèwáng Wú Wàizhuàn”), pp. 283-85.
10. Yáng
Shànqún, Gōu Jiàn, Taipei: Zhīshūfáng Chūbănshè, 1993, pp. 3-4.
11. Guóyǔ 16
(“Zhèng yǔ”) refers to Yuè and to another state (Kuǐ), as belonging to the
surname (Mí ٪)
of the rulers of Chǔ.
In his notes to Guóyǔ 19 (“Wúyǔ) the Three
Kingdoms commentator Wèi Zhāo says that Gōu Jiàn was “of the progeny of Zhūróng,” the fire god said to have been the
ultimate ancestor of the kings of Chǔ. Mòzǐ, “Fēi Gōng Xià” says that the king
of the state of Yuè (there characterized as one of the “four great powers of
the era,” along with Qí, Jìn, and Chǔ) “sprang from Yǒu Jù” Sūn Yíràng has
suggested, in his Mòzǐ
Xiángū, that this is probably a reference to the Chǔ ruler Xióng Qú (c. 887
BCE). Shǐjì 40 (“Chǔ Shìjiā,” p.1692) says that Xióng Qú established his
youngest son Zhí Cī as “Yuè Zhāng Wángˮ”. It is possible that this refers to
the original enfieffment that lay behind the emergence of Yuè in later times.
Shì Ben, a late Warring States text, also affirms the rulers of Yuè belonged to
the Chǔ lineage. See Yáng Shànqún, Gōu Jiàn, Taipei: Zhīshūfáng Chūbănshè,
1993, pp. 5-6.
12. The
author of the “Suǒyǐn” notes appended to Shǐjì 41 at one point suggests that
the triple recurrence in mid Warring States times of these initial “Wú”s may
mean that it was a surname. This reflects a sinocentric misunderstanding of Yuè
naming practices. A likelier possibility is that this wú meant “ruler” in Yuè,
being cognate, perhaps, with “vua” in Mường and Vietnamese. Its placement at
the beginning of each
designation in which
it occurs is
quite in accord with Austroasiatic syntax.
13. Zhào Yè,
Wú Yuè Chūnqiū, with translation and annotation by Zhāng Jué (Taibei: Táiwān Gǔjí
Chūbăn shè, 1996), juàn 4 (“Hélǘ Nèizhuàn”), p.135.
14. The
author of the “Zhèng Yì” commentary to Shǐjì 41, says that this ruler “expanded
his territory, made his state great, and proclaimed himself wáng.”
15. Shǐjì,
(Beijing, Zhōnghuá Shūjú, 1959), juàn 41, “Yuèwáng Gōu Jiàn Shì Jiā,” p. 1751.
16. Liú
Jiànguó (editor and translator), Xīn Yì Yuèjuéshū (Taibei: Sānmín Shūjú, 1997),
juàn 8 (Chapter 10), pp. 69-70. Scattered references to other Yuè rulers occur
in Chapter 3 of this work in connection with various sites in the old capital
area of Wú. These figures, however, are neither located in time nor arranged in
chronological series, so it is not clear whether they were rulers of the
principal Yuè state or of smaller Yuè groups. One such figure is “Yúfù Jūn”,
said to have ruled a place called
Fùchéng ; another is “Yuè Gān-wáng”ˮ who
ruled Gānchéng, and another is “Wáng Shǐ” ˮ̦, associated
with a large grave on Mount Yuān, and yet another is Yuè Jīng-wáng ˮ. Another
site is said to be the grave of a Yuè king whose name was unknown to the 1st
century CE writer. See Ibid, juàn 2, Chapter 4, pp. 42-66.
17. This and
all subsequent references to the Bamboo Annals are based on the text and
translation contained in: James Legge, The Chinese Classics, Volume III: The
Shoo King or The Book of Historical
Documents (Hong Kong
University Press Reprint
Edition, 1960), Prolegomena, Chapter IV, pp.105 - 183. Due to
a problem in Legge’s date conversion system, a one year error occurs in each
dated entry; e.g. 471 BCE instead of 472; this problem has been corrected here.
18. Yáng
Shànqún, Gōu Jiàn, Taipei: Zhīshūfáng Chūbănshè, 1993, pp. 171-72.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét