Bản sắc của người Khách Gia ở Trung Quốc (I)
Ricky Heggheim
Người
dịch: Hà Hữu Nga
I. Lịch sử và Quê gốc của người
Khách Gia
Một chủ đề luôn gây tranh cãi giữa các học giả Khách Gia (Hakka, Hẹ) thậm chí cho đến hôm nay, đó là nguồn gốc của tổ tiên họ. Các sử gia kỳ cựu người Khách Gia, như cố học giả La Hương Lâm (1) [罗香林,音标,读音,翻译,英文例句,英语词典-Ngữ âm học, cách phát âm, cách dịch, câu tiếng Anh, Từ điển Tiếng Anh - HHN], luôn khẳng định rằng vấn đề chính về nguồn gốc của người Khách Gia mà chúng ta biết là miền bắc Trung Quốc. Quan điểm này được nhiều nhà nghiên cứu Hakka khác đồng ý, chẳng hạn như Cohen (1968), Constable (1994), Hsieh (1991), S.T. Leong (1985), Lo Wan (1965), Moser (1985), Jerry Norman (1988), Ramsey (1987) (2). Họ không hoàn toàn đồng ý về thời gian xảy ra các cuộc di cư của người Khách Gia từ miền Bắc, và bao nhiêu lần họ lang bạt xuống phương Nam, nhưng tất cả đều đồng ý rằng người Khách Gia hiện nay là hậu duệ từ nhóm người này. Một số học giả Khách Gia gần đây đã tiến hành các nghiên cứu và công bố các bài viết thách thức giả định này. (3) Lý thuyết mới này đang gây tranh cãi. Nguyên do của vấn đề này là ở niềm tin phổ biến rằng tổ tiên của Khách Gia ngày nay là từ phương bắc và bắt đầu di cư về phía nam vào khoảng thế kỷ thứ tư (4), và chúng tôi sẽ đề cập đến vấn đề này ở phần sau, và niềm tin này có thể đóng vai trò quan trọng trong việc xác định nguồn gốc người Khách Gia.
Cho
dù vấn đề nguồn gốc vẫn còn là một câu hỏi, nhưng có vẻ rõ ràng là một nhận thức (trí tưởng tượng truyền
thống) (5) về lịch sử chung được coi như là nhân tố xác định và thống nhất tất
cả những người Khách Gia với nhau. Vì tôi đã từng đến
ba nơi định
cư của người Khách Gia để thực hiện công trình nghiên cứu của tôi, nên tôi có ấn tượng rằng niềm tin này là phổ biến và hầu hết người Khách
Gia quan tâm đến nguồn gốc và
cội rễ của họ đều tin như vậy.
Một người Khách Gia, như bất kỳ nhóm tộc người nào khác, đều thuộc về một nhóm chủng người, ngôn ngữ, tôn giáo và phong tục tập quán. (6)
Câu
trích dẫn trên chỉ là một trong nhiều
trích dẫn xác định một người Khách Gia nghĩa là gì. Tuy nhiên định nghĩa được
một số học giả ưa thích hơn, đó
là người Khách Gia là người tự
nhận mình là Khách Gia, đồng thời được những
người khác coi mình là người Khách Gia. (7) Nhưng như
Nicole Constable nhấn
mạnh trong nghiên cứu của
mình, định nghĩa này là không đủ, và nó không
được tất cả mọi người
chấp nhận. Vì vậy, trong tiểu luận này chúng tôi sử dụng các ước đoán không được coi là đương
nhiên.
Sự
hiểu biết và cách sử dụng ngôn ngữ và văn
hóa Khách Gia thay đổi ở một mức độ lớn giữa các cộng đồng khác nhau, và
đôi khi ngay cả trong một cộng
đồng. Kinh nghiệm của tôi trong lĩnh vực này đã cho thấy các
khuynh hướng này là phổ biến. Tại Hồng Kông, tôi đã gặp
những đứa trẻ thường xuyên nói tiếng Khách Gia ở nhà, nhưng
khi chơi với trẻ em cùng tuổi, chúng lại không bao giờ nói một từ
tiếng Khách Gia. Cho
dù cả hai đều sống trong cùng một
làng Khách Gia, và
đều có cha mẹ là người Khách Gia. Điều này, mặc dù chỉ
với số lượng nhỏ, nhưng
đã cho thấy ở một khía cạnh nào đó, vẫn có những khác biệt rất lớn, ngay cả trong các cộng đồng này. Những khác biệt này đôi khi có vẻ trùng hợp khá ngẫu nhiên, có nghĩa là những lý do chính cho sự phân biệt
đáng kể ấy có thể không cố ý, nhưng lại
là kết quả của sự tiện lợi và các
lý do thực tế. Một số trẻ em
có thể sống với cha mẹ, hơn
nữa còn có cả ông bà cũng là người Khách Gia. Một số bậc ông bà có thể không nói
được nhiều thứ tiếng và vì
vậy mà ngôn ngữ được sử dụng trong
nhà phải là tiếng
Khách Gia chứ không phải
là tiếng Quảng
Đông.
1.1 Đối tượng và tiêu điểm nghiên
cứu
Trong nghiên cứu của mình, tôi đã cố gắng thu hẹp tiêu điểm của tôi vào vấn đề người Khách Gia ý thức như thế nào về văn hóa, lịch sử và bản sắc của họ. Và trước hết, việc họ vừa là người Trung Quốc vừa là người Khách Gia sẽ tác động ra sao đến ý thức của họ về bản sắc Khách Gia của mình. Câu hỏi của tôi là như sau: Khi nào họ là Hán, và khi nào họ là Khách Gia? Liệu có phải đó là tính linh động trong thực chất bản sắc của họ? Có đúng là ý thức về bản sắc của họ phụ thuộc vào môi trường xung quanh và tình huống trực tiếp trước mắt? Có sự khác biệt đáng kể ở người Khách Gia trong các môi trường khác nhau khi bắt tay vào nghiên cứu và xử lý vấn đề về bản sắc của họ không?
Có phải những người Khách Gia ở một
vùng như Vân Nam trong môi trường quen thuộc nhất với họ là các dân tộc thiểu số
khác thì họ ý thức về tộc tính Hán của họ nhiều hơn và nhấn mạnh hơn đến việc họ
là Hán, so với người Khách Gia ở Hồng Kông, nơi mà hầu hết những người xung
quanh là người Trung Quốc Hán, hoặc ở Mai Châu, nơi mà người Khách Gia chiếm ưu
thế còn các dân tộc khác thì khó mà bì được với họ không? Có thể là như vậy khi
tôi tính đến các lý thuyết cho rằng tộc người phụ thuộc vào các hoàn cảnh và
các nhóm tộc người chỉ xuất hiện khi họ tương tác thường xuyên với các nhóm
khác. (8) Ở Vân Nam nơi các dân tộc thiểu
số khác chiếm ưu thế, thì các “tính Hán” của người
Khách Gia sẽ trở nên nổi bật, vì họ vừa là Hán vừa là Khách Gia. Điều quan trọng là
phải nhớ rằng ở Trung Quốc,
và đặc biệt là ở
người Khách Gia, việc
là người Trung Quốc-Hán mang đến một vị thế nhất định (9), và khi xung quanh là các dân tộc thiểu số khác, thì
bản sắc Hán của họ sẽ là “độc đáo” và là thuộc tính phân biệt họ với những dân tộc khác. Ngược lại, người
Khách Gia tại Hồng Kông sẽ
có ý thức mạnh
hơn về bản sắc Khách
Gia và tính độc đáo của mình bởi vì hầu như tất cả mọi người xung
quanh họ đều là Trung Quốc-Hán. Cái phân
biệt họ với những người
khác ở đây chính
là bản
sắc Khách Gia của họ, và sẽ tự nhiên hơn để tin rằng nó được nhấn mạnh và được
duy trì. Khi nói
đến những người ở
Mai Châu, chúng tôi cho rằng ý thức của
họ về tộc người sẽ ít rõ ràng hơn so với những người khác vì người Khách Gia Mai Châu sống
tương đối biệt lập với những nhóm tộc người khác, và do đó sẽ có ít cơ hội để phát
triển ý niệm là họ khác với những người khác.
Tuy nhiên, đây chỉ là những giả định của tôi trước
khi bắt đầu công việc
thực địa, và như tôi sẽ mô tả trong các phần sau, kết quả hóa ra là hoàn toàn khác
với những gì tôi mong đợi.
Tôi muốn nghiên cứu cộng đồng Khách Gia ở một nơi mà người Khách Gia rõ ràng là thiểu số, nơi mà các dân tộc thiểu số phi-Hán khác (ít nhất là ở một mức độ nhất định) chiếm địa vị thống trị. Vì vậy, tôi đã chọn Vân Nam và Côn Minh là nơi đầu tiên để tiến hành công việc thực địa. Khi đến Vân Nam tôi biết được rằng hầu hết những người Khách Gia tỉnh này đã phân bố ở khắp nơi trong tỉnh, và hầu như không thể xác định được vị trí tập trung. Rất may là ở Côn Minh có Trung tâm Nghiên cứu Khách Gia Vân Nam. Mặc dù tên gọi như vậy, nhưng cơ quan này, về cơ bản là nơi tập hợp người Khách Gia tại Vân Nam, và đặc biệt là Côn Minh. Thông qua trung tâm này, tôi đã liên lạc với cộng đồng Khách Gia trong thành phố và do đó tôi đã có thể tiến hành công việc thực địa của mình. Tôi ở Côn Minh hai tuần và đã nói chuyện với một số người Khách Gia sống trong vùng. Hầu hết những người Khách Gia tôi gặp là cựu sinh viên đến tỉnh này từ quê hương của họ ở Quảng Đông vào những năm cuối thập niên 50 hoặc đầu thập niên 60, và tôi cũng gặp cả gia đình của họ.
Tôi cũng muốn thấy người Khách
Gia trong một môi trường khác. Vì vậy,
tôi đã chọn Mai Châu làm
trạm dừng chân tiếp
theo. Ở Mai Huyện, hoặc Mai Châu, vì đây là tên
chính thức của thành phố từ năm
1988, thực
tế hoàn toàn khác với những gì tôi đã gặp ở Vân Nam. Trong
khi ở Côn Minh,
người Khách Gia rõ ràng là một dân
tộc thiểu số, và không dễ bắt
gặp, điều trái ngược lại đang đợi tôi ở Mai Châu. Theo
các nhà nghiên cứu Khách Gia tôi đã gặp, khoảng 95 phần
trăm người dân ở đây là người Khách Gia. Thật vậy, ở
đây ngôn ngữ Khách Gia thường được hầu hết mọi người sử dụng,
không có vấn đề tuổi tác.
(10)
Hồng Kông khác với cả Côn
Minh lẫn Mai Châu về vấn đề này. Người Khách Gia rất ít so
với số người Quảng Đông
sống trong thành phố. Và hầu hết các ngôi nhà của họ, ngay cả khi một số lượng
lớn những người đã chuyển
vào thành phố
trong những năm gần đây, đều nằm ở các phần khác nhau của các Tân Lãnh thổ, chính xác
hơn là trong một số làng nhất
định. Trong khi một số làng xen lẫn cả người bản địa (11) và người Khách Gia, thì vẫn còn một
số làng “thuần” Khách
Gia ở Hồng Kông, nơi mà hầu hết cư dân là Khách
Gia. Tuy nhiên, mọi người trong
một ngôi làng ở mức độ lớn,
có thể khác nhau khi nói đến kiến thức và mối quan tâm đến văn hóa và
ngôn ngữ Khách Gia.
1.2 Phương
pháp nghiên cứu trường hợp
Trung tâm điểm của tôi trước khi
bắt đầu công việc thực địa chủ
yếu là về việc người
Khách Gia, trong các môi trường khác nhau, cảm thấy và xử lý cái mà họ có là
một bản sắc kép, vừa là Khách
Gia, vừa là Hán-Trung Quốc ra sao. Tôi muốn phát hiện những vấn đề
của họ trong tình trạng mơ hồ này,
và tôi muốn biết họ đối phó với việc vừa
là Hán đồng thời lại vừa là Khách Gia như thế nào, nếu họ phải đối phó
với tình trạng đó. Cuối cùng, tôi muốn xem liệu
bản sắc của họ có phải là
linh động và sẽ thay đổi theo hoàn cảnh xung
quanh không.
Để trả lời những câu hỏi này một cách đúng đắn, cần phải xây dựng một mô hình phương
pháp sao cho các kết quả nghiên cứu
mà tôi trình bày sẽ phải
có ý nghĩa, chứ không chỉ có vẻ là một nguồn dữ liệu khác. Các mô hình mà tôi đã chọn trong tiểu
luận này dựa trên việc phân tích các lý thuyết khác nhau và các
dữ liệu tôi thu thập được trong
các đợt thực địa của mình. Khái niệm tộc người cũng phải được thảo luận và làm rõ trước khi chúng ta có thể bắt đầu nói về bản sắc kép của người
Khách Gia mà tôi cho là có như vậy. Tôi cũng cần phải
có một ý tưởng về những gì
được coi là bản sắc Khách
Gia, và quan trọng hơn,
làm thế nào mà người Khách Gia trong các vùng này nhận thức được
bản sắc riêng của họ. Bằng cách
đó chúng ta cần tìm hiểu nguồn gốc và lịch sử của
người Khách Gia, hay đúng hơn, những gì được cho là lịch sử của nhóm người này. Cuối cùng tôi nên kết hợp các vấn đề đó với những phát hiện của
tôi trong các đợt thực địa, để từ đó có thể trả lời những
câu hỏi mà tôi đã
nêu ra. Các lý thuyết mà tôi đề cập ở trên đều dựa trên các lý thuyết mà tôi thấy thích hợp với đề tài của mình (12).
Tuy nhiên điều
quan trọng là việc nhấn mạnh rằng các khái niệm mà tôi đang cố gắng phân tích, chẳng
hạn như mức độ bản sắc trong các môi
trường khác nhau, không dễ đo lường, nếu có thể thực hiện điều đó. Kết luận của tôi dựa trên các tương tác của
tôi với những người cung cấp thông tin, và các khảo sát trong các chuyến thực địa của tôi.
Do ngân sách có hạn,
tôi chỉ có thời gian thực
địa rất ngắn, bằng cách chia cho ba nơi khác nhau
trong vòng một tháng. Những người
tham gia vào các cuộc khảo sát ít, và tôi không
tìm được số lượng người hợp lý với những điều kiện, hoàn cảnh khác nhau. Các cuộc khảo
sát thường được thực hiện theo nhóm, sao cho những người tham gia có
thể thảo luận với nhau kỹ
càng trước khi trả lời các câu hỏi.
Cuối cùng tôi đã không thực hiện được cuộc khảo sát ở Hồng Kông do thiếu thời gian. Khi
đọc tiểu luận này, chúng ta nên nhớ rằng những phát hiện và kết luận của tôi dựa trên
những thông tin có được
là hạn chế và khái niệm phân tích bản
sắc và tự ý thức
cũng khá khó khăn vì đây là những quá trình thực
hiện với người trong cuộc, do đó rất khó đo lường
hoặc thương thảo. Tôi vẫn tin rằng
phát hiện của tôi có thể cung cấp
một sự chỉ định về tình trạng hiện tại của các
cách thức khác nhau mà người Khách Gia ở những khu vực này thấy và thể
hiện bản sắc của họ.
Trong suốt thời gian thực địa của tôi, và các cuộc diện kiến với những người tôi đã nghiên cứu, tôi dần dần nhận ra rằng mọi thứ không như tôi đã hình dung trước. Hầu hết những người tôi gặp
dường như không bao giờ nhận ra hoặc suy ngẫm về cái “nan đề” này; đa số người Khách Gia tôi gặp ở đại lục dường như đều tin rằng người
Khách Gia chỉ đơn giản là một phụ
nhóm của người Hán, tương tự như người Bắc Kinh, người Sơn Đông, hoặc
các nhóm người
Hán khác. Những người Khách
Gia tại Hồng Kông phản ứng hơi khác nhau, và để hiểu
được lý do tôi cần phải tìm hiểu
thêm về cách người dân Hồng Kông liên
hệ với cụm từ như “người Hán” hoặc “người Trung Quốc”. Có thể có những khác biệt so với cách
mà người đại lục phản ứng và
cảm nhận về những từ này. Tuy nhiên, sau
khi được tiếp xúc với một số người Khách
Gia từ những nơi khác nhau tôi có xu hướng
phát triển mối quan tâm đến vấn đề việc duy
trì văn hóa Khách Gia trong các nhóm được thực hiện khi nào và như thế nào. Mà không đề cập đến việc người Khách Gia tự duy trì sự khác biệt và độc đáo so với
những người khác
đến mức độ nào. Về vấn đề này, những
người Khách Gia tôi gặp đã phản ứng rất khác nhau.
1.3 Các lý thuyết về bản sắc
Lý thuyết của tôi về cách những người Khách Gia ở ba nơi này tự cảm nhận về mình là dựa trên các lý thuyết cho rằng tộc người sẽ xuất hiện khi một nhóm người chấm dứt cuộc sống biệt lập và tương tác thường xuyên với các nhóm khác; và bản sắc tộc người thường lỏng lẻo và sẽ thay đổi khi hoàn cảnh thay đổi. (13) Để giải quyết vấn đề này, tôi sẽ cố gắng chứng minh là liệu nhóm người Khách Gia nên được coi là một nhóm tộc người hay không. Về vấn đề này, tôi sẽ sử dụng định nghĩa nhóm tộc người (14) của Barth làm cơ sở cho nhận thức của tôi về tộc tính của họ. Tôi cũng sẽ tiếp cận vấn đề người Khách Gia bằng những lý thuyết khác nhau về việc xác định tộc người và thử xem liệu các lý thuyết này có áp dụng được cho người Khách Gia dựa trên những phát hiện của tôi không. Cuối cùng, tôi sẽ có thể trả lời được là liệu các lý thuyết của tôi cũng có thể áp dụng cho họ được không.
Chương 2. Bối cảnh lịch sử của
người Khách Gia
“Không hề có một phiên bản lịch sử nào của người Khách Gia được viết ra.” (15) Đây là câu của Nicole Constable. Như đã đề cập ở chương 1, nơi xuất xứ của người Khách Gia đã và vẫn đang còn là vấn đề gây tranh cãi trên các lĩnh vực học thuật, và có lẽ sẽ vẫn như vậy trong thời gian tới. Cũng vẫn chưa có câu trả lời đầy đủ cho câu hỏi khi nào thì lịch sử của người Khách Gia xuất hiện. Nhiều hồ sơ mà chúng tôi có được về người Khách Gia là dựa trên các công trình của La Hương Lâm, còn các công trình của ông thì hầu hết lại dựa vào các gia phả và những ghi chép mà ông tìm được từ các nhóm và gia đình người Khách Gia. Tuy nhiên, truyền thống của việc giữ gìn những hồ sơ này không hề có từ trước triều đại Tống (16), khoảng 1100 SCN. Vì thế mà các hồ sơ chúng ta có về lịch sử người Khách Gia trước thời Tống rất ít đáng tin cậy. Hơn nữa, nhiều hồ sơ đã bị hủy hoại trong cuộc Cách mạng Văn hóa (17), và sau đó đã được viết lại, nên các hồ sơ gia đình không tránh khỏi là một nguồn sử liệu ít đáng tin cậy.
Điều
chắc chắn là Khách Gia được công nhận là một phụ
nhóm của người Hán Trung
Quốc và họ chủ yếu định cư tại Trung Quốc Lục địa rải rác từ Giang Tây ở phía đông đến Tứ Xuyên ở phía tây. (18) Nói cách khác,
người Khách Gia không
phải là một trong 56 nhóm dân tộc được nước Cộng hòa
Nhân dân Trung Hoa công nhận. (19)
Các con số ước lượng cho chúng ta biết có khoảng bảy mươi lăm triệu người Khách Gia trên toàn thế giới. (20) Theo các thành viên của Hội người Khách Gia ở Vân Nam và Mai Châu thì trong nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa có khoảng 40 triệu người Khách Gia. (21) Những người Khách Gia bên ngoài Trung Quốc Lục địa rời nhà di cư ngay từ thế kỷ XVII đến những ngày gần đây (22), và họ vẫn tiếp tục di cư ra nước ngoài.
Đương nhiên tính đa dạng của người Khách Gia là rất lớn. Nguồn gốc của cái tên “Hakka” rất có thể từ tiếng Quảng Đông. Constable viết “Hakka là một từ tiếng Quảng
Đông có nghĩa là “người lạ” hoặc “gia đình của khách”. Là một người nói tiếng Quảng Đông, tôi có thể xác nhận rằng các ký tự được sử dụng bằng
tiếng Trung Quốc cho người
Khách Gia (客家) trong thực tế được phát âm tiếng
Quảng Đông là “Hak Ka”. Erbaugh (23) cũng cho rằng thuật ngữ này có nguồn gốc
từ tiếng Quảng Đông, và lần đầu tiên được sử
dụng như một từ thù địch. Tuy
nhiên, thuật ngữ Khách Gia, cuối cùng đã được người Khách Gia chấp nhận là một thuật
ngữ cho nhóm người của họ.
2.1 Lịch sử chung
Trong quá
trình nghiên cứu của mình, tôi đã gặp những người
Khách Gia từ ba khu vực đặc trưng khác nhau. Trong
đó một số nhóm thực hành ngôn ngữ và văn hóa của họ ở một mức độ lớn,
và tương tác với những
người đồng nhóm Khách Gia hàng ngày. Những người không thực hành văn hóa
và ngôn ngữ Khách Gia hang ngày thì hầu như không nói được một từ tiếng Khách Gia nào. Nói cách khác, sự phân nhánh
trải từ khía cạnh này đến khía cạnh khác. Những người dân thuộc các cộng đồng khác nhau, với các nền tảng khác nhau, hoàn cảnh và phong cách sống khác
nhau này có điểm gì chung? Tên
gọi và dung mạo của họ không
khác gì so với bất kỳ người Hán nào
khác.
Về cơ bản
những điểm chung mà họ có chính là một lịch sử chung, hoặc
ít nhất, một lịch sử được tưởng tượng ra trong đó các tác
nhân, là người Khách Gia, tin tưởng. (24) Trong chuyến đi
thực địa của mình, tôi đã gặp những người
Khách Gia với những nền tảng kinh tế xã hội và giáo dục rất khác nhau, tuy nhiên trong tất cả ba
nơi tôi đã thu
nhận được những bài học
lịch sử chủ quan tương
tự từ một số người Khách Gia mà tôi đã gặp. Hiện tượng này cho
thấy rõ ràng rằng người
Khách Gia từ các cộng đồng khác nhau đều có điểm chung đó. Không có vấn đề của lịch
sử chung của họ có chính xác hay
không, mà điều chắc chắn là
nó tạo được một sự gắn bó giữa những người
Khách Gia qua mọi ranh giới.
Các quan niệm hoặc niềm tin chung của những gì là lịch sử Khách Gia thì chính là việc
người Khách Gia di cư từ tỉnh Hồ Nam
về phía nam trong thế kỷ thứ tư
SCN. Và đã
có nhiều đợt vận động, theo La Hương Lâm (1933)
là năm đợt, từ phía bắc về phía nam, tạo thành cư dân Khách Gia phương nam mà ngày nay chúng ta thấy. Mặt khác, Mary Erbaugh khẳng định
rằng mới chỉ có bốn đợt
di cư lớn (25), bắt đầu từ giữa
thời kỳ nhà Tống và nhà Đường, trong thời gian đó người Khách Gia rời Hà Nam và Sơn Đông để tránh các
cuộc tấn công của người Nữ Chân. (26) Người ta cho là họ đã định cư ở các vùng cao biên giới Phúc Kiến -
Giang Tây. Làn sóng di
cư thứ hai đã diễn ra trong giai đoạn quá độ giữa triều đại Nguyên Mông và triều đại Minh, người
Khách Gia di chuyển đến khu vực Mai Huyện (Mai
Châu); đợt thứ ba là khi người
Khách Gia được
đưa đến các khu vực bỏ hoang ở miền nam Quảng Đông để mở rộng các vùng biên đến Đài Loan trong thời kỳ đầu nhà Thanh,
và cuối cùng là đợt thứ tư trong thế kỷ XIX.
Tình trạng động loạn đẫm máu giữa người Khách Gia và người bản địa ở Quảng Đông, và hậu quả của loạn Thái Bình Thiên quốc làm
cho nhiều người Khách Gia phải đến Tứ Xuyên ở phía tây, đến Hồng Kông và ra nước ngoài.
Vào
thời La
Hương Lâm, người Khách Gia và người bản địa thường xung
đột và đánh nhau. Năm 1660, để đàn
áp cuộc nổi loạn, chính quyền nhà Thanh đã thực hiện một cuộc
di dân lớn ở các vùng ven biển
đông-nam, nơi người
Quảng Đông và người Mân theo truyền thống vẫn chiếm ưu thế. (27) Khi triều
đình thực thi tái định cư vào năm 1684, người Khách Gia đã chuyển đến đó
sinh sống. Kết quả là, các
cuộc xung đột với những người định
cư tại địa phương cũ, người
bản địa hoặc người Quảng Đông như người ta vẫn gọi, là không
thể tránh khỏi.
2.2 Gốc miền Nam
Giáo sư 房学嘉 Phòng Học Gia tại Đại học 嘉应 Gia Ứng thừa nhận nhiều công trình của La Hương Lâm, nhưng ông mạnh mẽ phủ nhận quan điểm cho rằng người Khách Gia và văn hóa của họ có nguồn gốc từ phương bắc. Ông tuyên bố rằng các công cụ và công trình xây dựng tiêu chuẩn của người Khách Gia được tìm thấy ở miền Nam đã lùi trở lại đến thời Chiến Quốc, cho thấy những nơi đó, chủ yếu là Quảng Đông và Phúc Kiến tại thời điểm đó là không có người ở. (28) Các tương tác và kết nối kinh doanh giữa người Nam Man ở phương nam và những người Trung Nguyên phương bắc được cho là đã bắt đầu sớm, có thể từ thời gian đó. Theo quan điểm của ông, bộ phận chủ yếu của người Khách Gia và nền văn hóa của họ có nguồn gốc từ phương Nam, chủ yếu là người Việt, hòa trộn với các dân tộc thiểu số khác, đặc biệt là người 畲 Xa, và cuối cùng kết hợp với di dân từ miền Bắc xuống.
Nghiên cứu của ông được hỗ trợ bởi
các công trình của giáo sư
葉紙張 Diệp
Chỉ Trương, một nhà
sinh vật học người Khách Gia, ông đã bỏ ra nhiều năm sau khi nghỉ hưu để khảo
sát về người Khách Gia nói
chung, và người Khách Gia trong vùng Vân Nam nói riêng. Ông đã cố gắng nghiên cứu người Khách Gia từ quan điểm sinh học và phát triển con người, rồi đi đến kết luận rằng miền nam được cư chiếm trước miền bắc, chứ không phải là
những cách thức
khác như người
ta vẫn tin như vậy. (29) [葉紙張 2007.从人类学和遗传学角度探讨客家民系本质 - Diệp Chỉ Trương 2007. Bản chất của dân hệ Khách Gia từ góc độ nghiên cứu nhân loại học
và di truyền học] Theo các đồng nghiệp của
ông tại Mai Châu, quan
điểm trên của giáo sư Phòng Học Gia đã bị các học giả Khách Gia khác chỉ trích nặng nề. (30) Trong các đợt thực địa của mình, tôi đã nhận thấy
một số kha khá, chủ yếu là người
Khách Gia có học vấn, luôn rất tự hào về quan
niệm phổ biến rộng
rãi, đều tin rằng họ là hậu duệ của người miền bắc, có lẽ thậm
chí còn mang cả dòng máu hoàng gia. Điều đó có nghĩa là người ta khó mà tin theo cách khác được.
Tác giả của tiểu luận này không đưa ra bất kỳ một tuyên bố nào về việc
tranh cãi này. Với tư cách là một nghiên
cứu sinh quan tâm
đến lịch sử và văn hóa của người Khách
Gia, có lẽ sẽ rất lý
thú khi được biết nhiều
hơn về nguồn gốc của cộng
đồng người này. Tuy nhiên luận văn của tôi chủ yếu xoay quanh các chủ đề về tự nhận thức, ý thức dân tộc và bản sắc linh động của họ; vì thế đối
với tôi, điều thú vị nhất của cuộc tranh luận này là nó thể hiện cách
thức của niềm tin phổ biến của
người Khách Gia, từ những nơi khác nhau như thế nào. Và
các phản ứng có liên quan cho chúng ta biết rằng nhiều người
Khách Gia thực sự quan tâm đến việc họ đang được nhận thức như thế nào.
________________________________________
Nguồn: Heggheim Ricky 2011. Three
cases in China on Hakka identity and self-perception. Master’s Thesis in
Chinese Studie, Departement of Culture Studies and Oriental Languages,
University of Oslo, Norway.
Notes
1. Luo Xianglin was one of the
first Hakka historians and regarded as the person who collected the history of
Hakka as we know it.
2. This list can be found in
Nicole Constable, Guest People(1996) p. 9
3. Lozada, Hakka Diaspora, (2004).
4. Nicole Constable, (1996)
Introduction.
5. For further readings of
“Historical imagination”, please read R.G. Collingwood’s The Idea of History
(1946).
6. Mary Erbaugh, (1992) p.941.
7. Nicole Constable, (1996)
Introduction p. 3.
8. See for instance Thomas Hylland
Eriksen (2002), Ethnicity and Nationalism, Introduction.
9. Hakka people have a strong
sense of national pride,and are normally very proud of themselves being
HanChinese. As Mary Erbaugh says it:”Non-Chinese sometimes wonder whether the
Hakkas are a national minority (shaoshu minzu), but this, implying that they
fall outside the glories of Han civilization, outrages them”Mary Erbaugh,
(1992) p. 947.
10. This is my own interpretation
based on observation and descriptions from others. I do not speak Hakka myself
but know how to distinguish it from other languages and dialects.
11. See my “Definition of Terms”
section in this thesis for a detailed description of what Bendi means.
11. See 1.3 in this thesis.
13. Gregory Bateson (1979) p. 78,
Frederik Barth (1969), Thomas Hylland Eriksen (2001) p. 262-263, S.T. Leong
(1997) p. 20 among others all agree that ethnicity appears when group startsto
interact with other groups. Thomas Hylland Eriksen (2002) p. 59-62 says that
ethnic identity will change while society change and notion of shared origin
are crucial for ethnic identity.
14. See Frederic Barth,ed, Ethnic
Groups and Boundaries (1969) (1998), p. 10-15.
15. Nicole Constable, The Village
of Humble Worship (1989) p. 23.
16. See Myron L. Cohen ”Hakka or
Guest People” (1968). p. 242
17. This information was told me
during my visit to Meizhou and Jiaying University, see for instance Li Xiao
Yin, Ke Jia Zu Xian Chong Bai Wen Hua (客家祖先崇拜文化)
(2005)
18. See Mary Erbaugh “Secret
History of Hakkas” (1992)
19. Lozada (2004) p. 99
20. Nicole Constable (ed) “Guest
People” (1996), p. 4
21. 33 millions according to Mary
Erbaugh in “Secret History of Hakkas” (1992) p. 936, however there is not
specified whom she defines as Hakka. Itis important to be aware of that, unlike
national minorities recognized by the People’s Republic of China, the Hakka
people are not registered as such, making the estimations to verify.
22. Nicole Constable, “Guest
People” 1996, p. 4
23. Nicole Constable (1996) p. 197
24. Please read R.G Collingwood.
The Idea of History(1946) p. 234-237 where he explains his theory on how
historical truth being made ready to actors to believe at, even if it does not
have any accurance to reality.
25. Mary S.Erbaugh (1992) p.
946-947
26. The Jurchen attacks occurred
between Tang and Song dynasty (907-959), in which they occupied the northern
part of China and established the Jin Empire. See Mary Erbaugh, Secret History
of Hakka (1992) p. 946
27. See Mary Erbaugh (1992) p. 948
28. Fang Xue Jia, Ke Jia Yuan Liu
Tan Ao (客家源流探奥), (1994)
29. Ye Zhizhang ‘Cong Ren Lei Xue
He Yi Chuan Xue Jiao Du Tan Tao Ke Jia Min Xi Ben Zhi’ (从人类学和遗传学角度探讨客家民系本质 - Bản chất của dân hệ Khách Gia từ góc độ nghiên
cứu nhân loại học và di truyền học) (2007)
30. According to a number of
scholars and students at Hakka Research Institue in Jiaying University
Đọc rất hay, tôi nghĩ tôi cũng là người khác gia , tôi đang sống tại Việt Nam
Trả lờiXóa