Françoise Bottéro và Christoph Harbsmeier
Người
dịch: Hà Hữu Nga
Giới thiệu
Trong bài viết này chúng tôi mong muốn xây dựng lại những gì có thể của quá trình viết nên cuốn Thuyết văn Giải tự 說文解字 (100 SCN). (1)
Tham vọng của chúng tôi không phải là diễn
giải sản phẩm văn bản, mà là giải thích quá trình sản xuất
văn bản; giống như Wilhelm von Humboldt,
chúng ta không chỉ quan tâm đến ergon “ec - đơn vị năng lượng” mà còn quan tâm đến cả bản thân
energeia năng lượng. Hơn nữa, chúng tôi còn hướng đến xác định vị trí quan trọng của Thuyết
văn trong lịch sử tư tưởng khoa học Trung Quốc nữa.
Thuyết
văn không phải là
một cuốn từ điển về nghĩa cơ bản của từ.
Đó là một từ điển từ nguyên về các đồ
hình *, mà từ nguyên
thì cần phải được phân biệt cẩn thận với
việc phân tích ngữ
nghĩa. Nó chỉ cung cấp nghĩa liên quan đến việc
diễn giải các đồ
hình được sử dụng để viết các từ. Tương
tự như vậy, Thuyết văn chỉ đề cập đến cách phát âm các đồ
hình trong chừng mực đó là những chữ liên quan đến
việc giải thích các thành phần ngữ âm trong
các đồ
hình đó.
Khi tác giả, 許慎, Hứa Thận (2) bổ sung những cách phát âm thay thế, thì toàn bộ những
cách phát âm đó đều được hiểu về phương diện “chiết tự” có liên quan, và khi ông bổ sung thêm ý nghĩa thay thế
cho dù có hoặc không có nguồn dẫn, nhưng một lần nữa nó cũng được hiểu là nguyên tắc tương tự về phương diện “chiết tự” có liên quan. Các
danh mục
như vậy không bao giờ có thể cung cấp được
bất kỳ cái nhìn tổng quan toàn diện nào về các ý nghĩa khác nhau của từ
được viết bằng đồ
hình được nói
đến. Và hơn nữa, các
nghĩa được
biểu thị trong các chú giải của ông lại rất thường
xuyên không phải là nghĩa cơ bản của các từ đang bàn, nhưng những nghĩa mà Hứa Thận xem xét thì lại là những nghĩa chính xác nhất để giải thích cấu trúc của đồ
hình đó. Khi 所 sở được giải thích là âm thanh của chiếc rìu chém vào cây, thì
chắc chắn Hứa Thận nhận thức được rằng điều
đó không mấy hữu ích cho việc hiểu biết chính xác về ký tự trong các văn bản, nhưng ông muốn nhấn
mạnh rằng cấu trúc của tự
vị đó được hiểu rõ nhất khi xem xét
ý nghĩa cực kỳ hiếm ấy của từ. (Chúng ta sẽ trở lại với
tầm quan trọng về phương pháp của chiến lược
này, dưới đây.)
Các
từ có nhiều nghĩa, và
trong thời Hứa Thận, các ký tự Trung Quốc đã rất hay được sử dụng để viết một số
từ có cách phát âm khác nhau. Thuyết văn không quan tâm nhiều đến tính đa dạng
ngữ âm và ngữ nghĩa
này và do đó nó không
phải là một cuốn từ điển ghi
cách phát âm cũng không thực sự
là một từ điển ghi nghĩa, hãy để riêng
những nghĩa cơ bản
đó, nó là cuốn từ điển của các ký tự.
Ví dụ, chữ 說 thuyết có ba cách đọc thông dụng bằng tiếng phổ thông hiện đại là shu±, shuì và yuè. Nhưng có vẻ như chừng nào Hứa Thận còn được quan tâm thì cách phát âm phù hợp về phương diện chiết tự là shu ±, và nghĩa liên quan là hành động diễn ngôn giải thích chứ không phải là trạng thái tâm lý của sự hài lòng hay thỏa thích. Tuy nhiên, trong cuốn sách của mình, ông vẫn sử dụng một cách thoải mái chữ 說 như mọi người khác vẫn làm - để viết từ sau được phát âm chuẩn là 悅 yuè ("được thỏa mãn / vui mừng") hoặc thậm chí để viết từ shuì ("thuyết phục").
Ví dụ, chữ 說 thuyết có ba cách đọc thông dụng bằng tiếng phổ thông hiện đại là shu±, shuì và yuè. Nhưng có vẻ như chừng nào Hứa Thận còn được quan tâm thì cách phát âm phù hợp về phương diện chiết tự là shu ±, và nghĩa liên quan là hành động diễn ngôn giải thích chứ không phải là trạng thái tâm lý của sự hài lòng hay thỏa thích. Tuy nhiên, trong cuốn sách của mình, ông vẫn sử dụng một cách thoải mái chữ 說 như mọi người khác vẫn làm - để viết từ sau được phát âm chuẩn là 悅 yuè ("được thỏa mãn / vui mừng") hoặc thậm chí để viết từ shuì ("thuyết phục").
Một ví dụ phức tạp hơn nhiều về một thể loại rất khác biệt và từ một gốc từ khác có thể minh họa thêm
cho vấn đề thường bị bỏ qua này: ký tự hiện đại 賣 có cách
đọc “yù” (大徐本反切:余六切 dà xú běn făn qiè - đại
từ bản phiên thiết: dư lục thiết) như là một thành phần ngữ âm luôn luôn có
trong Thuyết
văn. Hứa Thận phải biết rõ có một cách đọc rất
phổ biến khác của ký tự này là “mài”, nhưng ông không quan tâm đến điều đó trong phân tích ngữ âm được trình
bày trong cuốn
từ điển của mình. Trong chữ triện nhỏ, từ “yù” (“bán hàng rong") là tương tự nhưng rõ ràng khác với tự
vị “mài” 賣 ("chào
bán"). Đây là những từ khác nhau được viết với những đồ
hình lối chữ triện nhỏ khác nhau, nhưng hai ký tự 楷書 kăishu
- khải thư thời Hán lại được lồng thành
một để tạo ra ấn tượng sai lệch
về cái nhìn đầu tiên mà ký
tự tương tự có hai cách
phát âm riêng biệt và
hai nghĩa tương tự nhưng không giống hệt nhau.
Dưới
đây chúng ta sẽ trở lại với
tầm quan trọng lý thuyết của lối viết chữ triện đối với việc phân tích các ký tự của Hứa Thận, và những câu chuyện phức tạp như thế về ký tự 賣 minh họa tốt hơn so với bất cứ một ký tự nào khác là tại sao Hứa Thận lại cần lấy lối viết chữ triện nhỏ làm cơ sở cho
cuốn từ điển chiết tự của mình, mà lại không
dựa vào lối viết sự vụ quen thuộc trong chính thời ông.
Mỗi mục từ trong Thuyết văn được biên soạn theo một bộ quy tắc,
các 體例 thể lệ ngầm ("thủ tục biên
tập") của Thuyết văn. (Chúng ta không có mục 凡例 phàm
lệ "tuyên bố rõ ràng thủ tục biên tập".) Hứa Thận không phải lúc nào cũng nhất quán, nhưng có thể phục dựng phương pháp luận tổng thể mà ông đã cố áp đặt cho toàn bộ công trình. Phần
Giới thiệu (hoặc Lời cuối sách) có thể được
sử dụng như một điểm khởi đầu cho
việc phục dựng phương pháp luận của ông, nhưng, như chúng ta sẽ thấy
các nguyên tắc ông theo đuổi lại phức tạp hơn so với những tuyên
bố rõ ràng trong Lời
cuối sách của mình.
Khi
thực hiện cuốn từ điển, Hứa Thận đã biên soạn dựa trên truyền thống chú
giải Trung Quốc. Rất nhiều
trích dẫn từ các Kinh văn và không phải kinh
văn trong Thuyết văn đã chứng tỏ cho sự liên kết lịch sử
này. Tuy nhiên, cuốn từ điển của ông là về các ký tự được hiểu theo nghĩa hẹp của từ chứ không phải là về các ký tự trong ngữ cảnh
của nó. Theo thuật ngữ học hiện đại
thì Hứa Thận đã quan tâm đến hệ thống ngôn ngữ, chứ
không quan tâm đến khẩu ngữ. Ông
chỉ quan tâm đến hệ thống chữ
viết của ngôn ngữ theo
nghĩa đen của từ, không hơn, như trong truyền thống chú
giải ấy, với những
sự kiện
đơn lẻ của các ký tự trong các văn bản nhất định. Khi
tập trung vào hệ
thống ngôn ngữ, Thuyết văn đã có bậc tiền bối Nhĩ Nhã 爾雅, chú giải các từ phi ngữ cảnh chứ
không phải là các sự kiện của các từ trong những ngữ cảnh nhất định, mặc dù
sách ấy có ngẫu nhiên, trong một chương, quan tâm đến 詩經
Kinh thi cũng đủ rõ ràng về điều đó. (3). Chúng ta có
thể gọi mối quan tâm phân tích lý thuyết với
cấu trúc của các ký tự ấy
là lối “chiết tự”
tương tự với khái niệm phân
tích “âm vị học” vậy. Để tránh
nhầm lẫn với ý nghĩa thông thường của “thuật
chiết tự”, chúng tôi
thường lựa chọn thuật ngữ tự
vị (và danh từ
phái sinh phép tự vị). Ngược lại,
chúng tôi sẽ gọi quan điểm của
một nhà nghiên cứu cổ ngữ hoặc một sử gia thư pháp học là “tượng hình”. Chúng tôi dành cái thuật ngữ rắc rối “chiết tự” cho việc phân tích
vượt ra ngoài việc xác định graphemes -
các tự vị và tiếp tục thảo luận về bản chất và tương tác cấu trúc trong các ký tự. Vì vậy, ví
dụ, việc giải thích
một tự
vị là “thuộc (có tính chất hình họa) về một cái gì đó” thì không phải là
một phân tích tự
vị , mà là một cách diễn giải theo lối chiết tự.
Kết cấu của
các mục từ
Các mục từ của Thuyết văn tuân theo một lược đồ bất biến:
1. Ký tự đầu. (Bắt buộc, luôn luôn là dạng chữ triện.)
2. Chú giải ngữ
nghĩa khi có liên quan đến việc phân tích chiết tự. (Bắt buộc. Nghĩa của từ được chú giải thường
là nghĩa bên lề, không hề là cơ bản. Tùy
chọn, việc chú giải
có thể được thực hiện bằng các chú giải thay thế mà Hứa Thận đã tìm thấy trong các kinh sách, văn liệu và muốn ghi
lại.)
3. Phân tích chiết tự thành các
thành phần ngữ nghĩa và ngữ âm. (Bắt buộc. Chỉ có chú ý tùy
chọn được tập trung vào
chức năng ngữ nghĩa-ngữ
âm kép của các thành phần ngữ âm: nhiều trường hợp rõ ràng không xác định.)
4. Lưu ý về các biến thể từ về phương diện tự
vị riêng biệt.
(Không bắt buộc.)
5. Tư liệu bổ sung / bách
khoa lặt vặt. (Không bắt buộc.)
6. Phương thức gộp. (Bắt buộc
trong "các từ gốc",
ngay cả khi không có các ký tự khác được
gộp vào với chúng, nhưng không
bao giờ có mặt ở bất cứ chỗ nào khác.)
7. Ghi chú về cách phát âm. (Không bắt buộc. Các ghi chú này hiện diện ở khoảng 10%
của các ký tự và thường
xuyên ở cuối mục từ.)
Trình tự của các yếu tố bắt buộc
liệt kê ở trên có xu hướng bất biến trong toàn
bộ cuốn từ điển. Nói chung, các yếu tố
bắt buộc đối với tất cả các mục từ
đó có trước các yếu tố tùy chọn,
nhưng đôi khi các tài liệu bách khoa lại có thể được nhập trực tiếp sau chú giải ngữ nghĩa, có thể đoán chừng là vì các
ghi chú bách khoa, liên quan đến ngữ nghĩa, được
tự nhiên gắn vào nội dung chú giải ngữ nghĩa chiết tự.
Bình
luận chung của Hứa Thận về hệ thống chiết tự rất nổi tiếng dưới tiêu đề 六書 Lục thư mà ông đã tiếp nhận từ truyền thống Hán trước đó, và ông cũng bình chú ngắn gọn trong Lời cuối sách của bộ Thuyết văn. Ở đây, việc dịch 六書 Lục thư là “Six categories of Scribal Acts” thì rất vụng về, bởi vì không có bất
cứ một quy chiếu nào về bất cứ phép tạo chữ nào có ý định được đưa
ra. Những gì mà
chúng tôi muốn nói về "6 thể loại tạo chữ" là: "loại hành động
tham gia vào việc tạo ra một tự
vị ." (4) Những hành vi này được quy
về các biểu hiện bằng lời nói. Các tự
vị được cho là hình thành như sau:
1. Phép chỉ sự 指事 “là căn cứ vào sự vật mà tạo chữ”
như trường hợp chữ thượng 上,
và chữ hạ下;
2. Phép tượng hình 象形 “vẽ hình tượng của các vật để tạo
chữ” như trường hợp
chữ nhật 日, và chữ nguyệt 月;
3. Phép hình thanh 形聲 “, lấy sự làm tên, mượn thanh để tạo
chữ” như trường hợp
chữ giang 江 và chữ hà 河;
4. Phép hội ý 會意 “là hợp ý lại để tạo thành nghĩa
mới” như trường hợp
chữ vũ 武 và chữ tín 信;
5. Phép chuyển chú 轉注 “mượn chữ sẵn có, thay đổi thành
chữ khác, nhưng nghĩa gần gũi, như trường hợp chữ khảo 考, và chữ lão 老;
6. Phép giả tá 假借 “mượn thanh để gửi sự, biến thành
âm và nghĩa xa lạ” như trường hợp chữ lệnh 令 và chữ trường 長 (trường
hợp này có thể thuộc về những nghĩa khác nhau được quy cho một
chữ duy nhất nhưng cách đọc khác nhau, và sau đó sử dụng một ký tự hiện tại là
từ X, cho một từ Y tương tự về ngữ âm học).
Tài liệu về Lục thư rất rộng, và quan điểm được thừa nhận về vấn đề quan trọng này
đương nhiên cho rằng thư 書 đề cập đến các
ký tự hoặc các loại ký tự. Xem,
ví dụ, 唐蘭 Đường Lan (6) và phiên bản tiếng Anh vẫn rất
đáng tin cậy của 裘錫圭 Cừu Tích
Khuê. (7) Trong thực tế, ở mức độ chúng ta biết thì 書 thư không bao giờ đề cập đến đối tượng
được viết nào khác hơn là các văn liệu. Các đồ
hình hoặc các ký tự được gọi là 文 văn và 字 tự. (8)
Mô
tả của Hứa Thận về các thư 書 khác nhau là động từ chứ không phải là danh từ, nhưng việc diễn giải chi tiết về
một số loại hành vi tạo
chữ vẫn chưa rõ
ràng: ví dụ chúng ta vẫn chưa thấy bất kỳ cách giải thích thuyết phục nào về phép 轉注 chuyển
chú. Ở đây không cần phải đi vào chi tiết gây
tranh cãi liên quan đến việc Lục
thư vào thời điểm
này, ngoại trừ việc lưu ý rằng những sáu loại hành
vi này, nói một cách máy móc, không thuộc
bất kỳ cách
nào, hoặc thậm chí thỉnh thoảng chỉ
được áp dụng trong chính bộ từ điển này, nơi mà việc
đề cập rõ ràng chỉ
là ngẫu nhiên, được thực hiện en passant - một cách tình cờ, ví dụ, một ký
tự thuộc phép 象形 tượng hình. Chỉ cần nói rằng trong trường hợp nhìn
nhận theo truyền thống của 假借 phép giả tá (có nghĩa là, “mượn [một tự
vị để tạo một tự
vị khác]”), thì rất đơn giản là Hứa Thận đã không quan
tâm đến những ký tự này trong chính
cuốn từ điển: những chữ
mà ông giải thích là không giả tá theo nghĩa gốc
của nó và chỉ rất tình
cờ (thuộc các từ 韋 vi, 西 tây, 能
năng, 鳳 phụng), liệu ông có
quy vào hiện tượng vay-mượn rất phổ biến trong các văn bản
Trung Quốc cổ không.
Việc
viết một mục từ của Thuyết văn giống như điền vào một loại biểu mẫu mà chúng ta vừa mới phác thảo ở trên, chứ không phải là việc thực hiện tổng thể các ý tưởng được thể hiện
trong Lời cuối sách. Như chúng ta đã
thấy, theo hình thức này một số
lĩnh vực nhất định mang tính bắt buộc, còn những lĩnh
vực khác lại là tùy chọn. Việc xác định mô thức cơ bản cho giáp
cốt văn triều đại nhà Thương đã
là một bước đột
phá quyết định trong môn
ngữ văn học giáp cốt văn. (9) Việc xác định một lược
đồ như vậy đối với Thuyết văn phải được coi là conditio sine qua non điều kiện tất yếu cho bất kỳ một
nghiên cứu nghiêm túc và có tính hệ thống nào
đối với văn bản này. (10)
Chúng tôi để ngỏ vấn đề cho câu hỏi liệu việc tổ chức lược đồ của Thuyết văn gắn liền đến mức độ nào
với một tổ chức quan liêu nào
đó của một đội ngũ cộng tác viên trong việc biên soạn nó hay không. Hứa
Thận đã thực hiện một cuộc
vận động trí tuệ quyết định từ việc
giải thích về phương diện ngôn ngữ học của các
ký tự đến một khoa
học hệ thống về cấu trúc của các đồ
hình đó. Sau đó, những người
khác đã thực
hiện cuộc vận động thú vị tương tự từ tập
hợp các chú giải ngôn ngữ học về của thanh âm thanh theo
hướng của một khoa học âm
vị học mang tính hệ thống. (11) Đó là tính hệ thống và
kỷ luật của cách
tiếp cận đã bảo đảm cho Thuyết văn có một vị trí thường
hằng trong lịch sử Trung Quốc.
Các
kỵ húy thời đế chế Hán thẳng thừng gạt đi các quy tắc
chung về các yếu tố bắt buộc. Khi tự
vị đầu mục từ đụng chạm đến tên của một vị hoàng đế đã chết, Hứa Thận cảm thấy có nghĩa vụ, với
tư cách là một công bộc viết một cuốn sách mong
được dâng lên cho hoàng đế hiện tại, ông không để cho bất kỳ một
chú giải nào thiếu được hai từ: thượng
húy 上諱 ("cấm kỵ vì phạm húy hoàng đế"). Ở những nơi khác, việc vắng mặt các yếu tố bắt buộc như vậy thường được đánh dấu bằng một thể thức minh bạch là khuyết 闕 ("[thông tin] bị mất"). Ở đây, Hứa Thận theo truyền thống kính ngưỡng và rất “khoa học” được khởi đầu trong 論語 Luận Ngữ xv/26. [子曰。吾猶及史之闕文也。有馬者、借人乘之。今亡矣夫。Tử
viết: ngô do cập sử chi khuyết văn dã. Hữu mã giả, tá nhân thừa chi. Kim vong hĩ phu.
Ta biết kẻ chép sử bỏ trống điều nghi vấn, có chủ ngựa cho kẻ khác mượn cưỡi;
thời nay loại người ấy hết rồi. HHN chú] Câu chuyện về
vị thế “khoa học” phi thượng đế mang tính tự phê này được
thể hiện bằng thuật ngữ “khuyết” 闕 là một phần quan trọng của lịch sử trí tuệ Trung Quốc. Chúng tôi thậm chí phải nói rằng đó là một phần quan trọng của lịch sử tư duy khoa học, và lịch sử của phương pháp logic.
_____________________________________________
Còn nữa...
Nguồn:
F. Bottéro and Christoph Harbsmeier, 2008, «The
Shuowen jiezi Dictionary and the Human
Sciences in China», Asia Major Third Series, Volume
21, Part.
Tác giả:
1.
Françoise Bottéro, giáo sư Hán học, Trung tâm Nghiên cứu Ngôn ngữ Đông Á, École des Hautes Études en Sciences Sociales.
Trưởng nhóm nghiên cứu Văn tự Trung Quốc. Lĩnh vực nghiên cứu: Các phương pháp phân
loại các ký tự Trung Quốc; Hệ thống ký
tự trên giáp cốt văn; Lý thuyết văn bản chữ hán, v.v…
2.
Christoph Harbsmeier là giáo sư Hán
học tại Đại học Oslo. Ông là giáo sư danh
dự tại Đại học Bắc Kinh, Đại học Phúc Đán (Thượng Hải), Đại học Vũ Hán, Đại học
Chiết Giang, Đại học Sư phạm Thượng Hải và
Đại học Sư phạm Hoa Đông.
Các công trình
chính của ông là lịch sử khoa học (logic), lịch sử khái niệm, ngôn ngữ học
lịch sử, và phim hoạt hình Trung Quốc hiện đại. Ông là biên
tập viên của dự án quốc tế Thesaurus Linguae Sericae 新編漢文典 Tân biên Hán văn điển.
Chú thích
1. Các phiên bản hữu ích nhất, mà
chúng tôi đã tham khảo gồm: 徐鉉 Từ Huyễn (917-992), 說文解字 Thuyết
văn giải tự (Beijing: Zhonghua Shuju,
1963); 徐鍇 Từ Hài (920-974), 說文解字繫傳 Thuyết văn giải tự hệ truyền (Beijing: Zhonghua Shuju,
1987); 段玉裁 Đoàn Ngọc
Tài (1735-1815), 說文解字注 Thuyết
văn giải tự chú (Thượng Hải: Guji Chubanshe,
1988); 丁福保 Đinh Phúc Bảo (1874-1952), 說文解字詁林 Thuyết văn giải tự cổ lâm (Zhonghua Shuju, 1988); 湯可敬 Thang Khả
Kính, 說文解字今釋 Thuyết văn giải tự kim thích (Trường Sa: Nhạc Lộc shushe, 1997). Ngoài ra, xem các công trình nghiên cứu sau: Roy Andrew
Miller, "Những vấn đề trong nghiên cứu Thuyết văn
giải tự," Luận án Tiến sĩ (New York: Đại học Columbia; rpt Ann Arbor,
1953), Françoise Bottero, Ngữ
nghĩa và Phân loại trong văn bản Trung Quốc: Hệ thống phân loại các từ chủ chốt của Thuyết văn giải tự Khang Hi Từ điển (Paris: Collège de France, Institut des Hautes Etudes
Chinoises, 1996), Richard Sterling Cook, "說文解字,電子版 Thuyết văn giải tự, điện tử bản: Bản kỹ thuật số đã được duyệt của Ngữ pháp thời Đông Hán," Luận án tiến sĩ (Berkeley: University of California, 2003). Đối với một thư
mục phân loại bằng Hoa ngữ, xem 董希謙 Đổng Hy Khiêm và 張啟煥 Trương Khải Hoán 許慎與說文解字研究 Hứa Thận dữ Thuyết văn giải tự nghiên cứu. (Khai Phong: Hà Nam Đại học Xuất bản xã, 1988), pp 175-227; và xem Cook, Thuyết văn giải tự, pp. 451-92. Để có thêm ngữ cảnh tổng quát hơn về lịch sử ngôn ngữ học Trung Quốc, xem Christoph Harbsmeier,
Ngôn ngữ và Logic, trong Joseph Needham
“Khoa học và Văn minh ở Trung
Quốc”, vol. 7, phần 1 (Cambridge:
Cambridge U.P., 1998).
2. Miller, "Những vấn đề trong nghiên cứu Thuyết
văn giải tự," pp 68-69, đưa
ra các niên đại sau về cuộc đời của Hứa Thận (khoảng 55 SCN -? Ca. 149 SCN), nhưng Đổng và Trương, Hứa Thận dữ Thuyết văn giải tự nghiên cứu, tr. 1, lại
cho rằng rằng Hứa Thận có thể sinh ra dưới triều 明帝 Hán
Minh
đế (58-75) và đã chết dưới triều 順帝 Hán
Thuận đế (125-144 SCN). Về tiểu sử của Hứa
Thận, xem 後漢書 Hậu Hán thư (Beijing: Zhonghua Shuju, 1992) 79B, p. 2588.
3. Xem đặc biệt là chương
"Thích huấn Nhĩ
Nhã” và kết nối chặt chẽ với truyền thống của Mao
của Kinh thi. Về
Nhĩ Nhã, hiện giờ có thể tham khảo
tác phẩm tuyệt vời của 朱祖延 Chu Tổ Diên, 爾雅詁林 Nhĩ Nhã cố lâm (Vũ Hán: Hồ Bắc Jiaoyu, 1996).
4. Liên quan đến các vấn đề phức tạp xuất
hiện bởi những thuật ngữ như 六本 lục
bản, 六書 lục thư và liu wen 六文 lục
văn, xem F. Bottéro "Một viễn cảnh mới trong Sáu
cách Thể hiện từ" (sắp xuất bản).
5. Giải thích của chúng tôi về thể loại này là không chính xác
hoặc dứt khoát hơn
so với cách giải thích truyền thống
của bản thân Trung Quốc.
6. Đường Lan 唐蘭, Trung Quốc văn tự học 中國文字學 (Thượng Hải: Cổ tự Xuất bản xã, 1979), trang 67
ff; và 古文字學導論 Cổ
văn tự học đạo luận, (Qilu shushe, 1981 Jinan), pp. 85ff.
7. Văn
tự Trung Quốc (Berkeley: Hiệp hội
Nghiên cứu về Trung Quốc sớm, 2000)., Trang 151-63; và phiên bản tiếngTrung Quốc: 文字學概要 Văn tự học khái yếu (Bắc Kinh: Shangwu yinshuguan, 2000),
pp 97-104.
8. Về việc trình bày chi tiết về thuật ngữ này, xem Françoise Bottéro, "Xem xét lại văn
và tự: Trò chơi chữ của Đại
Trung Quốc" BMFEA 74
(2004), trang 14-33..
9. Xem David Keightley, Các
nguồn
tư liệu lịch sử
Thương: Giáp cốt văn thời đại đồ đồng Trung Quốc (Berkeley:
U. California P.,
1978).
10. So sánh sơ đồ truyền thống
字義字形字音 ("tự
nghĩa, tự hình, tự âm"), vẫn
còn hữu ích chừng nào nó phù hợp, nhưng lại không đủ chi tiết cho mục đích của chúng ta.
11. Ngẫu nhiên, và sự
đúng lúc của phong
trào hướng tới một khoa học âm vị học: chúng
tôi từ chối xem
khái niệm "khoa học nhân văn" như là một nghịch lý hoặc thậm chí
là một khái niệm phi lý, và
chúng tôi cũng không xem khái niệm "khoa học tự
nhiên" là lặp thừa hoặc dư thừa. Đây là một điểm quan trọng của phép
phân tích khái niệm, và vấn đề không
thể được giải quyết bằng cách thảo
luận việc sử dụng thành ngữ
tiếng Anh của từ "khoa học".
Ở đây điều luôn luôn quan trọng là phải phân biệt cẩn thận giữa giải
thích ngữ nghĩa của từ và phân tích các khái niệm.
Thuyết Văn Giải Tự đã được thêm vào Lingoes, bạn có thể tra từ chỉ bằng 1 click chuột: https://www.youtube.com/watch?v=Ksy7WZt4E74
Trả lờiXóaTôi muốn mua sách này đc dịch sang tiếng việt có không ạ?
Trả lờiXóa