Powered By Blogger

Thứ Ba, 4 tháng 11, 2014

Chức năng Tôn giáo và Ý nghĩa của ngọc Tông và ngọc Bích trong Văn hóa Lương Chử (I)



Chức năng Tôn giáo Ý nghĩa của ngọc Tông và ngọc Bích
trong Văn hóa Lương Chử (I)

Elizabeth Childs-Johnson

Người dịch: Hà Hữu Nga

Người ta cho rằng 玉琮 ngọc Tông ngọc Bích của văn hóa Lương Chử, niên đại hậu kỳ đá mới được sử dụng làm biểu tượng và nghi lễ. Cho đến nay đã có nhiều cách giải thích khác nhau về các hiện vật này, kể từ khi những ngôi mộ thuộc văn hóa Lương Chử lần đầu tiên được khảo cổ học phát quật trong vòng ba thập kỷ gần đây. Học giả 林巳奈夫Lâm Tỵ Nại Phu- Hayashi Minao quá cố, một chuyên gia xuất sắc về ngọc cho rằng ngọc Tông và ngọc Bích trước hết được sử dụng làm đồ tế tự biểu trưng cho quyền lực vũ trụ [Hayashi Minao 1992]. 陸建方Lục Kiến Phương [1996] gợi ý ngọc Tông và ngọc Bích tượng trưng cho vị thế xã hội quyền lực chính trị của giai cấp thống trị trong xã hội Lương Chử. Trong những bài viết trước tôi đã giải thích ý nghĩa của chúng vừa là quyền lực vũ trụ vừa là biểu tượng xã hội (Childs-Johnson 2010: 338, 350). 古方Cổ Phương  (thông tin cá nhân, 2011) tán thành các giả thuyết của các học giả đi trước, bao gồm 大成 Ngô Đại Thành (1889; rpt 1997), Berthold Laufer (1912, 1974), S. Howard Hansford (1968), cho rằng theo một bằng chứng minh văn thì cả hai hiện vật ấy đều được sử dụng để thực hiện các lễ thức thiên văn. Dựa trên bối cảnh táng thức cùng hai loại ngọc này, cũng như các đặc điểm nghệ thuật chính thức của chúng, dữ liệu văn hóa có liên quan, mặc dù có những sự khác biệt trong quan điểm của các học giả, nhưng rõ ràng hình dáng độc đáo khác biệt của hai loại ngọc này chứa đựng cả ý nghĩa vũ trụ và xã hội.

1. Hình dáng của ngọc Tông và ngọc Bích

Ngọc Bích, hoặc đĩa ngọc Bích được khoan lỗ ở giữa, có một hình dạng cổ điển trong giai đoạn văn hóa Lương Chử. Chúng luôn được tạo tác như những chiếc đĩa tròn và dẹt làm bằng chất liệu ngọc bích, hoặc các loại đá cứng khác, được khoan thủng ở giữa, cân xứng với hai bên. Các rìa cạnh bên ngoài thường được mài mỏng hơn so với rìa cạnh bên trong, do đó độ dày của đĩa ngọc có thể hơi chênh lệch đôi chút. Đường kính của lỗ bên trong và rìa bên ngoài đĩa được đặc trưng bởi một tỷ lệ tương quan chuẩn, thay đổi từ ¼ đến 1/6 giữa lỗ trong và rìa ngoài (xem chẳng hạn, colorpls. Nos. 4-01-15, pp. 70- 90). Mặc dù đường kính bên ngoài có thể thay đổi từ 4 3/4 đến 12 1/2, nhưng kích cỡ trung bình 7¾ -12½.

Thỉnh thoảng ngọc Bích được trang trí bằng biểu tượng chuẩn của một con chim nhìn nghiêng đậu trên đỉnh của một bệ thờ đứng được khắc thành nấc. B thờ, có thể mô phỏng loại bệ được giới tinh hoa Lương Chử sử dụng tại các nghĩa địa có bệ thờ khắc nấc, có hình chữ nhật hơi thiên hình thoi, loe ra ở phía trên, với ba đường gờ tạo thành tầng bậc. Phần b thờ, thỉnh thoảng được khắc motif mô phỏng hình mặt trời, bởi các biểu tượng này có hình tròn dẹt tượng trưng cho mặt trời và mặt trăng, hoặc bởi một biểu tượng hình đĩa có cánh tượng trưng cho con chim đang bay, hai mắt trên hình mặt nạ. Trong thực tế, những con chim nhìn nghiêng trên b thờ chỉ liên quan tới hình ảnh của đĩa ngọc Bích; là thuộc tính phù hợp nhất trang trí cho loại đĩa tròn này.

Ngọc Tông hoặc các ống hình lăng trụ, trái ngược với Ngọc Bích, có hình dạng phức tạp hơn: một hình trụ bên trong bên ngoài hình vuông. Hình trụ bên trong thường được đặc trưng bởi hai hình nón hp tại giữa. Hình nón này được tạo ra từ lỗ khoan từ hai phía đối diện gặp nhau, thường ở cạnh tròn thô còn sót lại gờ khoan không được đánh bóng. Tuy nhiên dạng hình nón vẫn luôn luôn mở ra theo hình trụ nhiều hơn và ít khi còn lại dạng hình nón (xem ví dụ, Childs-Johnson 2001:. no.2, fig. 2A, p 60..). Ngọc Tông có kích thước cao, trung bình, và ngắn (xem Catalog. 1-2, 5-7). Những phiên bản ngắn hơn thường được đặc trưng bởi phần miệng rộng trụ bên trong không phải là  dạng hình nón, nhưng nhẵn bóng mà không còn sót lại các gờ khoan từ hai đầu ngược nhau (Childs-Johnson 2001: no. 2, trang 60-1.).

Tỷ lệ lỗ bên trong đường kính vuông bên ngoài do đó có sự khác biệt giữa các phiên bản cao  các phiên bản ngắn hơn. Hình vuông bên ngoài của ngọc Tông  được hình thành bởi các góc tam giác hoặc các lăng kính hình xoắn ốc chủ yếu lồi ra ngoài tại các điểm cách đều. Các hình xoắn ốc này tạo thành bộ khung định vị thành các hình chữ nhật đơn, có kích thước tương tự nhau, tạo thành sườn bằng bốn băng dọc rõ ràng. Bốn lăng kính ở góc giống hình xoắn ốc ấy thường được trang trí hầu khắp  bằng một hình ảnh tiêu chuẩn của hai loại có thể được lặp lại với một kích cỡ tương tự, theo các hàng lên và xuống. Hai loại hình ảnh đại diện cho phiên bản đơn giản với các nhân vật nửa người và động vật. Biểu tượng nửa người được xác định bởi đôi mắt tròn, thường có khe hở bên, miệng nhệch ra, một cái mũ được tạo thành bởi ba dải ngang. Con vật được xác định bởi mắt lớn, mắt con ngươi tròn, một gờ mũi nổi cao cái miệng nhệch ra, đôi khi khác nhau với một bộ răng nanh vểnh lên và quặp xuống.

2. Văn hóa Lương Chử và Ý nghĩa xã hội của ngọc Tông và ngọc Bích

Văn hóa Lương Chử về mặt địa lý được xác định như là trung tâm trong khu vực Thái Hồ, mở rộng về phía bắc tới tận nam Giang Tô, về phía nam tới Hàng Châu ở tỉnh Chiết Giang, phía tây tới phía đông tỉnh An Huy, phía đông tới Thượng Hải và bờ biển. Văn hóa này về phương diện niên đại trùng với hai nền văn hóa chế tác ngọc bích khác, đó là văn hóa Hồng Sơn sớm hơn vùng đông bắc duyên hải Trung Quốc, văn hóa Long Sơn muộn hơn (bao gồm Long Sơn Sơn Đông các văn hóa Long Sơn khác) lan truyền khắp vùng trung nguyên phía bắc Trung Quốc, cho đến tận nam Liêu Ninh, phía tây đến tận tỉnh Cam Túc, phía đông đến Thượng Hải, và phía nam đến tận tỉnh Hồ Bắc. Về niên đại, văn hóa Lương Chử bao gồm ba giai đoạn: giai đoạn sớm, giai đoạn giữa giai đoạn muộn, có niên đại từ 3200-2300 TCN. Giai đoạn muộn trải qua việc tạo dựng nơi cư trú quy mô lớn, với các nghĩa địa có đặt bệ thờ khắc thành nấc sản xuất các loại ngọc Lương Chử điển hình.

Về phương diện xã hội văn hóa Lương Chử được đặc trưng bởi một loạt các thành bang hoặc thủ lĩnh địa lớn và nhỏ, cai trị bởi những người có quyền lực được biểu thị chủ yếu bởi các hiện vật bằng ngọc mang ý nghĩa biểu trưng, ​​khác nhau về kiểu loại từ các loại vũ khí, công cụ, phục sức cơ thể đến vật dụng nghi lễ. Về chính trị, các thành bang được tổ chức theo hình tháp. Di chỉ lớn nhất và trung tâm Lương Chử, Mô Giác Sơn ở Chiết Giang hào và tường với diện tích được ước tính khoảng 2.900.000 mét vuông, trong khi khu di chỉ lớn thứ hai, 寺墩 Tự Đôn ở Giang Tô với diện tích ước đạt 900.000 m vuông. Vùng Tự Đôn được dự tính xây dựng một thành phố tráng lệ, có quy mô lớn hình dạng mô phỏng một chiếc ngọc Tông, một hình tròn bao quanh bởi một hình vuông.

Đồ ngọc giai đoạn Lương Chử hiếm khi được tìm thấy ở các khu dân cư. Chúng thường xuất hiện trong các ngôi mộ của tầng lớp tinh hoa (xem nhận xét của Childs-Johnson, 2010 pp. 310-53). Mộ táng của tầng lớp tinh hoa được xác định xuất phát từ các khu nghĩa địa, do con người tạo ra, với quy mô lớn, có phân cấp, hoặc được gọi là tế đàn mộ địa, hoặc nghĩa địa bàn thờ và các thổ trúc kim tự tháp địa phương, hay các ngôi miếu xây bằng đất. Các gò mộ trung tâm thường nâng lên thành ba cấp hình chữ nhật với kích thước giảm dần. Chúng được phân biệt về màu sắc của vật liệu xây dựng (pp. 317-19, 326). Trong mỗi gò mộ của giới tinh hoa thường xuất hiện các hàng mộ, hoặc những nơi chuyên biệt liên quan đến trung tâm của mộ (xem figs.10-11, pp. 314-16). Các mộ khác, có địa vị thấp hơn được đặt ​​trong nghĩa địa không mộ hoặc trong khu dân cư (xem ví dụ, 13 fig:. E, p 320.). Đầu người chết thường được đặt hướng về phía bắc, chân hướng về phía nam. Các b đồ ngọc từ các mộ thuộc giới tinh hoa bao gồm ba loại: ngọc trang sức, bao gồm cả những vật trang sức ở đầu và thân; vũ khí ngọc, chủ yếu là rìu ngọc; các đồ ngọc nghi lễ, Tông Bích, hình lăng trụ đĩa ngọc có khoan lỗ. Một số đồ sơn mài tinh xảo đồ gốm chôn theo đồ ngọc cùng với thi thể, nhưng các vật dụng đó có số lượng ít so với đ ngọc. Ngọc loại vật chất tuyệt hảo giúp xác định tầng lớp tinh hoa thống trị. Các tầng lớp tinh hoa và thủ lĩnh liên quan được trang sức bằng ngọc từ đầu đến chân.

Đngọc, trái ngược với bất kỳ hiện vật hoặc vật liệu nào khác,biểu trưng tuyệt hảo cho xã hội thượng lưu trong thời Lương Chử; điều đó thể hiện rõ ràng trong việc phân bđồ ngọc trong các ngôi mộ thuộc giới tinh hoakhông thấy đồ ngọc xuất hiện trong các ngôi mộ có địa vị thấp hơn (Bảng 3, tr. 311 -12, vả. 13, bảng 4, pp. 327-38). Số lượng lớn nhất của đồ ngọc tính theo mỗi ngôi mộ đã được khai quật tính đến thời điểm này, thuộc về các thủ lĩnh nam được chôn tại mộ M12 ở Phản Sơn (Bảng 4, trang 330) và mộ M3 ở Tự Đôn (fig. 13C, p 322;.. Bảng 4 , p. 333). Mặc dù mộ M12 bị bọn đào trộm mộ cướp phá hoàn toàn, nhưng hiện vật ngọc Tông lớn nhất và nặng nhất của ngôi mộ này và số lượng ngọc Tông và ngọc Bích lớn nhất của mộ M3 tại Tự Đôn, còn lại tổng cộng lên đến 33 Tông và 24 Bích. Số ngọc Tông của mộ M12: 98 chiếc, cái gọi là “Vua ngọc Tông” có kích thước cao 3,5 inch đường kính 1,9 inch, và cân nặng 9,9 pound, với độ dày của thành ngọc là 1,6 inch.... Các mộ khác thuộc giới tinh hoa từ các nghĩa địa có b thờ ấy thường một số ít ngọc TôngBích, dao động từ 2 đến 6 hiện vật (xem bảng 4, pp. 327-38) .

Theo đánh giá của 陸建方 Lục Kiến Phương, xã hội Lương Chử được xác định bởi một cấu trúc kim tự tháp với một thủ lĩnh chính thể vì các cộng đồng dân cư và các khu định cư lan rộng ra phía ngoài theo bốn hướng (Hình 11 và vả. 14, p. 326). Di chỉ Mô Giác Sơn trung tâm và thuộc cấp trên cùng, bao gồm một người cai trị và giới tinh hoa cầm quyền liên quan. Ở bậc thấp hơn và lan rộng vượt ra ngoài trung tâm của Mô Giác Sơn là liên minh theo tổ tiên và dòng tộc mạnh, đặc trưng cho tầng thứ hai của thủ lĩnh địa hoặc của thành bang, như đã được xác định bằng các di chỉ khác, với các nghĩa địa phẳng, chẳng hạn như Tự Đôn福泉山 Phúc Tuyền Sơn gần Thượng Hải. Một tầng lớp thứ ba có thể được xác định bởi các di chỉ có nghĩa địa với các mộ nhỏ hơn, bao gồm cả  陵山 Trương Lăng Sơn và 草鞋 Thảo Hài Sơn; tầng lớp thứ tư ít hơn các di chỉ khác không có nghĩa địa phẳng, Lũng Nam, trong đó các mộ táng có thể chỉ có 1-3 đồ ngọc hoặc không có gì cả.

Tái dựng xã hội Lương Chử theo Lục Kiến Phương (fig.14, p.326); Lục giải thích về kích thước khác nhau, Tông cao và thấp, Tông nhiều cấp hoặc các cấp hình tượng duy nhất, được phục dựng dựa trên một lý thuyết tương tự về than phận và quyền lực trong xã hội Lương Chử (fig.14, p 326 và Lục năm 1996, năm 2001:. 357-366). Trong giai đoạn hậu kỳ đá mới, Trung Quốc đã trải qua một “Thời đại Ngọc” đặc trưng bởi việc khai thác loại đá giá trị nhất, ngọc nephrite. Giới tinh hoa tại Phản Sơn và Dao Sơn, chẳng hạn, nếu được chôn với các rìu ngọc thì kèm theo chỉ có một đồ ngọc trang bị đầy đủ với các phụ kiện ngọc bích. Hình 12: rìu ngọc với các phụ kiện ngọc tìm thấy tại chỗ (theo fig.15, p 342) và lưỡi rìu, Catalogue số 17. Các rìu khác đi kèm trong các mộ của tầng lớp tinh hoa được chế tác bằng các loại đá cứng khác. Thứ hai, rõ ràng ngọc Tông lớn nhất và nặng nhất thuộc về những ngôi mộ giàu nhất tại Phản SơnDao Sơn, và số lượng nhiều nhất thuộc về ngôi mộ giàu nhất tại Tự Đôn. Hai di chỉ này được cai trị bởi các thủ lĩnh có phân cấp.

Đối với Lục Kiến Phương : 32 ngọc Tông từ ngôi mộ 20 tuổi tại M3 Tự Đôn xác định 32 thị tộc - do người đàn ông 20 tuổi này cai trị: 32 thị tộc thuộc quyền kiểm soát của ông ta bị ràng buộc như là đồng minh với một hệ thống tín ngưỡng chung. Ông đưa ra giả thuyết rằng tại thời điểm người này chết, các thị tộc này, theo một loại nghi lễ nào đó, có thể đám tang, bàn giao cho thủ lĩnh “thành bang" biểu tượng thứ bậc của họ. Mỗi hình ảnh của ngọc Tông có ý nghĩa gắn liền với gia đình và thị tộc. Ví dụ, năm lớp hình tượng lên và xuống một ngọc Tông biểu thị độ tuổi của thị tộc; trong trường hợp này, đã tồn tại trong năm thế hệ. Tương tự như vậy, một ngọc Tông với 15 lớp hình tượng biểu thị cho 15 thế hệ của thị tộc. Như vậy, 32 thị tộc khác nhau đã thề trung thành với người chết trong mộ 3 tại Tự Đôn đã được công nhận bởi vị thế "thế hệ" của họ, đại diện trong số bậc cấp của hình tượng trên ngọc Tông. (p 339; Lu 2001:. 357-366).

Các cấp bậc đại diện cho các thế hệ của từng thị tộc hoặc của các bộ lạc các thủ lĩnh cai trị và kiểm soát. Những chiếc ngọc Tông này có khắc cấp bậc được chôn theo vị thủ lĩnh (p. 339). Mặc dù lời giải thích của Lục Kiến Phương không nói rõ ý nghĩa của 24 chiếc ngọc Bích trong ngôi mộ đó, nhưng có thể nói ý kiến ​​cho rằng vị thế thế hệ được biểu thị bằng các lớp khắc trên ngọc dường như là lập luận thuyết phục nhất đã được các chuyên gia nghiên cứu văn hóa thời đại này đưa ra tính đến nay. Lý thuyết về vị thế quyền lực ấy như đã được thể hiện thông qua các cấp bậc của hình tượng ngọc Tông này cũng trùng khớp với những giải thích về ý nghĩa của những hình tượng thực tế trang trí ngọc Tông và các vật dụng biểu tượng có liên quan.
____________________________________


Nguồn: E. Childs-Johnson 2012.  Speculations on the Religious Use and Significance of Jade Cong and Bi of the Liangzhu Culture. - echildsjohnson.files.wordpress.com.

Tác giả: Elizabeth Childs-Johnson, Tiến sĩ, Viện Mỹ thuật, Đại học New York, một nhà lịch sử nghệ thuật khảo cổ học, bà còn là một nhà Trung Quốc học chuyên về nghệ thuật và khảo cổ học từ thời đồ đá mới đến thời Đông Chu, về minh văn triều Thương. nghiên cứu giáp cốt văn với cố giáo sư 金祥  Kim Tường Hằng, Đại học Quốc gia Đài Loan, và chính GS. Kim đã hỗ trợ trong việc xác định ý nghĩa các hình tượng kim văn Thương. Các ấn phẩm của bao gồm Trung Quốc Thời đại Ngọc; Hệ thống Tín ngưỡng, văn tự và nghệ thuật nhà Thương; Chính sách và Luật di sản Văn hóa ở Trung Quốc hiện đại; Khảo cổ học Tam Hiệp. được nhận nhiều học bổng nghiên cứu khác nhau, gần đây nhất là của Hội đồng Học giả Mỹ và của Gallery Nghệ thuật Quốc gia, của Quỹ nghiên cứu J. Paul Getty.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét