Đọc quá khứ – những cách tiếp cận
lý giải Khảo cổ học hiện nay (XI)
Ian Hodder
Người dịch: Hà Hữu Nga
6. Lịch sử, Dân tộc-Khảo cổ học và Lý thuyết Tầm trung
Cho đến lúc này,
sau khi đã làm rõ một số vấn đề, tôi muốn sử dụng một ví dụ về dân tộc khảo cổ
học liên quan đến sự biến đổi văn hoá vật chất để gỡ bỏ sự nghi ngờ về hai khía
cạnh thịnh hành nhất của KCH – Dân tộc khảo cổ học và Lý thuyết Tầm trung.
Dân tộc khảo cổ học (Gould 1980; Kramer 1979; Yellen 1977; Binford 1978)
được các nhân vật hàng đầu xây dựng - Gould và Binford - vì việc sử dụng một
phương pháp “khảo cổ học” “duy vật” – tức là sử dụng cách quan sát chủ quan,
ngoài cuộc, không tham dự để xây dựng hồ sơ các mối liên hệ giữa tĩnh và động.
Một phần của mục đích này là để tạo ra Lý thuyết Tầm trung, theo Raab và
Goodyear (1984) thì có mối liên hệ chặt chẽ với các quá trình hình thành di
chỉ. Đối với Binford (1977; 1983) các nhà KCH cần phát triển những luận lý liên
quan về các mối quan hệ giữa văn hoá vật chất và xã hội. Ông cho rằng có lẽ có
những phương pháp đo lường độc lập, “những chiếc nhiệt kế” có thể sử
dụng để “đọc” các dữ liệu KCH. Trong khi các tư tưởng của Lý thuyết Tầm trung
liên quan đến các quá trình vật chất (chẳng hạn như sự phân dã của C14)
là khả thi thì lại không dễ sử dụng nó để xem xét cách thức đạt được các qui
luật phổ quát của các quá trình văn hoá độc lập với các lý thuyết văn hoá ở cấp
độ cao. Tất nhiên bên trong những lý thuyết ở cấp độ cao này rất cần thiết phải
có việc nghiên cứu văn hoá vật chất, quá trình hình thành trầm tích văn hoá và
những thứ tương tự – người ta có thể gọi đó là nghiên cứu Tầm trung. Trong tập
sách này chúng tôi không chấp nhận cách thức đo lường được Binford đề xuất và
cũng không chấp nhận cái gọi là Lý thuyết Tầm trung tồn tại độc lập với ngữ
cảnh văn hoá.
Các luận lý trong tập sách này cũng chống lại một dân tộc khảo cổ học “có
tính khảo cổ”, “duy vật”. Cách thức tiếp cận ấy là sự vận động từ “bên ngoài”
vào “bên trong” của sự kiện. Việc tìm hiểu
văn hoá vật chất một cách đầy đủ, trong ngữ cảnh ý nghĩa của nó sẽ bao
gồm cả sự tham gia lâu dài vào các văn hoá được nghiên cứu. Mục đích có thể vẫn
như vậy – đặt ra các câu hỏi có tính KCH về các dữ liệu dân tộc học mô tả, các
câu hỏi có thể liên quan đến văn hoá vật chất và/ hoặc các cấu trúc và các quá
trình biến đổi; tuy nhiên các phương pháp nhất định phải khác nhau. Vậy là đã
xuất hiện một vấn đề. Một mặt sự khác biệt giữa KCH tham gia từ “bên trong”,
với dân tộc học cũng như nhân học xã hội ở phương diện khác, là gì? Tệ hơn, các
nhà nhân học xã hội không được đào tạo các kỹ thuật phỏng vấn lấy tư liệu, lấy
mẫu, học các ngôn ngữ và đào tạo với nguồn văn liệu rộng lớn hơn liên quan đến
các xã hội đương đại thì có thể làm tốt được không? Có lẽ dân tộc KCH sẽ không
biến mất lại được thay thế bằng hoặc kết hợp với nhân học văn hoá vật chất và
biến đổi xã hội?
Dân tộc KCH chỉ mới xuất hiện như là một bộ môn phụ trong suốt 20 năm qua.
Trong một vài khía cạnh, đó là một cách lấp chỗ trống được tạo ra bởi tình
trạng thiếu quan tâm của nhân học đối
với các vấn đề trung tâm của KCH. Nếu hai bộ môn, cùng với lịch sử, cố gắng hội
tụ lại, hoặc chí ít là đối thoại một cách hiệu quả hơn, thì dân tộc KCH thực sự
có thể trở thành một “vật lỗi thời” gắn liền với khuynh hướng phi ngữ cảnh, so
sánh văn hoá trong khoa học khảo cổ của những năm 60s và 70s. Chắc chắn là có
những dấu hiệu (Miller 1983) thể hiện sự quan tâm ngày càng tăng của nhân học
đối với văn hoá vật chất. Ngoài ra chắc chắn là có những khó khăn thực sự kể cả
việc đào tạo các nhà KCH để thực hiện nhân học chiều sâu một cách hoàn thiện.
Mặt khác, nhận thức ngày càng tăng về nhu cầu tìm hiểu đầy đủ các phương văn
hoá vật chất trong KCH và văn hoá vật chất hiện tại chỉ là một lĩnh vực mà cơn
đói tri thức KCH có thể đã chấm dứt. Vậy thì có vẻ như cái dân tộc KCH đó, nói
một cách lý tưởng với một phương pháp luận “nhân học” hơn, sẽ còn lại một vai
trò trong tương lai gần. Rõ ràng là cho đến bây giờ bất kỳ tương lai dài hạn
nào của dân tộc KCH cũng nên được gắn kết ngày càng chặt chẽ cả với lý thuyết
và phương pháp lịch sử và lý thuyết lẫn phương pháp nhân học. Vì vậy cuộc tranh
cãi về dân tộc KCH chỉ là một ví dụ về cuộc tranh cãi chung về bản chất của
KCH. Tôi hy vọng phát triển các vấn đề này thêm trong ví dụ dưới đây.
Trở lại Baringo
Công việc nghiên cứu mà tôi muốn tóm tắt (xem thêm chi tiết Hodder 1991)
bắt nguồn từ công việc đổi mới ở quận Baringo, Kenya. Công trình trước đây được
mô tả trong Biểu tượng Hành động (Symbols in Action, Hodder 1982a) đã để
lại cho tôi một câu hỏi liên quan đến một loại hình hiện vật đặc biệt được bộ
lạc Ilchamus (và theo Njemps thì cả ở nơi khác nữa) sử dụng. Người Ilchamus là
nhóm duy nhất trong vùng đã trang trí các quả bí bằng cách khắc lên chúng những
mẫu hoa văn tạo bằng những đường thẳng. Tại sao? Trong khi trả lời câu hỏi này,
một cách tiếp cận mà tôi nên theo có lẽ là kiểm tra một lý thuyết tổng quát
hoặc một sự khái quát hoá giống như một qui luật nào đó. Chẳng hạn tôi có thể
nói rằng so với những bộ lạc láng giềng thì việc trang trí hoa văn của người
Ilchamus liên quan đến tính phức hợp xã hội lớn hơn, và nhấn mạnh vào nhóm này,
vì cần có nhu cầu đánh dấu lối tiếp cận các nguồn một cách rõ ràng hơn (Hodder
1979). Hoặc theo Wobst (1977), tôi có thể cho rằng vì kích cỡ của nhóm xã hội
tăng và cần nhiều tương tác với những con người trung gian về phương diện xã
hội thì việc biểu tượng hoá vật chất và phong cách sẽ tăng lên.
Để “kiểm tra” các giả thuyết này tôi thấy cần đi đến với người Ilchamus –
tôi chỉ có thể sử dụng các môn dân tộc học miêu tả để hiểu được trình độ phức
hợp xã hội, trình độ cạnh tranh xã hội hoặc tình trạng stress, hoặc qui mô của
nhóm này trong mối liên hệ với các nhóm khác không có hoa văn trang trí. Liên
quan đến việc trang trí hoa văn, tôi có thể xem loại giả thiết nào của mình phù
hợp với các dữ liệu – tất cả đều rất dễ dàng. Khó khăn trong cách tiếp cận này
là gì, cách tiếp cận nào có vẻ được chấp nhận rộng rãi trong KCH và dân tộc
KCH? Vấn đề chính là ngay cả trong khuôn khổ của cách tiếp cận so sánh văn hoá
thích nghi đó, nên hiểu như thế nào về câu hỏi liệu trang trí có liên quan gì
đến tính phức hợp xã hội, sự cạnh tranh hoặc dòng thông tin không? Tôi có thể
hiểu được những mối tương liên với các sự vật này, nhưng tôi đã không
kiểm tra xem liệu những quả bí và hoa văn trang trí được sử dụng theo cách như
vậy để tạo ra những mối tương liên có ý nghĩa hoặc có tầm quan trọng nào hay
không.
Có nhiều nguyên do tại sao loại tiếp cận trao đổi thông tin/ phức hợp xã
hội lại hoàn toàn không đầy đủ. Nó không chấp nhận vai trò của những cá nhân
năng động, vai trò ý nghĩa, vai trò lịch sử, nhưng trên hết, cần phải lướt
nhanh trên bề mặt của nền văn hoá Ilchamus. Trong trường hợp tối ưu thì nó cũng
dẫn đến một nền khoa học tồi; trong trường hợp xấu nhất nó sẽ sa vào cái thứ
chủ nghĩa được gọi là chủ nghĩa thực dân – là thứ mà chúng ta sử dụNg để áp đặt
cho người Ilchamus những khái niệm của riêng phương Tây chúng ta, lý giải nền
văn hoá của họ theo khuôn khổ của chúng ta mà lại không cố hiểu họ
để họ dạy lại chúng ta. Vì vậy có thể quay trở lại với câu hỏi của tôi:
Tại sao người Ilchamus lại trang trí những quả bí? Tốt hơn là nên sử dụng các
thuật ngữ “người ngoài cuộc”, “có tính chất duy vật chủ nghĩa”, “lập trường
không tham gia” của Gould và Binford, và bằng cách áp dụng/ kiểm nghiệm các qui
luật so sánh văn hoá, tôi đã quyết định đắm mình vào trong nguồn thông tin ngữ
cảnh. Những quả bí có tác dụng gì? Chúng có ý nghĩa gì?
Khi nhìn vào nguồn thông tin ngữ cảnh, một vài sự vật lập tức được gợi mở.
Những quả bí chỉ là đồ đựng có trang trí hoa văn của người Ilchamus – còn những
chiếc bình lẫn những chiếc bát và gầu múc nước thì không. Nhưng không phải tất
cả các quả bí đều được trang trí: đó chỉ là những quả dùng để đựng và dùng để
uống sữa, đặc biệt là những thứ được dùng cho trẻ em. Mỗi đứa trẻ có một hoặc
một vài quả bí riêng. Cũng như vậy, những quả bí được trang trí là những đồ vật
“phụ nữ” – chúng được phụ nữ làm ra, trang trí và rửa ráy, chúng được những
người phụ nữ sử dụng để vắt sữa bò, được phụ nữ cất giữ trong những chiếc lều
và được phụ nữ mang đi mang lại. Vì vậy trong việc giải thích hoa văn trang trí
chúng ta cần xem xét các mối quan hệ giữa những quả bí, sữa và phụ nữ; và bởi
vì việc trang trí đặc biệt trên những quả bí sử dụng cho trẻ con uống sữa, nên
chúng ta phải xem xét những người phụ nữ gắn liền với vai trò sinh nở của họ.
Chúng ta có thể bắt đầu với sữa. Đây là một nguồn sống quan trọng gắn liền
với vai trò trung tâm của bò (và ở một mức độ ít hơn là dê) với tư cách là
thước đo chủ yếu về sức khoẻ. Trong hầu hết thời gian một năm, phụ nữ phải vắt
sữa bò, trông coi sữa và phân phối sữa cho trẻ em và đàn ông. Gắn liền với sinh
kế thực sự, tầm quan trọng của sữa chính là tầm quan trọng có tính biểu tượng
trung tâm của nó.: Sữa được sử dụng trong nhiều nghi lễ như là một phúc lành,
nó được trộn với mỡ và được trải trên đất để cầu mưa, các lãnh tụ tôn giáo hoặc
lai bon tiên đoán tương lai bằng cách nhìn vào quả bí đầy sữa,...vv.
Cần phải nhớ rằng đó là những quả bí của trẻ con, được trang trí đặc biệt,
vì người Ilchamus có nhiều nghi lễ và những phương tiện biểu tượng để bảo vệ
trẻ em. Tại sao trẻ em lại quan trọng đến như vậy? Tất cả những người đàn ông
đều nói, và đây là một lời tuyên bố rõ ràng và luôn luôn được nhắc lại, mối bận
tâm chủ yếu của họ là phải có nhiều vợ, để có nhiều con, và vì vậy mà họ còn có
thể có nhiều súc vật. Không giống như đất đai, súc vật được coi là một nguồn
của cải tự tăng dần, và chúng được dùng để thanh toán cho các đám cưới – vì vậy
mà các thị tộc giàu có hơn, có nhiều súc vật hơn có thể mua được nhiều vợ hơn,
có nhiều con hơn, và dân số của họ tăng nhanh nhờ sinh đẻ. Vậy là những thị tộc
lớn hơn trở thành những vùng đệm tốt nhất chống lại bệnh tật và hạn hán; vì vậy
những thị tộc lớn hơn có thể tích cóp được nhiều gia súc tính theo đầu người,
và trở nên thịnh vượng hơn. Kết quả là việc kiếm sống và trợ giúp cho kinh tế
và xã hội được các thị tộc lớn thực hiện tốt hơn. Hơn nữa các thị tộc lớn hơn
và thịnh vượng hơn lại cũng có vai trò quan trọng hơn về phương diện chính trị;
họ có khuynh hướng phụng sự thủ lĩnh của
thị tộc hoặc bộ lạc tốt hơn và có được những ảnh hưởng chính trị lớn hơn.
Vì vậy trẻ con là nhân tố rất quan trọng để tăng thêm qui mô của thị tộc.
Nhưng chúng cũng đóng vai trò quan trọng trực tiếp trong việc tăng thêm tài sản
gia súc của thị tộc theo nhiều cách. Trước hết trẻ em có vai trò lớn trong chăn
nuôi, trông nom súc vật. Thứ hai, việc người ta chia súc vật cho con trai khiến
cho đàn gia súc phát triển thêm trong nhiều vùng khác nhau của quốc gia, nơi mà
chúng được bảo vệ hoặc được phòng tránh khỏi bệnh tật và có thể tận dụng được
các vùng chăn thả khác nhau. Vì vậy những đứa con trai có một vai trò quan
trọng trong gia đình và trong thị tộc, vì chúng liên quan đến việc làm tăng
thêm sự thịnh vượng bằng cách tăng thêm đàn gia súc, vì mỗi người con trai đều
gây dựng dần dần đàn gia súc cho riêng mình. Thứ ba, con gái là quan trọng vì
thông qua đám cưới con gái, gia đình nhận được được từ thị tộc khác những súc
vật làm của trả nợ cho cô dâu. Nông nghiệp đóng một vai trò quan trọng thứ sinh
trong các chiến lược xã hội của người đàn ông. Muốn đạt được mục đích chính yếu
thì phải dựa vào gia súc và con cái, các ông già phụ thuộc vào phụ nữ vì
họ là người sản sinh ra những đứa con và là người chăm sóc bọn trẻ trong phạm
vi gia đình. Nhưng đóng góp này của phụ nữ chỉ có ý nghĩa trong những hoàn cảnh
bị các ông già từ bỏ. Trong xã hội Ilchmus người ta ra các quyết định thông qua
các cuộc thảo luận tập thể giữa những người già với nhau, cả vị thế lẫn lòng
kính trọng có được từ cộng đồng là nhờ ở khả năng nói tốt. Người phụ nữ thường
không được cộng đồng tham khảo ý kiến về các lĩnh vực chính trị và công cộng,
và người ta cho rằng họ không nói được điều gì có ý nghĩa. Trong nhiều bối
cảnh, phụ nữ không được nói trước mặt đàn ông. Nếu tôi hỏi các ông già rằng ý
kiến nào của phụ nữ có thể có giá trị thì họ thường trả lời là “nói không phải
là công việc của đàn bà”.
Chúng ta có thể thấy tại sao trong bối cảnh Ilchamus người phụ nữ lại có
thể trang trí những quả bí đựng sữa. Đàn ông nói rằng họ thích nhìn thấy những
người phụ nữ trang trí quả bí đẹp - điều đó chứng tỏ rằng đó là người vợ đảm
đang, rằng bà ta không quản thời gian chăm nom và cho con ăn sữa...vv. Điều đó
chứng tỏ rằng một người đàn ông có một người vợ “tốt” nếu bà ta trang trí quả
bí: nó chứng tỏ rằng bà ta có một niềm tự hào nào đó trong các công việc nuôi
dạy con cái ở nhà, và điều đó ngầm chỉ một sự bằng lòng nào đó đối với lợi ích
của riêng ông ta - đối với cái mà ông ta cho là quan trọng. Phụ nữ cũng thường
thể hiện những cách nhìn tương tự – một người phụ nữ trang trí những quả bí
giỏi sẽ là một “người mẹ hiền” và luôn luôn nhận được sự ủng hộ và giúp đỡ của
những người đàn bà khác. Nhưng trong lối nhìn của những người đàn bà Ilchamus
về sự thầm lặng đoan trang, về sự im lặng của họ trong thế giới đàn ông, thì
tôi bắt đầu tự hỏi phải chăng không còn một định hướng nào khác trong việc
trang trí. Có vẻ lạ kỳ là người phụ nữ chỉ trang trí những quả bí. Hơn nữa phụ
nữ không cho con ăn bằng những chiếc bình và làm các việc khác liên quan đến
việc chăm sóc trẻ con trong bối cảnh gia đình bằng những chiếc bình. Có lẽ điều
thú vị là chỉ có việc trang trí ở nhà mới liên quan đến các nguồn được người
đàn ông đánh giá cao - đó là sữa gia súc và trẻ em. Vậy là chúng ta đã thấy
rằng đóng góp trọn vẹn của người phụ nữ cho xã hội bị đàn ông khước từ. Đàn ông
mới là người kiểm soát phương thức thống trị của diễn ngôn – diễn ngôn công
khai. Có lẽ trong công việc trang trí người đàn bà đã ngầm hiểu được tầm quan trọng
của họ trong xã hội. Trong diễn ngôn công khai, và có lẽ trong nhận thức riêng
của họ, phụ nữ thể hiện lối nhìn người đàn ông thống trị xã hội, nhưng một cách
ngấm ngầm, hoặc rõ hơn là trong thực tiễn hàng ngày, việc trang trí xác
định và nhấn mạnh tầm quan trọng về chức năng sinh sản của người phụ nữ trong
một xã hội mà việc sinh sản (ra trẻ con và ra đàn súc vật cho sữa) là cột trụ
quyền lực của người đàn ông.
Tôi bắt đầu nhận ra có một cái gì đó liên quan đến ý tưởng này khi tôi lưu
ý đến các tuyên bố mâu thuẫn của đàn ông về những quả bí. Một đàng họ nói
“Vâng, chúng tôi thích phụ nữ trang trí những quả bí”, nhưng đàng khác, họ lại
vòng vo quanh quẩn để khước từ tầm quan trọng của công việc trang trí. “Đó chỉ
là phụ nữ thôi, chúng tôi không quan tâm đến công việc đó, đừng nói với chúng
tôi về những quả bí - đó là công việc của đàn bà”. Bằng cách đó, bằng một thứ
diễn ngôn thống trị, vai trò của người phụ nữ bị xem thường hoặc bị gạt ra
ngoài lề. Cũng có thể nhận thấy vai trò
răn đe của việc trang trí nếu chúng ta xem xét những mẫu trang trí được sử dụng
trên những quả bí - đặc biệt là những hoa văn zig-zags, những chữ “V” đúp, và
những hình chữ thập. Nếu chúng ta nhìn vào những ngữ cảnh khác, trong đó có
những hình này thì chúng ta sẽ thấy là chúng gắn liền với tính dục, những cuộc
ái ân với những thanh niên chưa vợ, và những lễ thức liên quan đến việc sinh
sản và thuật phù thuỷ. Toàn bộ những ví dụ này cho thấy người đàn bà vượt khỏi
tầm kiểm soát của các ông già. Trong sự kết hợp chặt chẽ của họ với người phụ
trách nghi lễ, trong việc cắt âm vật, và trong thuật phù thuỷ, người phụ nữ
phát triển những lĩnh vực hoạt động của họ và ý nghĩa của các hoạt động đó vượt
khỏi tầm kiểm soát của những người già. Phụ nữ cũng tô hình chữ “V” lên những
chiến binh trẻ chưa vợ, là người yêu của họ trước khi họ bị ép phải lấy người
già. Các phụ nữ nói về tất cả những mối liên hệ giữa việc trang trí với nghi
lễ, những người đàn ông trẻ, với thuật phù thuỷ, với mối quan tâm và nữ tính.
Rõ ràng họ có ý thức thực tế về những mối liên hệ đó, cho dù những ý nghĩa của
các trang trí đó không được cảm thấy hoặc không bộc lộ công khai. Có lẽ là ở
một mức độ nào đó, tự thân các motif trang trí đã nhập vào những quả bí để nhấn
mạnh đến sữa và trẻ em như là những lĩnh vực kiểm soát thực tiễn của người phụ
nữ, giống như những lĩnh vực kiểm soát khác (cắt âm vật chẳng hạn), mà ở đó có
sử dụng trang trí.
Tôi muốn biện hộ thêm cho lý lẽ này bằng cách chỉ ra việc kiểm soát thực
tiễn sữa và trẻ em đã có những hiệu quả lịch sử như thế nào; nhưng giờ đây lại
xuất hiện một hiểm hoạ khi đặt quá nhiều gánh nặng biểu tượng và xã hội lên
những quả bí này. Tôi đã thấy những người phụ nữ khắc những hoa văn trang trí
lên quả bí một cách phi chính thức, và lười nhác thêm vào đây một dấu chấm và vào
kia một đường vạch và khi họ tán gẫu về cuộc uống bia tiếp theo, có thể tôi sẽ
không băn khoăn tự hỏi “Có thực sự là mình đúng khi gán tất cả những ý nghĩa đó
cho các hoa văn trang trí – có phải bất cứ cái gì cũng phải mang ý nghĩa xã
hội?”. Chắc chắn là tôi chỉ có được câu trả lời chủ chốt, thực sự duy nhất cho
những nỗ lực của mình bằng cách hỏi trực tiếp, “Tại sao chị lại trang trí quả
bí đó?” chính là “Vì nó làm cho quả bí đẹp lên”. Chắc chắn là tôi cần đưa ra
một thứ niềm tin nào đó cho cái quan điểm bản địa vững chắc này. Và tôi bắt đầu
cảm thấy rằng có lẽ không có một nguyên do xã hội nào, có lẽ những quả bí chỉ
được trang trí như là một phần của một tổng thể thẩm mỹ.
Chắc là những nguyên do xã hội đưa ra ở trên – ý tưởng về sự bày tỏ một
cách công khai sự kiểm soát của người phụ nữ và ý tưởng về ước vọng của người
đàn ông đối với sự đảm đang việc nhà của phụ nữ - đã không hề giải thích cho
việc trang trí đó. Tôi đã giải thích những chức năng của hoa văn, nhưng nó lại
không lý giải phong cách, tự thân hoa văn – sự trở thành của nó. Chúng ta có
thể thấy rõ ràng điều này nếu chúng ta bắt đầu từ những chức năng xã hội. Để
đạt tới những chức năng đó, người đàn bà không phải trang trí những quả bí;
không có những cách khác để chỉ rõ ai đó đảm đang trong công việc gia đình (xây
dựng lều trại, tắm rửa cho trẻ con, đeo bùa hộ mệnh cho chúng, giữ lửa trong
bếp...vv), nhưng lại có những cách khác để thực thi việc kiểm soát thực tiễn
đối với trẻ em và sữa – thực sự thì dù sao những người đàn ông cũng bị loại khỏi
những lĩnh vực này. Tại sao các xã hội láng giềng khác có những nền kinh tế dựa
vào hoạt động du mục hệt như vậy, có những mối quan tâm hệt như vậy đối với gia
súc và con trẻ lại không trang trí những quả bí? Không có những mối liên quan
nhất định giữa các chức năng thích nghi xã hội và phong cách văn hoá. Vì vậy
sau tất cả những điều đó, tôi vẫn không
lý giải được tại sao họ trang trí những quả bí. Vậy là tôi quyết định tập trung
vào một đầu mối chắc chắn mà bản thân người Ilchamus đã cho tôi. Họ lặp đi lặp
lại trong khi trả lời câu hỏi của tôi “tại sao các chị lại trang trí những quả
bí?”, “để làm cho chúng đẹp lên”. Dường như tôi chỉ có thể hiểu vấn đề thẩm mỹ
này bằng cách quay trở lại với lịch sử của người Ilchamus, để xem xem ý tưởng
này đã được phát triển như thế nào.
Lý giải vắn tắt dưới đây về các vấn đề lịch sử Ilchamus trên 200 năm qua là
dựa vào việc khai quật KCH (Hivernel, thông tin cá nhân cho tác giả), các dữ
liệu lịch sử, dân tộc học lịch sử và những lý giải truyền khẩu (Xem Hodder 1982;
1991). Trong thế kỷ 19, người Ilchamus đã không sống trong các lều trại riêng
rẽ và phân tán như hiện nay. Đúng ra, họ đã sống trong những ngôi làng lớn,
đông đúc và được bố phòng cẩn mật. Họ có một ít gia súc và nền kinh tế dựa trên
cơ sở nền nông nghiệp tưới nước. Cái gì là ngữ cảnh của những hoa văn ở đây?
Những quả bí được trang trí, những chiếc bình và những đồ đựng khác. Vật thể
thực sự dùng để trang trí lên đó là cơ thể phụ nữ và cơ thể các chiến binh trẻ moran,
thêm một người già. Điều quan trọng là hình tượng vĩ đại của các ngôi làng do
tổ tiên truyền lại, những thủ lĩnh tôn giáo vĩ đại nhất của người Ilchamus sống
trong thế kỷ 19 được gán cho những năng lực ma thuật ghê gớm, đã và hiện vẫn
được gọi là “người có hoa văn”. Ông ta khác biệt với các thủ lĩnh thế tục khác
bằng tấm thân được trang trí của mình. Khi người Ilchmus nói rằng hoa văn làm
cho đồ vật đẹp lên thì họ muốn nói đến nhiều đồ vật. Các ý nghĩa của chúng bị
ảnh hưởng bởi những liên tưởng lịch sử với “người có hoa văn”. Đặc biệt, hoa văn
xác nhận xã hội tính (hoà đồng tính) trong cuộc sống của người Ilchamus. Có một
câu ngạn ngữ nói rằng kẻ không có chuỗi hạt là kẻ
muốn sống đơn độc. Theo một nghĩa nào đó thì được trang trí hoa văn có
nghĩa là “người Ilchamus” – là những người “sống hoà thuận” trong những ngôi
làng; nhưng vẻ đẹp được làm tăng thêm bằng sự “khơi dậy” các liên tưởng tới các
thủ lĩnh tôn giáo và với các phụ nhóm chẳng hạn như thanh niên và phụ nữ.
Khía cạnh lịch sử này không giải thích tại sao trong các làng thuộc thế kỷ 19,
phụ nữ không trang trí những quả bí. Trong các làng đó, mối quan tâm của những
người đàn ông không phải là việc tăng cường khả năng sinh nở – nguồn của cải
chủ yếu lại nằm trong nền nông nghiệp tưới nước. Nông nghiệp luôn luôn có một
vị thế văn hoá thấp trong cộng đồng người Ilchamus. Lao động trở thành một
nguồn hiếm hoi và được khai thác từ những bộ lạc xung quanh, nhưng trong cộng
đồng Ilchmus thì chính những người phụ nữ chứ không phải đàn ông mới là những
lao động nông nghiệp hàng ngày, với giá trị thấp và buồn tẻ. Vì phụ nữ không
thể cung cấp nguồn lao động liên tục và đẻ nhiều con, và tỷ lệ sinh đã bị hạn
chế một cách ngặt nghèo. Vậy thì đây không phải là một ngữ cảnh thích hợp cho
những người phụ nữ thực hiện công việc trang trí những bình đựng sữa dùng để
nuôi trẻ. Đàn ông có ít gia súc và ít con. Các chiến lược của họ phụ thuộc vào
ngũ cốc, đồ đun nấu, đồ đựng và ăn bằng những chiếc giỏ đan lát, bằng đồ gỗ,
bằng đồ gốm. Nhưng về phương diện lịch sử thì chỉ có gia súc chứ không phải là
ngũ cốc mới là thứ có giá trị cao đối với người Ilchamus. Tôi không có bằng
chứng để lý giải xem cái hệ thống giá trị định hướng gia súc này xuất phát từ
đâu; đó là một vấn đề lịch sử và xã hội học phải đợi thêm bằng chứng. Nhưng kết
quả là trong các làng Ilchamus người ta ít quan tâm đến việc trang trí những đồ
đựng các sản phẩm ngũ cốc, và chúng ít có hiệu quả xã hội.
Chúng ta luôn luôn có thể đi ngược trở lại thời gian theo cách này, bằng
cách tìm kiếm những liên tưởng lịch sử, bằng cách lý giải một trạng thái trong
khuôn khổ những tiền đề của nó. Thực ra thì đó là một phần của cách tiếp cận mà
tôi mong muốn đề xuất trong cuốn sách này đó là lịch sử – văn hoá từ “bên
trong” chính là một bộ phận cần thiết để lý giải KCH. Nhưng chúng ta hãy tiếp
tục hướng về phía trước để mô tả bối cảnh của thế kỷ 19.
Vào khoảng năm 1900, người Ilchamus đã rời bỏ các ngôi làng của họ, đem
theo gia súc, từ bỏ nông nghiệp và chấp nhận mô thức định cư rải rác như bây
giờ. Có nhiều “nguyên do” khiến chúng ta có thể lý giải hiện tượng này. Những
con sông chảy bên cạnh các ngôi làng đã bị tắc nghẽn bùn đất đòi hỏi phải được
khai thông. Người Anh đến và chấm dứt các cuộc chiến tranh bộ lạc, điều đó đã
cho phép người ta có thể sống phân tán; dân số của các làng trở nên đông đúc
hơn; các tuyến đường thương mại Arab đã di chuyển cách xa các ngôi làng; ...vv.
Nhưng toàn bộ những nhân tố này không phải là nguyên do của sự thay đổi - đó
chỉ là những điều kiện của sự thay đổi, vì trong mọi trường hợp người Ilchamus
vẫn có thể duy trì cuộc sống trong các ngôi làng cũ hoặc trong những ngôi làng
mới.
Nguyên do phân tán của họ là vì một loạt ý định dựa trên những tất yấu bắt
nguồn từ lịch sử. Như đã lưu ý ở trên, người Ilchamus xem thường lao động nông
nghiệp, và tài sản được tính bằng đầu gia súc. Trang trí là đẹp, nhưng gia súc
cũng đẹp. Cuộc sống của người đàn ông Ilchamus tập trung toàn bộ xung quanh gia
súc, và việc sống phân tán cho phép duy trì cạnh tranh thị tộc và qui mô của
thị tộc tăng lên thông qua sự sinh sản của gia súc.
Sau khi phân tán, những người phụ nữ lập tức bắt tay vào trang trí những
quả bí. Với tư cách là một bộ phận của quá trình phân tán, những người đàn ông
vận động hướng tới hiện trạng như đã được mô tả, trong đó mối quan tâm chủ yếu
của họ là có nhiều vợ, nhiều con để sao cho họ có thể có nhiều gia súc. Tỷ lệ
sinh tăng lên một cách mạnh mẽ. Đàn bà không còn làm việc ở ngoài đồng nữa.
Trong bối cảnh đó, một điều tự nhiên là đàn bà bắt đầu trang trí những quả bí
đựng sữa – là thứ gắn liền với một thuộc tính của cuộc sống, là thứ mà tất cả
mọi người đều đánh giá một cách tích cực và cho là quan trọng vì nhiều lý do
khác nhau. Những quả bí bắt đầu được trang trí như là một phần của những sắp
đặt văn hoá hiện tồn vào một ngữ cảnh mới. Các nguyên tắc và ý nghĩa thẩm mỹ
liên quan đến việc trang trí được phát triển từ cơ thể phụ nữ, thanh niên đến
lĩnh vực mới trong việc chăm sóc trẻ em và việc cung cấp sữa để làm cho chúng
đẹp lên. Nhưng hoa văn mới cũng mang tính kích thích và chứa đựng hiểm hoạ: hầu
như là sấc xược nó tạo nên một địa vực của phụ nữ liên quan đến một thuộc tính
của các nguồn gia súc.
Tất cả những người đàn ông và đàn bà Ilchamus đều thừa nhận rằng sau khi
phân tán, những người đàn bà có được quyền năng và sự độc lập mới. Điều đó dính
líu đến, chẳng hạn như những người phụ nữ già có thể “sở hữu” riêng các nguồn
(chẳng hạn gia súc). Và một thực tiễn đã được thể chế hoá nhờ đó mà một người
đàn bà có thể bắt chồng bà ta phải chịu thử thách và yêu cầu thị tộc của bà ta
phạt người chồng rất nặng. Mặc dù vẫn còn là thiểu số, nhưng quyền lực của
người đàn bà trong xã hội đã tăng lên. Việc làm cho sữa và trẻ em “đẹp lên”
theo cung cách riêng của người phụ nữ thông qua việc sử dụng hoa văn trang trí
về phương diện lịch sử là gắn liền với phụ nữ, những thanh niên và các nhóm quyền
lực (các thủ lĩnh tôn giáo) trong xã hội, là một phần của quá trình mở rộng
quyền kiểm soát của phụ nữ.
Vậy là chúng ta đã đề cập đến truyền thống và hiện trạng được mô tả ở đầu
chương này. Nhưng những phát triển thêm ấy vẫn xuất hiện trong xã hội Ilchamus.
Trong vòng 10 – 20 năm qua, đã thấy một hiện tượng mới – trang trí nội thất các
căn lều. Hơn nữa công việc này lại do phụ nữ thực hiện bằng cách sử dụng hàng
loạt hoa văn zig-zags đã được trang trí trên cơ thể và trên những quả bí mà chỉ
có người Ilchamus mới làm công việc này.
Trong thời gian gần đây, nhiều gia đình đã ít quan tâm đến vấn đề phải có
nhiều con, mà quan tâm nhiều hơn đến việc giáo dục và công ăn việc làm của
chúng ở bên ngoài xã hội Baringo, hoặc là những công việc có tính chất hành
chính. Công việc của người đàn ông bên ngoài khu vực sinh sống của họ đã xuất
hiện trong tình trạng người đàn ông phụ thuộc vào lao động phụ nữ với những
công việc ở nhà, trong những thời gian khá dài (một vài năm) vắng mặt đàn ông.
Vị thế cao trong các trung tâm mới mọc lên xung quanh một ngôi nhà vuông trông
có vẻ phương Tây, với những đồ vật phương Tây bên trong, với một người vợ biết
chữ, được giáo dục và ăn mặc kiểu phương Tây. Phức
hợp ý tưởng mới nhấn mạnh vào vệ sinh, và trẻ em không được cho ăn bằng những
quả bí có trang trí mà là bằng các chai nhựa và núm vú cao su. Trong bất cứ
trường hợp nào thì chiến lược của đàn ông cũng bao gồm không chỉ là sự tái sinh
sản trong khung cảnh gia đình mà còn là lao động được trả công. Tuy nhiên giờ
đây đàn ông lại hoàn toàn phụ thuộc vào lao động của những người vợ của họ
trong bối cảnh gia đình, đó là công việc trên cánh đồng, chăn gia súc và
chăm nom con trẻ.
Trong những gia đình như vậy, việc tái sinh sản không phải là vấn đề trung
tâm, nhưng phụ nữ vẫn trang trí những quả bí, (mặc dù đó không phải là những
thứ dùng để thay thế cho những chiếc chai nhựa) và họ còn trang trí lều trại
làm cho toàn bộ khung cảnh gia đình đẹp lên. Toàn bộ lều trại chứ không phải
chỉ là bộ phận, giờ đây đã trở thành phụ nữ. Những mối tương quan lịch sử được
duy trì dưới dạng những hoa văn và việc sản xuất ra nó (bởi phụ nữ). Hơn nữa
đây là một sự mở rộng “tự nhiên” những nguyên lý hiện tồn, nhưng nó lại có hiệu
quả thực tiễn làm thay đổi ý nghĩa xã hội của hoa văn và của việc mở rộng lãnh
địa phụ nữ. Giờ đây những người phụ nữ già dạy những phụ nữ trẻ, kể cả những
người chưa lập gia đình, để trang trí những căn lều của họ. Đối với mỗi người,
đó chỉ là đẹp, vui mắt và phù hợp vì những ý nghĩa lịch sử “bên trong”; nhưng
cũng vì các liên hệ lịch sử mà ý nghĩa và hiệu quả thực tiễn sẽ nảy sinh. Các
thái độ văn hoá riêng biệt không phải là trung tính: chúng tác động ngược và
dẫn đến những hậu quả xã hội riêng biệt.
Sự thực thì địa vị của một số phụ nữ trong xã hội Ilchmus hiện nay đang
thay đổi một cách triệt để. Trong khi hầu hết phụ nữ vẫn có ít ảnh hưởng chính
trị, đời sống công cộng, thì những phụ nữ mới “tây Phương hóa” lại tham gia vào
“các nhóm phụ nữ” được chính phủ đỡ đầu, là những nhóm vận hành công việc trong
các trang trại của họ, máy móc của họ. Giờ đây tôi muốn sử dụng quá trình này
để đưa ra một ví dụ cuối cùng về cái quá trình lịch sử mà tôi vừa mô tả.
Như đã lưu ý, người Ilchamus tạo lập một nhóm văn hoá duy nhất trong khu
vực, trong đó có các hiện vật được trang trí hoa văn (trừ một số dụng cụ đập
đơn giản). Các nhiệm vụ và những dự án phát triển của chính phủ đều tập trung
vào những quả bí của người Ilchamus như là một mặt hàng tiềm năng phục vụ cho
khách du lịch, và đã khuyến khích những người phụ nữ Ilchamus làm ra chúng để
bán, như là một phương thức kiếm tiền và bắt đầu những dự án kinh tế trang trại
tự lập. Trong hầu hết các trường hợp, những người đàn ông Ilchamus sẽ kiểm soát
rất chặt chẽ bất cứ mối liên hệ trực tiếp nào giữa phụ nữ với các cơ quan chính
phủ, với thế giới bên ngoài, và cũng kiểm soát rất nhiều tiền là những khoản mà
phụ nữ có thể kiếm được. Nhưng phụ nữ cũng có thể thoả mãn với những nhu cầu
bên ngoài bằng những quả bí và kiếm tiền theo cách đó. Bởi vì, như chúng ta đã
thấy, đàn ông phản ứng với việc kiểm soát của người phụ nữ đối với những quả bí
đựng sữa bằng cách nói rằng “đó là công việc đàn bà ấy mà”. Phụ nữ nói rằng
những quả bí được trang trí có thể được họ đem bán vì “đàn ông không quan tâm
đến những quả bí đó”. Kết quả là phụ nữ có thể kiếm được tiền, khai trương
những hợp tác xã làm trang trại, và cuối cùng thì họ có thể mua được máy kéo,
và giao dịch trực tiếp với thế giới “bên ngoài”. Cuối cùng họ đã trở thành “bên
ngoài” hơn những người đàn ông. Thực sự thì các dự án phát triển dựa trên phụ
nữ thường tỏ ra thành công hơn những dự án liên quan đến đàn ông. Vậy là nảy
sinh một điều mỉa mai là kết quả “ngoài ý muốn” của các thái độ văn hoá lịch sử
xung quanh những liên tưởng về “hoa văn” và “cái đẹp”, tưởng chừng một bộ phận
của hệ thống xã hội trong đó những người phụ nữ bị kiểm soát trong phạm vi công
việc nội trợ thì nhiều phụ nữ lại thực sự trở thành những người tham gia năng
động vào cái thế giới bên ngoài hơn nhiều người đàn ông.
Kết luận
Tôi đã sử dụng ví dụ về sự biến đổi lịch sử này trong xã hội Baringo để
chứng tỏ rằng bằng cách tập trung vào ngữ cảnh khái niệm và xã hội của việc sản
xuất văn hoá vật chất, chứ không phải là bằng cách áp đặt một cách dễ dàng các
qui luật so sánh văn hoá, một thế giới phức hợp đã được khai mở trước mắt chúng
ta. Tôi đã cố chỉ ra rằng quá trình xã hội được thoả thuận giữa những nhóm lợi
ích khác nhau trong các tiền đề văn hoá chồng chéo lên nhau. Trong trường hợp
này tôi đã tập trung vào những người phụ nữ và những người đàn ông chứ không
phải vào các phân công xã hội khác chẳng hạn như giữa người già và người trẻ
trong xã hội Ilchamus. Các cá nhân trong các nhóm lợi ích đàn ông - đàn bà nhìn
nhận thế giới thông qua cặp kính nhiều màu về phương diện lịch sử; họ lao động
và sống thông qua một tập hợp những định đề lịch sử. Những dĩ nhiên lịch sử ấy
không chỉ là những qui luật văn hoá, nếu có những qui luật đó, mà có lẽ không
có tính năng động, sự thành công không phải văn hoá, không có phong cách tốt hoặc
xấu, không có hướng. Đúng ra các qui luật văn hoá không thể tách rời khỏi các
giác quan thẩm mỹ và các chất lượng tình cảm của khát vọng, niềm tự hào...vv.
Theo cách đó, các định đề văn hoá, khi tác động trong một bối cảnh xã hội đã
đem lại những động cơ cho cả sự biến đổi xã hội (như trong trường hợp phân tán
khỏi các làng) và cho cả việc sản xuất văn hoá vật chất – chúng đều có những
tác động xã hội riêng. Các định đề hoặc các nguyên lý cấu trúc không có bắt
đầu, cũng không có kết thúc, nhưng lại thể hiện một quá trình nhân văn vĩnh
hằng. Những chuyển đổi của các nguyên lý này có thể xảy ra, thông qua các hành
động xã hội, nhưng luôn luôn trong khuôn khổ của cái đi trước.
Quay trở lại với Lý thuyết Tầm trung, chúng ta thấy rằng có thể không có
mối liên hệ văn hoá phổ quát giữa trạng thái tĩnh và trạng thái động, vì các
nguyên lý cấu trúc ngữ cảnh về phương diện lịch sử luôn luôn can thiệp. Vì vậy
cái quan niệm cho rằng Lý thuyết Tầm trung là độc đáo vì nó liên quan đến lý
thuyết độc lập có thể được sử dụng để kiểm tra những lý thuyết khác thì là một
điều sai lầm. Các quá trình văn hoá tạo nên di tích KCH không phải là độc lập
đối với việc tìm hiểu khái quát về văn hoá và xã hội. Cũng có thể khẳng định
rằng Lý thuyết Tầm trung là độc đáo vì nó nằm ở giữa một lý thuyết toàn cầu,
phổ quát và các dữ liệu: chẳng hạn việc thảo luận về các phương nhận thức và
biểu tượng của các quá trình hình thành di chỉ có thể được giới hạn ở tầm
trung. Nhưng tôi vẫn không rõ tại sao một thảo luận như vậy lại ít chất toàn cầu
hơn là một cuộc thảo luận chẳng hạn như về các nguyên do của tính phức hợp xã
hội hoặc những mối liên hệ giữa ý nghĩa và hành động. Lý thuyết Tầm trung có
thể là tầm trung khi áp dụng vào các dữ liệu. Nhưng tổng thể lý thuyết thì lại
có cả dạng khái quát lẫn ứng dụng. Hơn nữa, thuật ngữ này có vẻ như thừa.
Quay trở lại với các phương pháp Dân tộc-Khảo cổ học, chúng ta nhận thấy
rằng những phương pháp đó nên bao gồm cả việc nghiên cứu từ bên trong, nghiên
cứu tham gia và việc phân tích về phương diện lịch sử. Chúng ta không thể hiểu
bất cứ điều gì trong sự vận động hiện thời của nó – chúng ta phải luôn luôn qui
chiếu vào quá khứ và vào quá trình trở thành hiện tại. Dân tộc-khảo cổ học nên giống với nhân
học, dân tộc học và dân tộc học lịch sử hơn và kết hợp các phương pháp của
những bộ môn kề cận một cách đầy đủ hơn.
_______________________________________
Còn nữa...
Tác giả: GS. Ian Hodder sinh năm 1949, tốt nghiệp cử nhân tại Đại học London năm
1971, nhận học vị tiến sĩ tại Đại học Cambridge năm 1975, trở thành giáo sư Đại
học Cambridge từ năm 1977.
Nguyên bản: Reading the Past – Current
approaches to Interpretation in Archaeology. Second Edition. Cambridge
University Press 1991.
Tài liệu Tham
khảo
Binford,
L. R., (ed) 1977. For Theory Building in
Archaeology, NewYork: Academic Press.
Binford,
L. R., 1978. Nunamiut Ethnoarchaeology,
NewYork: Academic Press.
Binford,
L. R., 1983. In Pursuit of the Past,
London: Thames and Hudson.
Gould,
R., 1980. Living Archaeology,
Cambridge University Press.
Hodder,
I., 1979. Social and Economic Stress and
Material Culture Patterning. American Antiquity 44, 446–54.
Hodder,
I., 1982a. Symbols in Action.
Cambridge University Press.
Hodder,
I., 1991. The Decoration of Containers;
an Ethnographic Study, American Antiquity 56, 7–18.
Kramer,
C. (ed.), 1979. Ethnoarchaeology,
NewYork: Columbia University Press.
Miller,D.,
1983. Things Ain’t What They Used To Be,
Royal Anthropological Institute Newsletter 59, 5–7.
Wobst,
M., 1977. Stylistic Behaviour and
Information Exchange. University of Michigan Museum of Anthropology,
Anthropological Paper 61, 317–42.
Yellen,
J. E. 1977. Archaeological Approaches to
the Present. NewYork: Academic Press.