Vốn xã hội và xã hội dân sự (I)
Francis Fukuyama
Người dịch: Hà Hữu Nga
Vốn xã hội rất quan trọng cho việc vận hành các nền kinh tế hiện
đại, và là sine qua non (điều kiện thiết yếu) cho nền dân chủ tự do bền
vững. Nó đã tạo nên thành tố văn hóa của các xã hội hiện đại, mà ở những khía
cạnh khác nó đã được tổ chức lại từ Kỷ nguyên ánh sáng trên cơ sở của các thể
chế chính thức, vai trò của luật pháp và tính duy lý. Việc xây dựng vốn xã hội
đã được coi là một nhiệm vụ điển hình cho cuộc cải cách kinh tế “thế hệ thứ
hai”; nhưng không như các chính sách kinh tế hoặc thậm chí cả các thể chế kinh
tế, vốn xã hội không thể dễ dàng được sáng tạo và phát triển bằng chính sách
công cộng. Bài viết này sẽ định nghĩa vốn xã hội, khai thác các chức năng kinh
tế và chính trị của nó cũng như nguồn gốc của nó và đưa ra một số gợi ý về cách
thức gieo trồng vốn xã hội.
I.Vốn xã hội là gì?
Trong khi vốn xã hội đã có rất nhiều định
nghĩa khác nhau thì nhiều định nghĩa lại chỉ là những biểu hiện của vốn xã hội
chứ không phải là bản thân vốn xã hội. Định nghĩa mà tôi sử dụng trong bài viết
này là một chuẩn mực không chính thức được minh họa rõ ràng, cổ vũ cho sự hợp
tác giữa hai hoặc nhiều cá nhân hơn. Các chuẩn mực tạo nên vốn xã hội có thể
bao gồm từ một chuẩn mực về sự giao tiếp giữa hai người bạn theo mọi cách đến
những học thuyết được cấu trúc một cách phức tạp như Thiên Chúa giáo hoặc Khổng
Giáo chẳng hạn. Chúng cần phải được minh họa bằng mối quan hệ thực sự của con
người: chuẩn mực giao tiếp tồn tại tiềm tàng trong cách cư xử của tôi với tất
cả mọi người, nhưng lại chỉ được hiện thực hóa trong cách cư xử của tôi với
những người bạn của mình. Bằng định
nghĩa này, niềm tin, các mạng lưới, xã hội công dân và những mối quan hệ như
vậy gắn liền với vốn xã hội tất cả đều là những hiện tượng phụ xuất hiện như
một kết quả của vốn xã hội nhưng lại không tạo ra bản thân vốn xã hội.
Không phải bất cứ tập chuẩn mực thuyết phục
nào cũng đều tạo ra vốn xã hội; chúng phải dẫn đến sự hợp tác trong các nhóm và
vì vậy mà gắn liền với các đức hạnh truyền thống như tính lương thiện, giữ đúng
lời hứa, đáng tin cậy, tính nhường nhịn, vv. Một chuẩn mực như Edward Banfield
đã mô tả là đặc trưng cho miền Nam Italy, làm cho các cá nhân tin tưởng vào các
thành viên của các gia đình hạt nhân trực tiếp của họ nhưng lại lợi dụng bất cứ
người nào khác rõ ràng không phải là cơ sở cho vốn xã hội ở ngoài phạm vi gia
đình1.
James Coleman, người chịu trách nhiệm làm cho
khái niệm vốn xã hội được sử dụng rộng rãi hơn trong thời gian gần đây, đã từng
cho rằng đó là một thứ hàng hóa công cộng và vì vậy mà sẽ được sản xuất ít đi
bởi các tác nhân tư nhân tương tác trong các thị trường 2. Điều này
rõ ràng là nhầm lẫn: vì sự hợp tác là cần thiết gần như cho tất cả các cá nhân
như một phương tiện đạt được những mục đích ích kỷ của họ, nó tồn tại với lý do
là người ta sẽ sản xuất ra nó như một loại hàng hóa tư nhân (xem Phần IV ở dưới).
Trong cụm từ của Parthe Dasgupta, vốn xã hội là một hàng hóa cá nhân, tuy nhiên
nó lại được lan tỏa rộng khắp bởi các ngoại ứng cả tích cực lẫn
tiêu cực 3. Một ví dụ về ngoại ứng tích cực là huấn điều Tin Lành
được Max Weber mô tả để cư xử với tất cả mọi người về phương diện đạo đức không
chỉ với những người bà con hoặc các thành viên trong gia đình 4. Vì
vậy, tiềm năng hợp tác luôn vượt khỏi phạm vi một nhóm trực tiếp có chung các
chuẩn mực Tin lành. Các ngoại ứng tiêu cực cũng đầy dẫy xung quanh ta. Nhiều
nhóm người đã đạt tới sự cố kết nội tại không có lợi gì cho những người bên
ngoài, là những người có thể bị cư xử theo cách nghi ngờ, thù địch, hoặc hoàn
toàn căm ghét. Cả Ku Klu Klan lẫn Mafia đều đạt được các mục tiêu hợp tác trên cơ
sở của các chuẩn mực chung và vì vậy mà đều có vốn xã hội, nhưng họ cũng sản
sinh ra rất nhiều ngoại ứng tiêu cực cho một xã hội rộng lớn hơn mà chính họ
tồn tại ở đó.
Đôi khi người ta cũng cho rằng vốn xã hội
khác với các loại hình tư bản khác vì nó dẫn đến các kết quả xấu chẳng hạn như
các nhóm thù địch hoặc các chế độ quan liêu bẩm sinh. Điều đó vẫn không làm cho
nó mất đi tư cách là một loại hình vốn xã hội; vốn xã hội vật chất có thể có
dạng súng trường dùng để tấn công hoặc một sự giải trí vô vị, trong khi đó vốn
con người lại có thể được sử dụng để phát minh ra những cách thức mới để hành
hạ con người. Vì các xã hội đều có luật pháp để ngăn cản việc sản sinh ra những
“điều xấu” về phương diện xã hội nên chúng ta có thể cho rằng hầu hết các hình
thức hợp pháp của vốn xã hội đều không ít “điều tốt” hơn những loại hình vốn
khác chừng nào chúng vẫn giúp cho con người đạt được mục đích của mình.
Có lẽ vấn đề là ở chỗ việc vốn xã hội dường
như không thể hiện rõ là loại vốn xã hội tốt so với vốn vật chất hoặc vốn con
người là vì nó có khuynh hướng sản sinh ra nhiều ngoại ứng tiêu cực theo nhiều
cách hơn là hai loại hình vốn kia. Đó là vì tính chất đoàn kết nhóm trong các
cộng đồng người thường được người ta theo đuổi bằng cái giá của sự thù địch đối
với các thành viên ngoài nhóm. Có vẻ như là khuynh hướng chia tách thế giới
thành bạn và thù là cơ sở cho toàn bộ các nền chính trị 5. Vì vậy đó
là một điều rất hệ trọng dùng để đo lường vốn xã hội nhằm xem xét mạng lưới
ngoại ứng thực sự hữu dụng của nó.
Một cách tiếp cận khác đối với câu hỏi này là
thông qua khái niệm “phạm vi của lòng tin” 6. Tất cả các nhóm tiêu
biểu cho vốn xã hội đều có một phạm vi của niềm tin, có nghĩa là chuẩn mực hợp
tác của nhóm người đó rất có tác dụng. Nếu vốn xã hội của một nhóm tạo ra những
ngoại ứng tích cực thì các tín đoàn có thể rộng lớn hơn bản thân nhóm đó. Cũng
có thể là vì phạm vi niềm tin của nhóm nhỏ hơn phạm vi xã hội của các thành
viên nhóm vì nói chung các tổ chức nuôi dưỡng các chuẩn mực hợp tác chỉ nằm
trong giới lãnh đạo hoặc các thành viên thường trực của nhóm. Người ta có thể
cho rằng một xã hội hiện đại là một lọat các tín đoàn tập
trung hoặc xếp lớp. Các tín đoàn đó bao gồm từ những người bạn và
các băng nhóm đến các NGOs, các nhóm tôn giáo.
Gần như toàn bộ các hình thức của các nhóm xã
hội-văn hóa truyền thống như các bộ lạc, thị tộc, các hội đoàn trong làng, các
giáo phái…vv, đều dựa vào các chuẩn mực chung và sử dụng các chuẩn mực này để
đạt được các mục tiêu hợp tác. Văn liệu về phát triển như một nguyên tắc tổng
quát không tìm ra vốn xã hội trong hình thức này là một tài sản; phần nhiều
người ta coi đó một cách điển hình như một trách nhiệm pháp lý. Hiện đại hóa
kinh tế được coi là phản đề với văn hóa truyền thống và các tổ chức xã hội và
cũng sẽ tẩy sạch chúng hoặc tự phong tỏa bằng các sức mạnh của chủ nghĩa truyền
thống. Tại sao vấn đề lại như vậy, nếu vốn xã hội thực sự là một hình thức
vốn?
Theo
tôi vấn đề liên quan đến một sự thật là các nhóm như vậy có một tín đoàn hẹp. Việc
đoàn kết nội nhóm làm giảm thiểu khả năng các thành viên nhóm hợp tác với những
người bên ngoài nhóm, và thường áp đặt những ngoại ứng tiêu cực lên những người
bên ngoài nhóm. Chẳng hạn tại Trung Quốc và nhiều vùng thuộc Mỹ Latin vốn xã
hội thường tập trung trong các gia đình và một phạm vi tương đối hẹp của những
người bạn riêng 7. Đối với mọi người rất khó để tin tưởng vào những
người bên ngoài giới hạn đó. Những người lạ thường gặp nhiều khó khăn nhiều hơn
những người họ hàng với nhau; người ta sử dụng một hành vi đạo đức có tiêu
chuẩn thấp khi người ta trở thành chẳng hạn như các nhân viên họat động trong
lĩnh vực công cộng. Điều này tạo thuận lợi về phương diện văn hóa cho tham
nhũng: trong các xã hội như vậy người ta thấy mình có quyền trộm cắp nhân danh
gia đình.
Các
nhóm xã hội truyền thống thường đau khổ vì sự vắng mặt của cái mà Mark
Granovetter gọi là “các mối quan hệ lỏng lẻo” 8 có nghĩa là các cá nhân
phi chính thống nằm ở ngoại vi của các mạng lưới xã hội khác nhau là những
người có thể vận động giữa các nhóm và vì vậy mà trở thành những người mang các
ý tưởng và thông tin mới. Các xã hội truyền thống thường phân mảnh, có nghĩa là
họ bao gồm một số lớn các đơn vị xã hội tự túc, đồng nhất như các làng hoặc các
bộ lạc chẳng hạn. Ngược lại, các xã hội hiện đại bao gồm một số lớn các nhóm xã
hội trùng lặp cho phép tồn tại nhiều thành viên và nhiều bản sắc. Các xã hội
truyền thống có ít cơ hội hơn cho những quan hệ lỏng lẻo giữa các bộ phận phân
mảnh tạo ra bản thân các xã hội đó, và vì vậy mà nó gặp nhiều khó khăn trong
việc chuyển tải thông tin, đổi mới, và các nguồn nhân lực.
II.
Vốn xã hội có những chức năng gì trong nền Dân chủ Thị trường Tự do?
Chức năng kinh tế của vốn xã hội là giảm thiểu các
chi phí giao dịch kèm theo các cơ chế điều phối hình thức chẳng hạn như các hợp
đồng, các thứ hạng, các nguyên tắc quan liêu…vv. Tất nhiên cũng có thể đạt được
hành động phối hợp trong một nhóm người không có vốn xã hội, nhưng điều này có
vẻ gây ra những chi phí giao dịch thêm về giám sát, thương thảo, tranh chấp, và
làm cho các hợp đồng trở nên có hiệu lực. Không một bản hợp đồng nào có thể chi
tiết hóa mọi sự kiện ngẫu nhiên xảy ra giữa các bên đối tác; hầu hết người ta
đều giả định trước một số thiện chí nhất định nhằm ngăn cản các bên không được
lợi dụng các kẽ hở pháp lý không lường trước được. Các hợp đồng tìm cách cố
gắng để cụ thể hóa tất cả mọi ngẫu nhiên mà các thỏa thuận lao động có kiểm
soát công việc đã được thương thảo trong ngành công nghiệp ô tô cũng dày không
kém gì những cuốn danh bạ điện thoại rất xơ cứng và tốn kém nếu muốn chúng trở
nên có hiệu lực.
Đã có một thời gian khi các nhà khoa học xã hội cho
rằng hiện đại hóa nhất thiết gây ra sự thay thế các cơ chế hợp tác không chính
thức bằng những cơ chế chính thức theo hướng tiến bộ. Có lẽ đã có một giai đoạn
trong lịch sử con người trong đó luật pháp chính thức và các tổ chức rất ít
khi tồn tại và trong đó vốn xã hội lại
là phương tiện duy nhất để có được hành động hợp tác; Max Weber cho rằngbản
chất của tính hiện đại đã được tạo dựng bằng hợp đồng và chế độ quan liêu duy
lý.
Sự thật vấn đề lại là ở chỗ việc hợp tác dựa trên
các chuẩn mực không chính thức vẫn còn là một phần quan trọng của các nền kinh
tế hiện đại, và người ta có thể cho rằng ngày càng trở nên quan trọng vì bản
chất của họat động kinh tế ngày càng trở nên phức tạp và tinh xảo về phương
diện công nghệ 9. Nhiều dịch vụ phức tạp có giá giám sát rất tốn kém
và được kiểm soát tốt hơn thông qua các tiêu chuẩn chuyên nghiệp được nội tại
hóa chứ không phải là thông qua các cơ chế giám sát chính thức. Một kỹ sư phần
mềm có trình độ giáo dục cao thường biết về năng suất riêng của ông/bà ấy hơn
là người giám sát họ có thể biết; việc mua sắm thường đạt được hiệu quả khi để
cho sự đánh giá của một chuyên viên mua sắm có kinh nghiệm thay vì đực thực
hiện “bởi cuốn sách” như trong trường hợp của một hợp đồng mua sắm béo bở của
chính phủ. Một số nghiên cứu kinh nghiệm chủ nghĩa đã cho thấy rằng R&D
(Nghiên cứu & Phát triển) công nghệ cao thường tùy thuộc vào sự trao đổi không chính thức về các bản
quyền phát minh sáng chế, đơn giản là vì việc trao đổi chính thức sẽ làm phát
sinh thêm các chi phí giao dịch và làm chậm tốc độ trao đổi 10.
Ngay cả trong các môi trường phi công nghệ cao thì
vốn xã hội vẫn dẫn đến hiệu quả cao hơn so với các kỹ thuật điều phổi thuần túy
hình thức. Dây truyền Taylor cổ điển tổ chức các vị trí làm việc theo cách thức
quan liêu hóa, tập trung hóa cao độ đã gây ra nhiều tình trạng không hiệu quả
khi các quyết định bị chậm trễ và thông tin thì bị bóp méo trong khi chuỗi mệnh
lệnh phân cấp thì lúc lên, lúc xuống. Trong nhiều phương tiện thao tác, phương
pháp Taylorism đã bị thay thế bởi nhiều cấu trúc quản lý phẳng hơn bằng cách
traô trách nhiệm cho bản thân cấp thấp nhất của nhà máy. Công nhân là người gắn
bó nhất với các nguồn tri thức địa phương được ủy quyền ra quyết định về bản
thân họ hơn là qui họ vào một hệ thống phân cấp quản lý. Điều này thường đưa
lại hiệu quả lớn hơn 11, nhưng lại hoàn toàn tùy thuộc vào vốn xã
hội của lực lượng lao động. Nếu tồn tại sự bất tín giữa công nhân và đội ngũ
quản lý, hoặc chủ nghĩa cơ hội tràn lan thì việc ủy quyền đòi hỏi một hệ thống
thao tác “khuynh hướng” một cách điển hình sẽ dẫn đến chứng bại liệt tức khắc.
Trong thực tế điều này đã xảy ra với hãng General Motors trong cuộc đình công
năm 1996 và 1998 khi một người dân địa phương đơn độc phản kháng (lúc đầu thì tức
giận vì việc nhập linh kiện phanh) đã làm cho tất cả các họat động của công ty
bị đình trệ trên toàn bộ Bắc Mỹ 12.
Chức năng chính trị của vốn xã hội trong một nền dân
chủ hiện đại đã được Alexis de Tocqueville chỉ ra một cách rõ ràng nhất trong Nền dân chủ Mỹ, bằng cách dùng cụm
từ “nghệ thuật lập hội” để mô tả thiên hướng của người Mỹ
đối với việc hình thành hội đoàn dân sự. Theo Tocqueville, một nền dân chủ hiện
đại có khuynh hướng xóa bỏ hầu hết các hình thức giai cấp xã hội hoặc cái vị
thế cha truyền con nối trói buộc người ta vào các giới quí tộc. Những người
không thuộc các giới quí tộc thì tương đối tự do nhưng lại yếu trong tính bình
đẳng vì họ được sinh ra trong các điều kiện không gắn bó gì với truyền thống.
Khuyết tật của nền dân chủ hiện đại là cổ vũ thái quá cho sự phát triển của chủ
nghĩa cá nhân, có nghĩa là một thiên kiến với cuộc sống riêng tư và gia đình
của người ta, và tính chất thiếu thiện chí trong việc cam kết với các công việc
công cộng. Người Mỹ đã đấu tranh chô khuynh hướng này nhằm hướng tới chủ nghĩa
cá nhân bằng thiên hướng lập các hội tự nguyện đưa đến thành lập các nhóm vừa
tầm thường lại vừa quan trọng đối với tất cả mọi lĩnh vực đời sống của họ. Điều
đó hoàn toàn tương phản với nước Pháp quê hương ông là nơi bị vây bọc bởi một
thứ chủ nghĩa cá nhân còn triệt để hơn so với Hoa Kỳ. Như Tocqueville đã giải
thích trong Chế độ cũ và Cuộc cách mạng Pháp, trong đêm trước của cuộc Cách mạng đã “không thể có được đến 10
người Pháp có thể sát cánh vì một sự nghiệp chung nào”. Chỉ có thể bằng cách
cùng nhau thành lập các hội dân sự thì những cá nhân yếu ớt mới trở nên mạnh mẽ
được; các hội mà họ thành lập cũng có thể tham gia trực tiếp vào đời sống chính
trị (như trong trường hợp của một đảng chính trị hoặc một nhóm lợi ích) hoặc
hoặc có thể họat động như là những “trường học về địa vị công dân” mà ở đó các
cá nhân học về các thói quen hợp tác là cái cuối cùng rồi cũng phải được đưa
vào đời sống công cộng.
Một nguồn vốn xã hội dồi dào đực coi là cái có thể tạo ra được một
xã hội dân sự đông đảo, mà đến lượt mình nó lại hầu như phổ biến được coi là
một điều kiện cần thiết cho nền dân chủ tự do hiện đại (bằng cụm từ của Ernest
Gellner “không có xã hội dân sự thì không có dân chủ” 13. Nếu một
nền dân chủ thực sự là tự do thì nó phải duy trì một bầu không khí an toàn về
tự do cá nhân mà ở đó nhà nước bị giới hạn quyền can thiệp. Nếu một hệ thống
chính trị như vậy không thoái hóa thành tình trạng vô chính phủ thì xã hội tồn
tại trong cái môi trường an toàn đó phải có được khả năng tự tổ chức của nó. Xã
hội dân sự phải có nhiệm vụ cân bằng quyền lực của nhà nước và bảo vệ các cá
nhân khỏi quyền lực của nhà nước.
Khi không có một xã hội dân sự thì nhà nước thường cần phải tổ
chức các cá nhân là những người không thể tự tổ chức bản thân mình. Vì vậy kết
quả của chủ nghĩa cá nhân là không có tự do, nhưng đúng ra thì chính thể chuyên
chế của cái mà Tocqueville thấy như một nhà nước to lớn và nhân từ treo lơ lửng
trên xã hội, và giống như một người cha mà nhìn vào tất cả các nhu cầu của xã
hội. Những cấp thấp của vốn xã hội dẫn đến một số họat động bất thường về
phương diện chính trị là thứ đã được xây dựng tư liệu tăng cường. Theo phân
tích của Tocqueville về nước Pháp nhiều nhà quan sát đã lưu ý đến quá trình tập
trung hóa hành chính đã dẫn đến một hệ thống chính trị quá khắt khe và không
đáp ứng được nhu cầu xã hội, một hệ thống chỉ có thể thay đổi thông qua sự bùng
nổ chống lại hệ thống chẳng hạn như sự cố năm 1968 14. Những nguồn
vốn xã hội cấp độ thấp gắn liền với chính quyền thiếu hiệu quả của địa phương ở
Nam Italy cũng như ở những vùng tràn ngập tham nhũng 15. Trong nhiều
xã hội Mỹ Latin, một niềm tin trong phạm vi hẹp tạo ra hệ thống đạo đức hai cấp
với hành vi tốt được dành cho gia đình và bạn bè thân quen, còn tiêu chuẩn hành
vi thấp hơn thì dành cho xã hội. Điều đó đã tạo ra nền tảng văn hóa cho tham
nhũng là hành động thường được coi là chính đáng để chăm sóc gia đình.
Tất nhiên cũng có thể có nhiều điều tốt. Cam kết dân sự của một
con người là tìm kiếm kẽ hở của người khác; hầu hết của cái tạo nên xã hội dân
sự có thể được mô tả như những nhóm lợi ích nhằm cố lái các nguồn lực công cộng
sang những sự nghiệp mong muốn theo ý họ, cho dù đó là trang trại củ cải đường,
khoản chăm sóc sức khỏe của phụ nữ, hoặc bảo vệ đa dạng sinh học. Các tài liệu
lựa chọn công cộng đã phân tích các hậu quả của hành vi tìm kiếm kẽ hở trong
các nền dân chủ hiện đại ở một mức độ lớn; Mancur Olson đã cho rằng sự suy
thoái kinh tế dài hạn của Anh gây ra bởi việc kiến tạo dài hạn các nhóm lợi ích
xã hội tách biệt ở đó 16. Không có gì để đảm bảo rằng các NGOs tự
cho là lợi ích công cộng lại thực sự thể hiện các lợi ích công cộng thực sự.
Một điều hoàn toàn có thể là một khu vực NGO quá năng động có thể địa diện cho
một quá trình phân cực thái quá của đời sống công cộng, là cái cũng có thể làm
méo mó chính sách công hoặc dẫn đến sự đình trệ hoàn toàn 17.
Mặc
dù có thể là một xã hội có quá nhiều vốn xã hội thì không còn nghi ngờ gì nữa
việc có quá ít vốn xã hội sẽ là điều tệ hại. Để trở thành một nguồn bổ sung cho
các nhóm được tổ chức, vốn xã hội đóng vai trò sống còn đối với việc vận hành
một cách chính xác các thể chế công cộng chính thức. Đôi khi người ta vẫn cho
rằng thật hữu dụng khi so sánh các xã hội bằng khuôn khổ thể chế chứ không phải
bằng khuôn khổ văn hóa. Chẳng hạn Chalmer Johnson đã cho rằng những khác biệt
trong chính sách kinh tế Mỹ và Nhật không phải dựa trên cơ sở văn hóa mà chỉ
đơn giản là kết quả của một sự thật là Nhật Bản có MITI* còn Mỹ thì lại không 18.
Vấn đề là ở chỗ nếu Mỹ tạo ra một MITI tương tự ở Washington thì nó sẽ không
bao giờ có được một kết quả tương tự. Nhưng lại có nhiều lý do để cho rằng các
xã hội khác nhau có những năng lực văn hóa khác nhau trong việc xây dựng thể
chế. Việc Nhật Bản xây dựng một cơ quan kế hoạch hóa kinh tế có quyền lực to
lớn trong việc phân bổ tín dụng không dẫn đến những cấp độ tương tự của việc
tìm kiếm kẽ hở và tham nhũng công khai là cái mà các cơ quan tương đương đã gây
ra ở Mỹ Latin hoặc Châu Phi (hoặc ngay cả Mỹ có làm theo mẫu hình Nhật Bản đi
nữa). Đây chính là bằng chứng cho một số đặc trưng văn hóa Nhật Bản: sự tôn
trọng giành cho các quan chức nhà nước, thứ hạng cao trong đào tạo và tính
chuyên nghiệp, sự tôn trọng phổ biến đối với quyền uy trong xã hội Nhật Bản...v.v, và nó cũng gợi ý rằng một số thể chế không thể được chuyển giao một cách dễ
dàng cho các xã hội khác thiếu vốn xã hội.
___________________________________________
Còn
nữa….
Nguồn: Fukuyama, Francis 1999. Social Capital and Civil Society - The Institute of Public
Policy; George Mason University; October 1, 1999 Prepared for delivery at the IMF
Conference on Second Generation Reforms.
Tác giả: Francis Fukuyama là một
người Mỹ, gốc Nhật, sinh năm 1952 tại Chicago (ông ngoại là người sáng lập khoa Kinh tế học, Đại học Kyoto, và là hiệu trưởng đầu tiên của Đại học Osaka, cha ông là giáo sư xã hội học Đại học Chicago), trưởng thành tại Manhattan, nghiên
cứu xã hội học, lý luận văn học, triết học chính trị, và cuối cùng là chính trị
học. Ông nhận học vị Tiến sĩ về khoa học chính trị tại đại học Harvard về đề
tài Liên Xô can thiệp vào Trung Đông. Năm 1979 ông là thành viên của think tank
RAND Corporation, chuyên về chính sách toàn cầu, và là giáo sư của nhiều đại
học tại Hoa Kỳ. Ông nổi tiếng với hai tác phẩm The
End of History and the Last Man (1992) và Trust (1995)**.
Chú thích:
* The Ministry of International Trade and Industry - MITI (通商産業省 Thông thương Sản nghiệp Tỉnh);
** Tôi may mắn được đọc hai cuốn này từ khá sớm: The End of History and the Last Man do học giả Nguyễn Kiên Giang giới thiệu đọc từ 1994; còn Trust tôi mua được trong đợt công tác Malaysia năm 1997.
* The Ministry of International Trade and Industry - MITI (通商産業省 Thông thương Sản nghiệp Tỉnh);
** Tôi may mắn được đọc hai cuốn này từ khá sớm: The End of History and the Last Man do học giả Nguyễn Kiên Giang giới thiệu đọc từ 1994; còn Trust tôi mua được trong đợt công tác Malaysia năm 1997.
Tài liệu dẫn
1 Edward Banfield, The Moral Basis of a Backward Society
(Glencoe, IL: Free Press, 1958).
2 James S. Coleman, "Social Capital in the Creation of Human Capital," American Journal of Sociology Supplement 94 (1988): S95-S120.
3 Partha Dasgupta, "Economic Development and the Idea of Social Capital," unpublished paper, March 1997.
4 According to Weber, "The great achievement of ethical religions, above all of the ethical and asceticist sects of Protestantism, was to shatter the fetters of the sib." The Religion of China (New York: Free Press, 1951), p. 237.
5 See Francis Fukuyama, Trust: The Social Virtues and the Creation of Prosperity (New York: Free Press, 1995), chapter 9.
6 To my knowledge, the first person to use this term was Lawrence Harrison in Underdevelopment is a State of Mind: The Latin American Case (New York: Madison Books, 1985), pp. 7-8.
8 Mark S. Granovetter, "The Strength of Weak Ties," American Journal of Sociology 78 (1973): 1360-80.
9 For a fuller treatment of this issue, see Francis Fukuyama, The Great Disruption: Human Nature and the Reconstitution of Social Order (New York: Free Press, 1999), chapter 12.
10 See for example, Annalee Saxenian, Regional Advantage: Culture and Competition in Silicon Valley and Route 128 (Cambridge, MA: Harvard University Press, 1994), which gives numerous examples of informal intellectual property exchange in Silicon Valley.
11 See James P. Womack and D. Jones, The Machine that Changed the World: The Story of Lean Production (New York: Harper Perennial, 1991).
13 Ernest Gellner in Conditions of Liberty: Civil Society and Its Rivals (London: Hamish Hamilton, 1994).
14 See, for example, Michel Crozier, The Bureaucratic Phenomenon (Chicago, IL: University of Chicago Press, 1964); Stanley Hoffmann, Decline or Renewal? France since the 1930s (New York: Viking Press, 1974); Stanley Hoffmann and Charles Kindleberger, In Search of France (Cambridge, MA: Harvard University Press, 1963).
15 Edward Banfield in The Moral Basis of a Backward Society (Glencoe, IL: Free Press, 1958); Robert D. Putnam, Making Democracy Work : Civic Traditions in Modern Italy (Princeton, NJ: Princeton University Press, 1993).
18 Johnson, Chalmers, MITI and the Japanese Miracle (Stanford, Ca.: Stanford University Press, 1982).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét