Bản sắc* và Lợi ích của Pháp và Đức trong
Kiến tạo Châu Âu
Colette Mazzucelli
Người dịch: Hà Hữu Nga
Làm rõ vấn đề Cấu trúc của Bản sắc
“...Bản sắc
là nguồn ý nghĩa và kinh nghiệm của con người...” [Castells Manuel 1997: 6].
Việc phân tích bản sắc trong bối cảnh kiến tạo châu Âu là rất quan trọng vì nó
soi sáng thực chất định hướng quá trình của sự thống nhất các quốc gia thành
viên trong Liên minh Châu Âu. Bài viết này xem xét mối tương tác giữa bản sắc
và các lợi ích tại Pháp và Đức trong một thập kỷ mà châu Âu đã tiến hành hai
Hội nghị Đánh giá ở rộng những giới hạn liên tục lịch sử như một dự án và xác
định sự tồn tại của nó trong thiên niên kỷ mới.
Nhà xã hội
học Tây Ban Nha Castell cho rằng bản sắc có thể bắt nguồn từ những thể chế
thống trị; tuy nhiên chúng ta có thể nói về những bản sắc chỉ khi nào các tác
nhân xã hội nội tại hoá các bản sắc đó và kiến tạo ý nghĩa xung quanh quá trình
nội tại hoá đó. Hơn nữa ông còn xác định bối cảnh trong đó việc kiến tạo xã hội
của bản sắc xuất hiện như đã được đặc trưng bởi các mối quan hệ quyền lực. Cùng
với những nguyên tắc này, Castells còn đưa ra một khác biệt giữa ba loại hình
và nguồn gốc của việc xây dựng bản sắc là: “chính thống hoá bản sắc; bản sắc đề
kháng; và bản sắc dự phóng” [Castells Manuel 1997: 7-8].
Để tìm tìm
hiểu vấn đề bản sắc, bài viết này sử dụng khái niệm “bản sắc dự phóng” nhằm
đánh giá tính thích hợp của nó đối với việc kiến tạo xã hội châu Âu. Đối với
Castells, thụât ngữ “bản sắc dự phóng” xuất hiện “...khi các nhân tố xã hội,
trên cơ sở các chất liệu văn hoá có sẵn đối với các tác nhân đó, tạo dựng một
bản sắc mới tái xác định vị trí của chúng trong xã hội, và bằng cách làm như
vậy, các tác nhân xã hội tìm kiếm quá trình chuyển đổi của toàn bộ cấu trúc xã
hội [Castells Manuel 1997: 8]. Quá trình kiến tạo bản sắc dự phóng này liên
quan đến quan điểm của Alain Touraine về “các chủ thể”, một thuật ngữ xác định
“tác nhân xã hội tập thể thông qua đó các cá nhân tiếp cận được ý nghĩa tổng
thể trong các kinh nghiệm của họ”. Trong trường hợp này, việc kiến tạo bản sắc
có thể là một dự án mở rộng, chuyển hoá xã hội như là một quá trình nối dài của
dự án đó [Castells Manuel 1997: 10].
Việc kiến
tạo bản sắc là một vấn đề thuộc bối cảnh xã hội. Chính trị bản sắc “phải được
xác định tình huống về phương diện lịch sử” [Castells Manuel 1997: 10]. Vì vậy
bài viết này tập trung vào bản sắc dự phóng để khai thác khái niệm này trong
một bối cảnh cụ thể: các mối tương tác của nó với các lợi ích được Pháp và Đức
xác định nhằm kiến tạo châu Âu theo các quyết định quan trọng trong thập kỷ vừa
qua.
Bản sắc tập thể ở Pháp và Đức
Thomas Risse
cho rằng “các tầm nhìn chính trị và các quá trình kiến tạo bản sắc “châu Âu” và
trật tự châu Âu luôn tác động và tích hợp trong các bản sắc dân tộc tập thể, ở
mức độ chúng cộng hưởng: i) với các văn hoá chính trị dân tộc và các hạng mục
hành động hàm chứa trong chúng; ii) với các thể chế chính trị dân tộc và các tư
tưởng về trật tự chính trị hàm chứa trong chúng. Người ta hy vọng có sự thay
đổi trong việc tìm hiểu về “người châu Âu” trong các quốc gia thành viên cũng
như trong các bối cảnh dân tộc khác nhau của chúng [Risse, Thomas 1997: 5].
Bài viết này
nhấn mạnh rằng bản sắc tập thể của một quốc gia có thể tạo dựng các lợi ích của
tác nhân của chính bản sắc đó, nhưng các nhân tố bên ngoài chẳng hạn như các
tri thức về những chọn lựa chiến lược của các tác nhân quốc gia khác có thể ảnh
hưởng đến loại hình chiến lược hoặc chiến thuật mà nhà nước đó chấp nhận. Đối
với trường hợp nước Đức thì mối liên hệ lịch sử với một quá khứ quốc xã luôn
tác động sâu sắc đến việc tự nhận thức hoặc bản sắc của đất nước. Tuy nhiên
niềm tự hào Đức về các thành tích mà quốc gia này đạt được trong thời hậu chiến
đã kết tinh xung quanh sức mạnh của đồng D-Mark. Cả hai nhân tố đó đều tác động
đến cuộc tranh cãi của người Đức về EMU [Economic and Monetary Union: Liên minh Kinh tế - Tiền tệ] trong giai đoạn có liên quan nhưng khác
với nước Pháp.
Ngược lại
với sự nhấn mạnh của người Pháp về chủ quyền dân tộc và sức mạnh của các truyền
thống Jacobin, Cộng hoà Liên bang Pháp lại nhấn mạnh đến bản sắc châu Âu như là
chiếc chìa khoá đối với sự nổi bật về phương diện dân tộc. Một chính khác Đức,
sau đó trở thành thủ lĩnh đảng Xanh và hiện nay là Ngoại trưởng Đức, Joschka
Fischer đã nhận ra phương án thay thế cho đồng Euro bằng cách quay trở lại với
sự cân bằng quyền lực truyền thống của chính trị quyền lực và chủ nghĩa dân
tộc. Liên quan đến việc tìm hiểu tầm quan trọng của thế cân bằng quyền lực thì
châu Âu thực sự có nghĩa là sự thay thế quá khứ trấn thương của nước Đức theo
nghĩa kiến tạo trái với châu Âu với tư cách một dự án lớn đối trọng với Mỹ hoặc
châu Á như đôi khi nước Pháp vẫn chủ trương.
Một cách
nhìn nhận khác đối với sự cam kết của Pháp và Đức vào quá trình thống nhất châu
Âu với tư cách là một lựa chọn ưa thích của chủ nghĩa tư bản Mỹ với những bất
bình đẳng về phương diện xã hội. EMU là một dự án không chỉ đảm bảo cho khả
năng cạnh tranh của kinh tế châu Âu đối với Mỹ, mà còn nhấn mạnh tới giá trị
pháp lý của nhà nước Phúc lợi châu Âu.
Xác định các lợi ích thông qua quá
trình ra quyết định tại Maastricht và Amsterdam: Pháp và Đức
Liên minh Kinh tế - Tiền tệ/EMU: Người ta cho
rằng EMU và thị trường nội khối tạo ra những dự án lớn đem đến cho Pháp và Đức
cơ hội xác định một bản sắc cho châu Âu sau những năm tháng tê liệt trong việc
ra quyết định trong Hội đồng các bộ trưởng. Các dự án này về cơ bản mang tính
chuyển hoá theo thời gian trong xã hội; mỗi dự án dựa trên sự hỗ trợ của các
giới tinh hoa kinh doanh và các cư dân nhằm thúc đẩy và động viên sự hỗ trợ cho
quá trình ra quyết định chính trị trong Hội đồng Châu Âu.
Có thể chia
thập kỷ 1989 – 1999 thành hai giai đoạn: 1989 – 1994 và 1995 – 1999. Trong giai
đoạn đầu khái niệm bản sắc dự phóng liên quan đến các lợi ích của Pháp và Đức
và đã được Mitterrand và Kohl xác định một cách quả quyết. Sau này quyết định
đầu tiên nhằm hoàn thiện EMU đã được duy trì bất chấp những khó khăn về việc
lãnh đạo tại Pháp và Đức. Chirac đã cố gắng điều hoà các vấn đề chủ quyền và
lợi ích dân tộc với bản sắc dự phóng. Chính sách châu Âu của ông trở nên phức
tạp với sự đắc cử thủ tướng thuộc đảng xã hội của Lionel Jospin vào mùa xuân
năm 1997. Kohl đã phải đối mặt với việc mất đi địa vị nổi bật về phương diện
chính trị của ông tại Bundestag và phải đương đầu với những khó khăn trong việc
thuyết phục người Đức rằng một đồng tiền duy nhất chính là dự án có tác dụng
ngăn chặn sự quay trở lại với chủ nghĩa dân tộc Đức. Quá trình chuyển tiếp
quyền lực mới đây từ Kohl cho Schroeder và và việc chuyển thủ đô về Berlin còn
để treo ở đó đã xen ngang các yếu tố thay đổi vào tính liên tục trong chính
sách châu Âu của Đức.
Các hội đồng
châu Âu Maastricht và Amsterdam đã đem lại cho các nhà lãnh đạo Pháp và Đức cơ
hội để khớp nối các lợi ích của mỗi quốc gia khi bản sắc của Liên minh châu Âu
đã được xác định. Trong bối cảnh đó, một vấn đề quan trọng là phải nhấn mạnh
rằng các lợi ích của mỗi quốc gia được xác định trong sự phản ứng lại với các
thay đổi đang diễn ra trong quá trình thống nhất châu Âu như là kết quả của
những vòng đàm phán liên tục ở mọi cấp thể chế châu Âu và các quốc gia thành
viên. Rõ ràng là một hội nghị liên chính phủ (IGC) vận hành theo các quy tắc cụ
thể trong việc ra quyết định, chẳng hạn như sự nhất trí hoàn toàn, vai trò của
chức Chủ tịch trong việc soạn thảo và trình ra các văn bản hiệp ước, việc phê
chuẩn của tất cả các quốc hội thuộc các quốc gia thành viên và của quốc hội
Châu Âu đối với các dự thảo này. Tuy nhiên quá trình hội nghị liên chính phủ
phải được đặt trong bối cảnh của quá trình tiếp tục thống nhất nhằm đưa ra
những động thái mới cho quá trình ra quyết định hoặc làm bộc lộ các thiếu sót
trong quá trình ra quyết định mà IGC đã xác định.
Tại Hội đồng
Châu Âu Maastricht, Mitterrand đã bày tỏ mối bận tâm chính yếu là xác định thời
hạn chắc chắn cho EMU. Trong bối cảnh này, sự nổi bật của người đứng đầu nước
Pháp đã nhấn mạnh đến khả năng cần có một nhà lãnh đạo duy nhất xác định các
lợi ích của Pháp. Dumas, Bérégovoy và Giugou đều có mặt tại Maastricht, nhưng
Mitterrand mới là người thủ vai chính. Rõ ràng là ông nhận thức rất rõ khát
vọng của Kohl trong việc củng cố quá trình thống nhất trước khi rời khỏi ghế
thủ tướng Đức. Tổng thống Pháp cũng biết rằng Kohl quan tâm đến sự cam kết của
các thế hệ tương lai về các nhà lãnh đạo một nước Đức hợp nhất vào việc kiến
tạo châu Âu. Mitterrand đã tính đến quyết định của Kohl trong việc làm cho nước
Đức tương thích với một châu Âu thống nhất. Quyết định này buộc Kohl phải có
những lựa chọn can đảm khi phải đối mặt với sự phản đối trong nước. Một số lựa
chọn này, đặc biệt là về EMU đã hậu thuẫn cho phương thức đàm phán của Pháp.
Không có gì
đáng ngạc nhiên là tại Maastricht, Tổng thống Pháp đã đóng vai trò chủ chốt về
vấn đề quyết định trong đó tiềm ẩn sự từ bỏ chủ quyền tối cao là EMU. Mặc dù
Mitterrand nhận thức rõ rằng Mục tiêu của thoả ước Maastricht sẽ đòi hỏi phải
có những điều chỉnh hiến pháp, nhưng ông cũng biết rằng Maastricht tiềm ẩn sự
phân chia quyền chính trị quốc nội với khát vọng bảo vệ chủ quyền tối thượng
quốc gia mà vẫn không tỏ ra là chống lại Châu Âu.
Trái ngược
với việc xác định rõ ràng của Mitterrand về các lợi ích của Pháp đối với EMU,
Chirac không thể đem toàn bộ sức nặng của chiếc ghế Tổng thống Pháp của ông ra
để chống đỡ trong hội nghị liên chính phủ Amsterdam. Những người quan sát và
tham dự tương tự như IGC 1996 đã ngạc nhiên vì tình trạng thiếu tổ chức và sự
ăn khớp giữa các mục tiêu của Pháp. Ở tất cả các cấp đàm phán từ cấp Tổng thống
đến ngoại trưởng đến bộ trưởng các vấn đề châu Âu đều tỏ rõ sự thiếu nhất quán
trong chính sách của Pháp. Việc xác định các lợi ích của Pháp dường như vẫn còn
là một câu hỏi về việc chấp nhận những thay đổi mà người Pháp chống lại việc
đưa ra bất cứ thiết kế mới nào [Menon A. 1996: 248]. Để đảm bảo rằng EMU tiếp
tục được thực hiện, tại Amsterdam các nhà lãnh đạo Pháp mong muốn “cắt bỏ phần
thừa” (cut slack) thuộc các lĩnh vực cải cách thể chế cho nghị viện châu Âu và
cộng đồng hoá các vấn đề thuộc trụ cột thứ ba. Có thể giải thích tính chất linh
hoạt này bằng thực tế là cả địa vị chủ tịch của Pháp đối với Liên minh châu Âu
cũng như là những cuộc bàu cử đối với văn phòng tổng thống nước Cộng hoà hầu
hết đều diễn ra trong các giai đoạn chuẩn bị sớm cho Hội nghị Amsterdam. Như
Hội đồng Châu Âu Amsterdam đã đề cập, cũng có một sự bối rối nào đó liên quan
đến việc thay đổi từ một chính phủ Gaullist sang một chính phủ xã hội. Xuyên
suốt IGC 1996, Pháp còn mong muốn làm việc với Đức liên quan đến việc đàm phán
về các lĩnh vực cho phép thị trường nội khối hoạt động thông suốt.
Để tìm hiểu
tác động của tình thế khó xử mà Chirac phải đối mặt trong nền chính trị Pháp,
chúng ta có thể nhớ lại mức độ thuận lợi thể chế khổng lồ mà một tổng thống
Pháp có được trong các hoạt động ngoại giao theo Hiến pháp năm 1958, trong đó
Chirac đã quá quen thuộc với hệ thống Cộng đồng châu Âu và hệ thống hồ sơ của
cộng đồng ngay từ thời ông còn là thủ tướng với kinh nghiệm bước đầu chung sống
trong giai đoạn 1986-1988, và thiên hướng của ông với tư cách là một nhà lãnh
đạo bằng những sáng kiến lớn như cái biệt danh le bulldozer của ông đã chỉ rõ. Những nguyên do chính gây khó khăn
cho Chirac liên quan đến một số nhân tố. Trước hết là sức căng của các mục tiêu
trong chính sách châu Âu của Pháp trong bối cảnh cộng đồng (châu Âu mạnh/các
thể chế yếu) làm sống lại xung đột lịch sử giữa DeGaulle và Monnet. Nhất là làm
thế nào để Chirac, một sản phẩm từ khuôn đúc DeGaulle có thể tận dụng hết được
lực đòn bẩy của ông trên sân chơi mà logic thiết kế của Monnet đã san phẳng?.
Thứ hai là vấn đề mang tính tương quan, sự căng thẳng liên quan đến nhu cầu của
người Pháp trong việc cần phải xác định vấn đề cơ bản của các mối liên quan của
nó với nước Đức và phần còn lại của Liên minh. Ở đây cần phải nhấn mạnh một
điều là sự thống nhất nước Đức về cơ bản làm khấy động giới tinh hoa Pháp đến
đâu? Đặc biệt là cần phải có lựa chọn chiến lược nào giữa các chính sách châu
Âu hiệu quả bao gồm cả năng lực rộng lớn hơn của châu Âu trong việc đảm bảo sự
cam kết với cộng hoà liên bang và “duy trì phương thức ra quyết định liên chính
phủ và trong một số trường hợp là tất cả phải đều đồng lòng” [Menon, Anand
1996].
Thứ ba là
trong cuộc chạy lấy đà đến một đồng tiền duy nhất, liên minh chính trị truyền
thống Pháp nhấn mạnh vai trò nhà nước trong quản lý kinh tế, nổi tiếng là dirigisme, trong tình trạng căng thẳng
làm cho đất nước cần phải tái tạo hình vai trò của nhà nước bằng một cuộc cải
cách đầy tham vọng của hệ thống bảo đảm xã hội. Rõ ràng là không gian của cuộc
cải cách này được xác định bởi nhu cầu đáp ứng các tiêu chuẩn hội tụ
Maastricht. Chính các tiêu chuẩn này cũng là một nhân tố trong các nỗ lực của
Jospin nhằm cắt giảm thất nghiệp. Trong khi vị thủ tướng thuộc đảng xã hội đã
có sự nhượng bộ nhỏ đối với những người thất nghiệp thì ông lại khước từ việc
cung cấp những lợi ích thất nghiệp tối thiểu cao hơn sao cho không gây huy hiểm
cho khả năng của Pháp trong việc hoàn thành các tiêu chuẩn cắt giảm ngân sách.
Trong khi đó
Jospin lại phản đối với lý do là hy vọng tốt đẹp nhất của nước Pháp là giúp
những người thất nghiệp tạo thêm nhiều việc làm bằng cách giảm số thời gian làm
việc được pháp luật quy định từ 39 xuống còn 35 giờ/tuần. Một công trình nghiên
cứu của Ngân hàng Pháp cho biết trong ba năm đã tạo ra hơn 700.000 việc làm.
Một nghiên cứu khác của một nhóm tư vấn OFCE đưa ra con số gần 480.000 việc
làm. Nghiên cứu của OFCE xác định rằng kết quả có thể đạt được 479.000 chỗ làm
nếu tất cả các công ty có hơn 20 người trở lên thực hiện 35 giờ làm việc trong
một tuần lần lượt – 1/3 tuân thủ năm 1998, 2/3 còn lại vào năm 1999 và 1/3 còn
lại vào tháng giêng năm 2000. Nghiên cứu này cũng khẳng định rằng “khoản ngân
sách cắt giảm sẽ chỉ tăng lên 0.1% vào năm 2003 vì kết quả tạo việc làm sẽ giúp
cắt đi toàn bộ số tiền trợ cấp cho người thất nghiệp và tăng số người hưởng
lương góp phần vào an toàn xã hội.
Về thực chất
vấn đề các khoản phí tổn này trong xã hội Pháp, Chirac không ở vào địa vị của
Mitterrand để khớp nối một tầm nhìn cho châu Âu. Cuộc trưng cầu dân ý tại Pháp
về Maastricht đã minh hoạ hiểm hoạ bóc trần sự thống nhất châu Âu vào tình
trạng phân chia các toan tính chính trị nội khối và những e ngại về tình trạng
nghèo thông tin cho công chúng. Hơn nữa vẫn còn một mối đe doạ là tâm lý chống
châu Âu ngày càng trở nên trầm trọng khi người ta gắn kết nhận thức giữa việc
thống nhất châu Âu với các cuộc cải cách kinh tế không hợp lòng dân. Những
thách thức về kinh tế và chính trị nảy sinh do tình trạng cùng chung sống đặt
ra cho nước Pháp trong một giai đoạn dài tự vấn lương tâm nhằm xác định các mối
quan hệ của nó với nền cộng hoà Liên bang và nhu cầu quyết định phương thức
đóng góp vào sự tiến hoá tích cực và quyết định của Liên minh Liên bang đã kiềm
chế rất nhiều ảnh hưởng của Chirac. Việc tổng thống Pháp ngập ngừng trong trưng
cầu dân ý về nhu cầu sửa đổi hiến pháp nước Pháp để thông qua Hiệp ước
Amsterdam đã cho thấy rõ mức độ mà ông xem xét nhu cầu làm việc với Đức để ổn
định tình hình trước khi đưa đông tiền mới vào lưu thông.
Đối với Kohl
vấn đề cấp bách nhất tại Maastricht là mối liên kết giữa EMU và tiến độ trọng
yếu trong quá trình thống nhất chính trị. Có một số sức ép quốc nội mà Kohl
chắc chắn phải đương đầu. Trước hết vai trò lãnh đạo của ông tại Maastricht có
tính quyết định, đó là vai trò mà ông cùng chung trách nhiệm với vị Ngoại
trưởng từng trải của mình. Việc nhấn mạnh liên-Âu của Genscher lại trái với
định hướng thiên Đại tây dương của Kohl. Tuy nhiên tham vọng tìm kiếm một vị
thế chính trị cao cho cái đảng Dân chủ Tự do nhỏ bé của vị ngoại trưởng, thì
lại rất lớn. Thứ hai Kohl lại phải đương đầu với đa số đảng Dân chủ Xã hội
trong Bundersrat đang cần có sự thống nhất với một thiên hướng liên bang không
chút mơ hồ cho Liên minh đã được đề xuất. Thứ ba, một đa số lấn lướt trong
Bundestag xuyên qua các đảng phái lại có thiên hướng chuyển giao quyền lực
nhiều hơn nữa cho các thể chế châu Âu.
Đó là EMU,
hơn bất cứ một vấn đề nào khác đã được đặt trên bàn là thứ cho phép Kohl theo
đuổi quan niệm của ông về lợi ích dân tộc trong bối cảnh châu Âu và quốc tế. Ở
đây Kohl đã sử dụng sự đồng hợp trong đó các hành động châu Âu đã được khai
thác để thay thế cho những kết quả được mong đợi trong vũ đài quốc nội. Việc vị
thủ tướng Đức chấp nhận một thời gian biểu có ghi ngày tháng rõ ràng cho EMU về
mọi phương diện đều là một quyết định mang tính cá nhân, bất chấp các quan điểm
của Bundesbank và hệ thống quan liêu Đức. Đó là một quyết định chính trị tối
hậu mà Kohl cho là đem lại nhiều quyền lợi cho nước Đức cũng như cho châu Âu.
Bằng cách đồng ý làm cho Hội đồng châu Âu trở thành trọng tài tối cao của các quyết
định về bước chuyển sang giai đoạn ba, Kohl đã tính đến tham vọng của các ngân
hàng trung ương nhằm kiểm soát các chính sách của cộng đồng [Dyson K., Feather
K., and Michalopoulos G. 1994: 9].
Tăng thêm quyền lực cho Nghị viện
châu Âu (Maastricht và Amsterdam)
Bản chất của
nền dân chủ nghị viện trong Cộng hoà Liên bang, ưu thế trội hơn của đại
diện Đức tại nghị viện châu Âu và khát vọng của Kohl nhằm xây dựng một châu Âu
gần gũi hơn với các công dân của mình đã lý giải rất nhiều cho sự cam kết của
ông trong việc mở rộng các quyền của thể chế đó trong một thập kỷ qua. Ở
Maastricht, Kohl đã bị mất thời gian để chấp nhận thời gian biểu trong sự đối
mặt với sức ép tiêu cực và công luận vì các tiêu chuẩn hội tụ kinh tế nghiêm
ngặt gây khó cho hầu hết các quốc gia thành viên, kể cả Đức trong thời gian đó.
Tuy nhiên những khó khăn mà ông chờ đợi để đối đầu với Bundesrat và Bunderstag
về sự bất lực của ông nhằm đảm bảo những quyền lực lớn hơn cho nghị viện châu Âu
lại là một vấn đề hoàn toàn khác. Mối liên kết giữa hai Hội nghị liên chính phủ
tuy tách rời nhưng lại song hành là một điều kiện tối cần thiết đối với Kohl
cho đến những tuần lễ cuối cùng vào tháng 12 năm 1991. Mặc dù chỉ thành công
khiêm tốn tại Maastricht, nhưng chiến lược tổng thể dài hạn của ông lại là việc
tiếp cận với vấn đề này theo các bước bằng cách đạt được càng ngày càng nhiều
quyền lực hơn cho nghị viện châu Âu khi EMU tiến triển trong các giai đoạn tiếp
theo.
Trong ngày
đàm phán đầu tiên tại Maastricht thủ tướng Kohl đã thực sự bị cô lập trong việc
mong muốn trao quyền lực cho Nghị viện châu Âu nhiều hơn bất cứ vị lãnh đạo nào
của cộng đồng. Để làm cho vấn đề trở nên khó khăn hơn, ông đã phải đương đầu
với chủ nghĩa hoài nghi của công luận Đức về sự đầu hàng của đồng D-Mark. Kohl
đã làm sáng tỏ lập trường của mình là ông muốn thay đổi quyền lực của nghị viện
trước khi kết thúc thế kỷ. Đối với nghị viện châu Âu vấn đề cơ bản là bắt đầu
hoạt động lập pháp bằng quy trình đồng quyết định trước cuộc tổng bầu cử năm
1994.
Theo Kohl
thì phiên họp thứ ba trong quy trình đồng quyết định nên được bỏ qua. Điều đó
sẽ trao quyền cho nghị viện trong việc cùng lập pháp với Hội đồng thay cho việc
chỉ đưa ra quyền phủ quyết. Kết quả sau đó đã để lại một ấn tượng tiêu cực về
sự đóng góp của Nghị viện Châu Âu đối với việc ra quyết định về quá trình lập
hiến của Cộng đồng. Hơn nữa cả Kohl và Genscher đều đồng ý mở rộng quy trình
đồng ý mà Nghị viện sử dụng để thông qua bất cứ một đánh giá lại nào trong
tương lai.
Kết quả
khiêm tốn nhất về việc tăng cường quyền lực cho Nghị viện Châu Âu tại
Maastricht có thể lý giải chủ yếu bởi sự không khoan nhượng của Anh và Pháp hệt
như bởi tình trạng thiếu một định nghĩa chung về liên minh chính trị trong các
quốc gia thành viên. Hơn nữa vì có rất nhiều vấn đề quan trọng khác nhau được
đặt lên bàn nghị sự nên đã chuyển sức nặng của sự đàm phán ra khỏi tình cảnh
khó khăn của nghị viện.
Ý nghĩa của
Hội nghị Amsterdam là nhắm vào các vấn đề cụ thể mà Hiệp ước về Liên minh châu
Âu còn để trống cho việc cải thiện tình hình dựa trên cơ sở thống nhất trong
thực tiễn. Vai trò của nghị viện châu Âu, đặc biệt là việc tăng cường quy trình
đồng quyết định là một vấn đề như vậy [Ludlow 1997: 13]. Thực ra thì hầu như
khuynh hướng đồng thuận là thiên về việc giảm bớt nhiều quy trình xuống còn ba
quy trình. Quy trình hợp tác hầu như bị xoá bỏ, trừ trường hợp EMU và Nghị định
về xã hội.
Về vấn đề
này, chính phủ Major thực sự bị cô lập trong thế đối lập với sự thay đổi mặc dù
lập trường của Pháp là rất đáng xem xét. Pháp tuyên bố ưu tiên duy trì quy
trình hợp tác, đặc biệt là về EMU và Chính sách Nông nghiệp chung (CAP – Common
Agriculture Policy) với chỉ một chút mở rộng quy trình đồng quyết định trong
một số ít trường hợp cụ thể. Về những vấn đề khác liên quan đến Nghị viện châu
Âu, Pháp cũng ít bộc lộ thái độ kể cả việc chống đối quy trình tuyển cử đồng
nhất, chống đối việc bãi bỏ vòng họp thứ ba về vấn đề đồng quyết định nếu không
có sự đồng ý giữa Hội đồng và Nghị viện và áp dụng quy trình vắng mặt đối với
việc xem xét lại Thoả ước.
Pháp nhấn
mạnh việc củng cố vai trò của các Nghị viện quốc gia trong quá trình thống
nhất. Tình trạng căng thẳng này giữa Đức ủng hộ một Nghị viện châu Âu mạnh hơn
và lập trường kiên định của Pháp về việc tăng vai trò của các Nghị viện quốc
gia đã bộc lộ không hề che đậy trong lá thư trao đổi giữa Chirac và Kohl vào
ngày 6/12/1995, trong đó nói rõ “mục tiêu ưu tiên” “củng cố dân chủ bằng cách
đưa Liên minh lại gần với các công dân của nó”. Trong bối cảnh này cả hai nhà
lãnh đạo đều chủ trương rằng mục tiêu này sẽ “đưa Nghị viện Châu Âu chịu chung
trách nhiệm lớn hơn về các vấn đề liên quan đến quá trình xây dựng châu Âu cũng
như là làm cho các nghị viện quốc gia tham dự sâu hơn vào liên minh”.
Tại Hội đồng
châu Âu Amsterdam ngày 16-17 tháng 6 năm 1997 khuynh hướng đa số đã nhất trí
thoả thuận về vấn đề này vì khát vọng về cải cách thể chế trong lĩnh vực này đi
liền với nguyện vọng của chính phủ Blair nhằm xem xét thay đổi một số quy trình
liên quan đến bản chất và phạm vi của vấn đề đồng quyết định. Quyết định được
thông qua tại Amsterdam cũng phản ánh những ưu tiên của Pháp và Đức về một số
cách thức nào đó. Trước hết Am terdam đưa ra việc tăng cường đáng kể phạm vi
đồng quyết định. Số điều khoản của Hiệp ước vấn đề đồng quyết định sẽ lớn hơn
hai lần, từ 15 lên đến 37 (ngày hôm sau là 39).
____________________________________________
Nguồn: Mazzucelli, Colette 1999. Constructing Europe: Identity
ans Interests in France and Germany, 1989-99. Paper
presented on the Panel “Franco-German Relations in the European Union: Decline
or New Design?”, Pittsburgh, Pennsylvania, 2 - 5 June 1999.
Tác giả: GS. Chính trị học Colette
Mazzucelli, chuyên về lịch sử, triết học, quan hệ quốc tế và đã giảng dạy tại
nhiều đại nổi tiếng ở Mỹ và thế giới như đại học Scranton, đại học Tufts, đại
học Columbia, đại học Georgetown, đại học New York, đại học Hofstra, và hiện là
thành viên ban giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Chiến tranh/Hòa bình (Center for
War/Peace Studies), một bộ não của tổ chức Liên hợp quốc.
* Ghi chú của người dịch: Bài viết này và
nhiều bài khác nữa cho thấy, trong chính trị học thế giới hiện nay, khái niệm bản
sắc có đôi chút thay đổi hình thức khi EU hình thành, nhưng nội dung lợi
ích dân tộc thì dường như vẫn giữ nguyên, chẳng có gì giống với cách hiểu về sự
thay đổi thực chất và cách sử dụng ở châu Âu, châu Mỹ như Liam C. Kelley nói
cả.
Tài liệu dẫn
Castells, Manuel 1997. The Power of Identity. Oxford: Blackwell
Publishers, 1997, p.6.
Dyson K., Feather K., and
Michalopoulos G. 1994. Strapped to the
Mast: EC Central Bankers between Global Financial Markets and the Maastricht
Treaty. European Consortium for Political Research Workshop: The Single Market and Global Economic
Integration, Madrid, 17-22 April 1994.
Ludlow, Peter 1997. A View from Brussels, A Quarter
Commentary on the EU, No. 5 (July 1997), Brussels CEPS, 1997.
Menon, Anand 1996. France and the IGC of 1996. Journal of
European Public Policy 3 June 1996.
Risse, Thomas 1997. Between the Euro and the Deutsche Mark:
German Identity and the European Union. Washington DC: Center for
Excellence in German and European Studies, Georgetown University.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét