Trình Thụ Đức
Người dịch: Hà Hữu Nga
Trình Thụ Đức 程樹德 (1877-1944), tự là Vũ Đình, quê ở Mẫn Hầu (nay là thành phố Phúc Châu), tỉnh Phúc Kiến. Ông là một luật gia và chính trị gia Trung Hoa Dân Quốc. Trình Thụ Đức đỗ khoa Cử nhân vào năm Quang Tự thứ 29 (1903), đến Nhật Bản học Đại học Hosei và trở về Trung Quốc sau khi tốt nghiệp. Vào năm Quang Tự thứ 34 (1908), ông tốt nghiệp Tiến sĩ tại Khoa luật và Chính trị và được bổ nhiệm làm Hàn lâm viện Biên tu tại Học viện Hàn Lâm. (Biên tu là một chức quan ở Trung Quốc cổ đại. Vào thời nhà Thanh, chức vụ này được xếp vào bậc quan thất phẩm, chủ yếu thuộc Hàn Lâm Viện, một cơ sở dự bị nhân tài, với công việc chính là ghi chép và biên tập văn bản. Trên chức vụ này là các quan như 學士 Học sĩ và 侍讀Thị độc, cùng các quan lại cấp thấp khác phụ trách việc ghi chép văn bản. [Ghi chú về 學士 Học sĩ: Khái niệm Học sĩ bắt nguồn từ một danh hiệu chính thức vào thời nhà Đường của Trung Quốc. Khi Nhật Bản áp dụng hệ thống pháp luật của nhà Đường, họ đã ban tặng danh hiệu ‘Đông Cung Học sĩ’ cho các quan chức giáo dục phục vụ Thái tử. Sau thời kỳ Minh Trị Duy Tân, mặc dù Nhật Bản đã bãi bỏ chế độ Đông Cung Học sĩ, nhưng họ đã chuyển danh hiệu cử nhân sang Tiến sĩ ở châu Âu và châu Mỹ. Sau đó, danh hiệu này cũng được giới thiệu đến các nước láng giềng như Hàn Quốc và Trung Quốc. HHN]
[Ghi chú về 侍讀 Thị độc: Chức danh Thị độc được thiết lập lần đầu tiên vào thời Bắc Ngụy, thời Nam Bắc Triều. Họ tháp tùng hoàng đế đọc kinh. Các triều đại Đông Ngụy và Bắc Tề tiếp tục hệ thống này. Vào thời Tây Ngụy, họ được bổ nhiệm làm quan dưới quyền các hoàng tử và công tước. Triều Bắc Chu tiếp tục hệ thống này, cũng bổ nhiệm họ làm quan dưới quyền thái tử. Vào thời Nam Tề, Thị độc được bổ nhiệm làm quan dưới quyền các hoàng tử trong hoàng tộc. Vào thời Lương, họ được bổ nhiệm làm quan dưới quyền Thái tử và các Hoàng tử khác. Nhiệm vụ của họ bao gồm hướng dẫn việc đọc kinh và sử, nhưng những chức vụ này không cố định. Vào đầu thời Khai Nguyên của nhà Đường, các học giả giỏi về văn chương và thư pháp được chọn để làm Thị độc, hướng dẫn các hoàng tử tại cung điện của mười vị hoàng tử. Vào thời Bắc Tống, chức vụ Thị độc được thiết lập, tuyển chọn từ các học giả có chuyên môn học thuật. Nhiệm vụ của họ bao gồm tham dự các buổi thuyết giảng về kinh điển và lịch sử, chỉ dạy cho Thái tử và tham mưu cho ông về kinh điển và lịch sử. Trong thời kỳ cải cách Nguyên Phong, chức vụ này được thiết lập như một quan chức cấp thất phẩm. Vào năm thứ mười tám của triều đại Hồng Vũ nhà Minh (1385), hai Thị độc được bổ nhiệm vào Hàn Lâm Viện, giữ chức vụ quan chức cấp ngũ phẩm. Nhiệm vụ và trách nhiệm của họ giống như của các Giảng viên, nhưng họ có cấp bậc cao hơn. Dưới thời Vĩnh Lạc, Thị độc được đặc biệt tuyển chọn để phục vụ tại 文淵閣 Văn Uyên Các, tham gia vào các công việc mật của Nội các, được gọi là 閣臣 ‘Các thần’. Vào thời nhà Thanh, chức vụ Thị độc tại Hàn Lâm Viện vẫn được duy trì. HHN]
Sau đó, Trình Thụ Đức làm biên soạn tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia, rồi Hiệu trưởng Trường Luật và Chính trị Phúc Kiến, giảng viên khoa luật của Đại học Hoàng gia Bắc Kinh, trợ lý giám khảo cho du học sinh và trợ lý giám khảo cho thẩm phán. Sau khi Trung Hoa Dân Quốc thành lập, Trình Thụ Đức giữ chức vụ biên soạn trong Ủy ban Biên soạn Luật, cố vấn trong Cục Pháp chế, Tổng thư ký Hội đồng Tỉnh lâm thời Phúc Kiến, đại biểu Hội đồng Tỉnh Phúc Kiến, đại biểu dự khuyết Thượng viện, ủy viên Ủy ban Tuyển chọn Cán bộ Tư pháp, đại biểu Thượng viện, đại biểu Hội nghị Lập hiến, điều tra viên trong Cục Pháp chế Quốc vụ viện, và điều tra viên trong Ủy ban Biên soạn Luật. Ông được phong hàm Trung Đại phu. Sau đó, ông giữ chức vụ cố vấn và trợ lý giám đốc Cục Lập pháp Quốc vụ Viện, đồng thời giữ chức vụ giảng viên và giáo sư tại Đại học Bắc Kinh, Khoa Luật Đại học Bắc Bình và Khoa Khoa học Chính trị Đại học Thanh Hoa. Các tác phẩm của ông bao gồm ‘Lịch sử Hệ thống Pháp luật Trung Quốc’, ‘Nghiên cứu về Luật pháp Cửu triều’, ‘Nghiên cứu về Luật pháp triều Hán’, và ‘Luận ngữ Tập thích’. Học giả Trần Diệu Nam nhận xét:「晚清政昏世亂,列強交侵,為了救亡圖存,學風又改。五四新文化運動以來,儒學以至孔子都備受抨擊,至二十世紀六七十年代間乃達巔峰。出於種種動機而詆毀污衊孔子與《論語》者不少,也就是世道人心的印記。相形之下,中國艱苦抗戰期間,困守北平的程樹德(一八七八 —— 一九四四),以貧窮病癱之身,處敵偽暴虐之區,口述而賴親戚筆錄,奮鬥九年,成《論語集釋》一百四十萬言,引述六百八十餘種,翔實精備,嘉惠士林,實可謂「時窮節乃現」,不只是《論語》以至中華文化的大功臣,更真正活現了孔門之教。』Phiên âm: “Vãn Thanh chính hôn thế loạn, liệt cường giao xâm, vi liễu cứu vong đồ tồn, học phong hựu cải. Ngũ Tứ Tân Văn hóa Vận động dĩ lai, Nho học dĩ chí Khổng Tử đô bị thụ phanh kích, chí nhị thập thế kỉ lục thất thập niên đại gian nãi đạt điên phong. Xuất ư chủng chủng động cơ nhi để hủy ô miệt Khổng Tử dữ ‘Luận ngữ’ giả bất thiểu, dã tựu thị thế đạo nhân tâm đích ấn kí. Tương hình chi hạ, Trung Quốc gian khổ kháng chiến kì gian, khốn thủ Bắc Bình đích Trình Thụ Đức (nhất bát thất bát - nhất cửu tứ tứ), dĩ bần cùng bệnh than chi thân, xứ địch ngụy bạo ngược chi khu, khẩu thuật nhi lại thân thích bút lục, phấn đấu cửu niên, thành ‘Luận ngữ Tập thích’ nhất bách tứ thập vạn ngôn, dẫn thuật lục bách bát thập dư chủng, tường thật tinh bị, gia huệ sĩ lâm, thật khả vị ‘thì cùng tiết nãi hiện’, bất chỉ thị ‘Luận ngữ’ dĩ chí Trung Hoa văn hóa đích đại công thần, canh chân chính hoạt hiện liễu Khổng môn chi giáo.” “Luận ngữ” đệ nhị bản Trung Hoa Thư cục Xuất bản).
Dịch nghĩa: “Cuối triều Thanh, chính quyền tham nhũng, thiên hạ loạn lạc. Ngoại bang xâm lược, để cứu quốc, bầu không khí học thuật lại một lần nữa thay đổi. Kể từ Phong trào Ngũ Tứ, Nho giáo, thậm chí cả Khổng Tử, đã bị chỉ trích nặng nề, đạt đến đỉnh điểm vào những năm 1960 và 1970. Nhiều người đã vu khống, bôi nhọ Khổng Tử và Luận ngữ vì nhiều lý do, phản ánh thực trạng xã hội và lòng dân. Ngược lại, trong cuộc kháng chiến chống Nhật gian khổ, Trình Thụ Đức (1878-1944), bị kẹt ở Bắc Bình, nghèo khó và liệt giường. Ông sống trong vùng bị chế độ bù nhìn tàn bạo của địch. Ông đã chép lại Luận ngữ và nhờ người thân chép lại. Sau chín năm miệt mài, ông đã hoàn thành Luận ngữ với 1,4 triệu chữ chú giải, trích dẫn hơn 680 loại nguồn tư liệu. Luận ngữ được biên soạn chi tiết, toàn diện, mang lại lợi ích cho các học giả. Có thể nói, đã thể hiện sự chính trực của mình trong những lúc khó khăn. Ông không chỉ là người có đóng góp to lớn cho Luận ngữ và văn hóa Trung Hoa, mà còn là hiện thân chân chính của những lời dạy của Khổng Tử.” (Luận ngữ, Tái bản lần thứ hai, do Công ty Sách Trung Hoa xuất bản)
Mở đầu
I. Việc chú giải ‘Luận ngữ’, thời nhà Hán, có các nhà như Khổng An Quốc, Mã Dung, Trịnh Huyền và Bao Hàm; thời nhà Ngụy, Trần Quần và Vương Túc cũng đưa ra những lời giải thích. Từ khi ‘Luận ngữ Tập giải’ của Hà Yến ra đời, các chú giải của Trịnh và Vương bèn trở nên lỗi thời. Từ khi ‘Tập chú’ của Chu Hy được lưu hành, thì ‘Tập giải’ và các lời giải thích của 皇二疏 Hoàng Nhị Sơ cũng lùi vào dĩ vãng. Hơn tám trăm năm đã trôi qua kể từ thời Chu Hy, qua các Triều Minh, Thanh đã sử dụng ‘Luận ngữ Tập chú’ để 取士 thủ sĩ, tuyển chọn quan lại; vào đầu thời nhà Thanh, xuất hiện nhiều học giả nổi tiếng, cho ra đời nhiều tác phẩm, nhiều tác phẩm trong số đó đã khám phá sự chú giải và ý nghĩa vượt ra ngoài phạm vi của các học giả trước đó. Đáng tiếc là chưa có tác phẩm nào toàn diện và mạch lạc. Cuốn sách này, tuân theo nguyên tắc 述而不作 thuật nhi bất tác ‘kể lại chứ không sáng tác’ của Khổng Tử, phân loại và biên soạn nhiều bài bình luận khác nhau từ thời nhà Tống trở đi để hỗ trợ cho việc nghiên cứu với tựa đề là ‘Luận ngữ Tập thích’ Tuyển tập các bài bình giải về Luận ngữ.
[Ghi chú từ 取士 thủ sĩ đề cập đến việc tuyển chọn học giả để làm quan thông qua một hệ thống cụ thể. Từ sớm nhất có thể được truy nguyên từ các kinh điển thời tiền Tần. Là một từ ghép hai âm tiết của tiếng Trung, 取士 là một cấu trúc ghép bao gồm động từ 取 ‘thủ’ và danh từ 士 ‘sĩ’. 士 đặc biệt ám chỉ những người thuộc tầng lớp xã hội có kiến thức và tu dưỡng. Kết hợp lại, chúng tạo thành ý nghĩa ngữ nghĩa cốt lõi của “tuyển chọn trí thức”. Riêng chữ 取 thủ có nghĩa là ‘chọn’, ‘lấy’, như thấy trong nghĩa của câu truyện cổ 孔雀東南飛 ‘Khổng Tước Đông nam phi’. Câu truyện vốn có tựa đề 古詩為焦仲卿妻作 ‘Cổ thi vi Tiêu Trọng Khanh thê tác’ ‘Cổ thi do Tiêu Trọng Khanh viết cho vợ”. Đây là bài thơ tự sự dài đầu tiên trong lịch sử văn học Trung Quốc, được coi là một trong hai kiệt tác của thơ Nhạc Phủ, cùng với 木蘭辭 ‘Mộc lan từ’. Bài thơ được sáng tác vào thời Nam Bắc Triều, kể lại câu chuyện dưới thời Kiến An của Hoàng đế Hiến Đế nhà Đông Hán. Bài thơ gồm 353 câu và 2260 chữ, trở thành bài thơ tự sự dài nhất trong số các bài dân ca Nhạc Phủ thời Hán. Bài thơ chủ yếu kể lại việc Lưu Lan Chi, sau khi được gả vào nhà họ Tiêu, bị mẹ của Tiêu Trọng Khanh từ chối và bị đưa trả về nhà cha mẹ đẻ. Trong đó có đoạn sử dụng từ 取 ‘thủ’ như sau: 府吏得聞之,堂上啟阿母:「兒已薄祿相,幸復得此婦,結發同枕席,黃泉共為友。共事二三年,始爾未為久,女行無偏斜,何意致不厚?」阿母謂府吏:「何乃太區區!此婦無禮節,舉動自專由,吾意久懷忿,汝豈得自由!東家有賢女,自名秦羅敷,可憐體無比,阿母為汝求。便可速遣之,遣去莫留!」府吏跪告:「伏惟啟阿母,今若遣此婦,終老不復取!」阿母得聞之,槌床便大怒:「小子無所畏懼,何敢助婦語!吾已失恩義,會不相從許!」Phiên âm: Phủ lại đắc văn chi, đường thượng khải a mẫu: ‘Nhi dĩ bạc lộc tương, hạnh phục đắc thử phụ, kết phát đồng chẩm tịch, hoàng tuyền cộng vi hữu. Cộng sự nhị tam niên, thủy nhĩ vị vi cửu, nữ hành vô thiên tà, hà ý trí bất hậu?” A mẫu vị phủ lại: “Hà nãi thái khu khu! Thử phụ vô lễ tiết, cử động tự chuyên do, ngô ý cửu hoài phẫn, nhữ khởi đắc tự do! Đông gia hữu hiền nữ, tự danh Tần La Phu, khả liên thể vô bỉ, a mẫu vi nhữ cầu. Tiện khả tốc khiển chi, khiển khứ mạc lưu!” Phủ lại quỵ cáo: “Phục duy khải a mẫu, kim nhược khiển thử phụ, chung lão bất phục thủ!” A mẫu đắc văn chi, chùy sàng tiện đại nộ: “Tiểu tử vô sở úy cụ, hà cảm trợ phụ ngữ! Ngô dĩ thất ân nghĩa, hội bất tương tòng hứa!”. Dịch nghĩa: “Phận con vốn chẳng giàu, Nhưng may tìm được ả. Chúng nhi chung gối chăn, Hẹn đi cùng trọn kiếp. Hai đứa đã bên nhau, Dẫu chưa nhiều năm tháng. Thê tử khiếm khuyết gì, Mà lại xử tệ bạc?” Người mẹ bác lại viên quan: “Sao ngươi cứ khư khư! Con này thậm vô lễ, Chỉ theo ý mà làm. Ta oán nó đã lâu, Ngươi xen vào chi đặng! Đông lân có đứa gái, Ngoan hiền tên Lạc Phu, Nhan sắc ít kẻ bì, Ta sẽ hỏi nó cho. Mau đuổi đứa này đi, Đừng cố mà giữ lại!” Viên quan quỳ xuống van xin: “Thưa Mẹ nếu bây giờ, Người đuổi nhà con đi, Con già không ‘lấy’ vợ!” [今若遣此婦,終老不復取! Kim nhược khiển thử phụ, Chung lão bất phục ‘thủ’!] Nghe vậy, người mẹ tức giận đập bàn: “Thằng vô liêm sỉ kia, Sao nỏ mồn bênh nó! Ta đã cạn ân tình, Quyết không chiều mi nữa!”
[Ghi chú 皇二疏 Hoàng Nhị Sơ [Nhị Sơ Đáng kính] hay 两疏 Lưỡng Sơ: Thuật ngữ ‘Lưỡng Sơ’ là một từ tiếng Hán chỉ Sơ Quảng và cháu trai của ông là Sơ Thụ thời nhà Hán. Hai người được coi là ví dụ điển hình của việc nghỉ hưu sau khi đạt được thành công bằng cách tự nguyện từ chức. Sơ Quảng từng giữ chức Thái tử Thái phó, và Sơ Thụ giữ chức Thái tử Thiếu phó. Sau khi làm quan được năm năm, cả hai đều từ chức vì bệnh tật. Khi họ trở về quê hương, triều đình ban cho vàng bạc, và Thái tử cùng các quan lại tiễn đưa. Câu chuyện này được ghi lại trong ‘Sơ Quảng truyện’ trong Hán thư, phản ánh thái độ 知足不辱 ‘tri túc bất nhục’ ‘Biết đủ không nhục’. Hai người lo lắng rằng việc tại vị quá lâu sẽ gây ra rắc rối, nên họ đã từ chức với lý do 功遂身退 công toại thân thoái ‘thành công rồi thì nghỉ ngơi’. Sau khi rời nhiệm sở, họ được người đương thời ca ngợi về đức hạnh và được gọi là ‘Nhị Đại phu’. Các thế hệ văn học sau này thường lấy câu chuyện của họ làm kinh điển. Mạnh Hạo Nhiên, Bạch Cư Dị thời Đường, Tô Thức thời Tống đều trích dẫn câu này trong thơ của họ, chẳng hạn như 古來誰似兩疏賢 ‘Cổ lai thùy tự lưỡng Sơ hiền’ ‘Ai thời xưa đức hạnh như hai vị họ Sơ’, để bày tỏ sự ngưỡng mộ của họ đối với việc thờ ơ với danh lợi. Câu chuyện này đã trở thành một biểu tượng văn hóa trong văn hóa truyền thống, tượng trưng cho việc nghỉ hưu sau khi đạt được thành công.
Sơ Quảng (?-?), tự là Trung Ông, người Lan Lăng, Đông Hải (nay là thành phố Tảo Trang, tỉnh Sơn Đông) vào thời Tây Hán. Ông ham học từ nhỏ, thời trẻ dạy học tại nhà, có rất nhiều học trò. Sau này, ông được triều đình triệu thỉnh và lần lượt giữ các chức danh Bác sĩ, Thái Trung Đại phu, Thái Phó. Ông và cháu trai là Sơ Thụ đều được Hán Tuyên Đế trọng dụng, có danh tiếng lẫy lừng, được ban thưởng nhiều. Sau năm năm giữ chức Thái phó, Sơ Quảng và cháu trai là Sơ Thụ từ chức trở về quê hương, được thiên hạ ca ngợi. Sau khi từ chức, Sơ Quảng chia sẻ tài sản của mình với quê nhà và họ hàng để tránh cho con cháu khỏi kiêu ngạo vì giàu sang. Cả Sơ Quảng và Sơ Thụ đều an nghỉ tại quê nhà ở tuổi cao, sau này được gọi là ‘Nhị Sơ’.
Chú và cháu trai là thầy giáo Sơ Quảng hiếu học từ nhỏ và nghiên cứu Kinh Xuân Thu và Kinh Lễ dưới thời Mạnh Khánh[1]. Ông là đệ tử đời thứ ba của Đổng Trọng Thư. Sau khi hoàn thành việc học, Sơ Quảng dạy học tại nhà, và một số học trò đã phải đi xa để đến học với ông. Sau đó, Sơ Quảng được mời về Triều nhậm chức Thái sư của Cung đình. Vào tháng 4 năm thứ ba thời Địa Tiết, Hoàng đế nhà Hán là Tuyên Đế đã phong con trai cả của mình là Lưu Thức làm Thái tử, và chọn Bính Cát làm Thái phó và Sơ Quảng làm Thiếu phó. Vào tháng 6 cùng năm, Bính Cát được thăng làm Ngự sử Đại phu, và Sơ Quảng được thăng làm Thái phó. Người cháu, con của anh trai Sơ Quảng là Sơ Thụ, tự là Công Tử, cũng được tiến cử làm Thái tử Gia lệnh, Quản gia của Thái tử. Sơ Thụ thích lễ nghi, khiêm tốn và thận trọng, nhanh trí và hùng biện. Một lần, khi Hán Tuyên Đế đến thăm cung điện của Thái tử, Sơ Thụ đã rất khéo léo và lịch thiệp trong mọi khía cạnh chào đón, tỏ lòng tôn kính, trả lời các câu hỏi, bày tiệc và nâng ly chúc mừng sinh nhật Hán Tuyên Đế. Hán Tuyên Đế rất vui mừng và sớm bổ nhiệm Sơ Thụ làm Thiếu phó.
Ông ngoại của Thái tử Lưu Thích, Bình Ân hầu Hứa Quảng Hán, cho rằng Thái tử còn quá trẻ và đã thỉnh cầu Hán Tuyên Đế, để em trai mình, Trung Lang tướng Hứa Thuấn, được giao phụ trách giám sát gia đình Thái tử. Hán Tuyên Đế hỏi ý kiến Sơ Quảng, ông trả lời: ‘Thái tử là người kế vị ngai vàng, là đại diện của quốc vương. Gia sư và bằng hữu của ngài phải được chọn từ những người xuất chúng nhất trong nước, chứ không chỉ từ dòng họ Hứa bên ngoại. Hơn nữa, Thái tử đã có một Thái phó và một Thiếu phó, đoàn tùy tùng của ngài đã đầy đủ. Để Hứa Thuấn giám sát gia đình Thái tử lúc này chỉ làm lộ ra sự hiểu biết nông cạn của Ngài, chứ không thể nào quảng bá đức hạnh và sự chính trực của Thái tử ra thiên hạ.” Hán Tuyên Đế rất tán thưởng ý kiến của Sơ Quảng và đã báo lại với Tể tướng Ngụy Tương. Nghe vậy, Ngụy Tương bỏ mũ xin lỗi, nói: “Đây là điều mà chúng thần không thể sánh bằng.” Nhờ vậy, Sơ Quảng được Hán Tuyên Đế sủng ái và nhận được vô số ban thưởng. Mỗi khi Thái tử vào triều, Sơ Quảng và Sơ Thụ đều tháp tùng, Thái phó đi trước, Thiếu phó đi sau. Việc cả chú và cháu trai đều làm Thầy cho Thái tử là một niềm tự hào lớn lao của triều đình.
Sơ Quảng làm Thái sư năm năm. Thái tử đã mười hai tuổi, thông thạo Luận ngữ và Hiếu kinh. Sơ Quảng nói với Sơ Thụ: “Ta nghe nói ‘biết đủ thì tránh nhục, biết dừng thì tránh nguy’, ‘thành công rồi lui về là thuận theo tự nhiên’. Giờ chú cháu ta đã được thăng đến trật hai ngàn thạch lương, có thể nói là một thành tựu lớn. Nếu đã thành đạt đến thế này mà không lui về thì có thể sẽ gặp chuyện phiền phức sau này. Sao chú và cháu không cùng nhau lui về quê hưởng tuổi già? Như vậy chẳng phải tốt hơn sao?” Sơ Thụ quỳ lạy và nói: “Cháu sẽ vâng theo lời dạy của Thúc phụ.” Hôm đó, cả chú và cháu đều viết đơn xin từ quan. Ba tháng sau, triều đình đã gia hạn cho họ. Sơ Quảng liền báo cáo bệnh tình của mình nặng hơn và viết đơn xin nghỉ. Hán Tuyên Đế cho rằng họ quả thực đã già nên chấp thuận lời thỉnh cầu, ban cho họ hai mươi cân vàng. Thái tử cũng ban thêm năm mươi cân vàng. Các quan lại, bạn bè, họ hàng và dân chúng đã tổ chức tiệc tiễn biệt họ ở cổng Đông thành Trường An. Hàng trăm cỗ xe ngựa hộ tống. Gia đình họ Sơ, chú và cháu trai, chào tạm biệt rồi ra về. Những người đứng xem hai bên đường thốt lên: “Hai vị quan này thật đức hạnh!” Có người còn rơi nước mắt vì xúc động. HHN]
I. Phương pháp nghiên cứu ‘Luận ngữ’
研究《論語》之法,漢儒與宋儒不同。漢儒所重者,名物之訓詁,文字之異同。宋儒則否,一以大義微言為主。惜程朱一派好排斥異己,且專宣傳孔氏所不言之理學,故所得殊希。陸王派雖無此病,然援儒入墨,其末流入於狂禪,亦非正軌。故《論語》一書,其中未發之覆正多。是書職責,在每章列舉各家之說,不分門戶,期於求一正當解釋,以待後來學者,藉此以發明聖人立言之旨。Phiên âm: Nghiên cứu ‘Luận ngữ’ chi pháp, Hán Nho dữ Tống Nho bất đồng. Hán Nho sở trọng giả, danh vật chi huấn cổ, văn tự chi dị đồng. Tống Nho tắc phủ, nhất dĩ đại nghĩa vi ngôn vi chủ. Tích Trình Chu nhất phái hảo bài xích dị kỉ, thả chuyên tuyên truyền Khổng thị sở bất ngôn chi lý học, cố sở đắc thù hi. Lục Vương phái tuy vô thử bệnh, nhiên viên Nho nhập Mặc, kì mạt lưu nhập ư cuồng thiện, diệc phi chính quỹ. Cố ‘Luận ngữ’ nhất thư, kì trung vị phát chi phúc chính đa. Thị thư chức trách, tại mỗi chương liệt cử các gia chi thuyết, bất phân môn hộ, kì ư cầu nhất chánh đương giải thích, dĩ đãi hậu lai học giả, tạ thử dĩ phát minh thánh nhân lập ngôn chi chỉ. Dich nghĩa: Phương pháp nghiên cứu ‘Luận ngữ’ giữa các học giả Nho giáo nhà Hán và nhà Tống có khác nhau. Các học giả nhà Hán nhấn mạnh vào việc giải thích tên gọi và sự vật, cũng như sự giống và khác nhau trong chữ viết. Ngược lại, các học giả Nho giáo thời nhà Tống chủ yếu tập trung vào các ý nghĩa sâu xa và cách diễn đạt tinh tế. Thật không may là phái Trình Chu lại thích loại trừ những người bất đồng chính kiến và tập trung vào việc thúc đẩy 理學 Lý học mà Khổng Tử không đề cập đến, nên họ đạt được rất ít thành tựu. Mặc dù trường phái Lục Vương không mắc phải vấn đề này, nhưng họ đã kết hợp Nho giáo vào Mặc gia, và hình thức cuối cùng của nó đã thoái hóa thành Thiền tông cuồng tín, vốn cũng không phải là con đường chính thống. Do đó, ‘Luận ngữ’ chứa đựng nhiều mâu thuẫn chưa được giải quyết. Mục đích của cuốn sách này là liệt kê các cách giải thích khác nhau trong mỗi chương, không thiên vị các trường phái khác nhau, nhằm tìm ra một lời giải thích phù hợp để các học giả sau này sử dụng nhằm làm sáng tỏ ý nghĩa mà nhà hiền triết muốn truyền đạt.
[Ghi chú về 理學 Lý học hay Tân Nho giáo, còn được gọi là Đạo học hay Tính Lý học, là một Học phái tư tưởng Nho giáo xuất hiện vào thời Bắc Tống, kết hợp với các tư tưởng triết học Phật giáo. Được sáng lập bởi Chu Đôn Di, Thiệu Ung, Trương Tái, Trình Hạo và Trình Di (gọi chung là ‘Bắc Tống Ngũ Tử’, Học phái này lấy 理 ‘lý’ làm nguyên lý cơ bản của vũ trụ và là chuẩn mực đạo đức, thiết lập thành nền tảng cho tính chính danh của Thần quyền và Vương quyền. Chủ trương 存天理,滅人欲 ‘Tồn thiên lý, diệt nhân dục’ duy trì Thiên lý, trừ bỏ Dục vọng của con người, và chủ yếu được chia thành hai Học phái chính: Trình Chu Lý học và Lục vương Tâm học. Tân Nho giáo Trình Chu Lý học nhấn mạnh 性即理 ‘tính tức lý’ bản tính con người là nguyên lý, với Chu Hy đề xuất học thuyết 理一分殊 ‘lý nhất phân thù’ nguyên lý chỉ một mà biểu hiện thì nhiều, và tổng hợp thành một trường phái toàn diện. Phái Lục Vương lại chủ trương 心即理 ‘Tâm tức Lý’ tâm là nguyên lý, và Vương Thủ Nhân (Vương Dương Minh) đã phát triển nó thành học thuyết 致良知 ‘trí lương tri’ mở rộng kiến thức bẩm sinh".
Ghi chú về 致良知 ‘trí lương tri’: là nguyên lý cốt lõi trong triết lý tâm linh của Vương Thủ Nhân từ thời nhà Minh. Nó bắt nguồn từ Mạnh Tử, Quyển 7, Phần 1: Mạnh Tử viết: 「人之所不學而能者,其良能也;所不慮而知者,其良知也。孩提之童,無不知愛其親者;及其長也,無不知敬其兄也。親親,仁也;敬長,義也。無他,達之天下也。」Phiên âm: Nhân chi sở bất học nhi năng giả, kì lương năng dã; sở bất lự nhi tri giả, kì lương tri dã. Hài đề chi đồng, vô bất tri ái kì thân giả; cập kì trưởng dã, vô bất tri kính kì huynh dã. Thân thân, nhân dã; kính trường, nghĩa dã. Vô tha, đạt chi thiên hạ dã. Dịch nghĩa: ‘Những gì người ta có thể làm mà không cần học, đó là năng lực vậy; những gì họ biết mà không cần suy nghĩ, đó là lương tri vậy. Ngay cả trẻ sơ sinh cũng biết yêu thương cha mẹ; khi lớn lên, chúng biết kính trọng anh chị em. Yêu thương cha mẹ là nhân; kính trọng người lớn tuổi là nghĩa. Không còn có gì khác, nó thông suốt khắp thiên hạ vậy’.
Tân Nho giáo tiếp thu tư tưởng bản thể luận của Phật giáo, xây dựng một hệ thống siêu hình học đạo đức và nâng đạo đức Nho giáo lên tầm triết học. Dưới thời Bắc Tống, Tân Nho giáo phần lớn không được dân gian tiếp thu và không được đưa vào hệ thống khoa cử. Sau thời Nam Tống, nó dần dần được chú ý, và được xác lập là triết lý chính thức dưới thời Nguyên. Dưới thời Minh, Trần Hiến Chương sáng lập Giang Môn Tông, khởi xướng trào lưu tư tưởng Tâm Tông. Vương Dương Minh tiếp tục phát triển Học phái này, trở thành người tổng hợp lớn nhất. Tân Nho giáo thời Thanh có xu hướng bảo thủ, thiếu sự đổi mới mang tính hệ thống. HHN]
[Ghi chú về 陸王心學 Học phái Lục Vương Tâm học: Tâm học 心学 là một Học phái tư tưởng trong Nho giáo Tân Tống-Minh. Phái này được Lục Cửu Uyên khởi xướng thời Nam Tống, và cạnh tranh với Phái Tân Nho giáo Trình Chu. Vào thời Minh, Vương Dương Minh (Vương Thủ Nhân) là người đầu tiên đặt ra thuật ngữ 心学 Tâm học, qua đó thiết lập nên dòng học thuật rõ ràng và độc lập của Phái này. Tâm học Trung Quốc thường được cho là bắt nguồn từ Mạnh Tử, Trình Hạo tiếp nối, và phát triển rực rỡ dưới thời Lục Cửu Uyên, đặc biệt Vương Dương Minh đã đưa nó đến đỉnh cao; do đó, nó được gọi là 陸王心學 ‘Lục Vương Tâm học’.Trước hết là Lục Cửu Uyên (1139-1193), tự Tử Tĩnh, quê ở Kim Khê, Phủ Châu, Giang Tây (nay là huyện Kim Khê, tỉnh Giang Tây). Ông là một triết gia thời Nam Tống, đại biểu cho Học phái Lục Vương. Vì ông giảng dạy tại Thư viện Tượng Sơn (nay thuộc thành phố Quý Khê, tỉnh Giang Tây), nên được gọi là ‘Tượng Sơn Tiên sinh’ và thường được giới học thuật gọi là ‘Lục Tượng Sơn’. Hai anh trai ông là Lục Cửu Thiều và Lục Cửu Linh đều là những học giả Nho giáo nổi tiếng, và họ được gọi chung là ‘Tam Lục’. Lục Cửu Uyên sinh ra trong một gia đình danh giá, sống chung chín đời, với hơn một trăm thành viên. Tổ tiên ông xuất thân từ họ Lục ở huyện Ngô. Tổ tiên đời thứ tám của ông, Lục Hy Thanh, từng giữ chức Tể tướng dưới thời Đường Chiêu Tông. Lục Cửu Uyên là một đứa trẻ thần đồng, tính tình khác thường ngay từ nhỏ, và được người đương thời vô cùng kính trọng. Mẹ ông, bà Nhiêu, mất sớm, và ông được chị dâu nuôi dưỡng. Lúc ba bốn tuổi, ông đã hỏi cha mình câu hỏi 天地何所之 ‘Thiên địa hà sở chi?’ ‘Trời đất đi về đâu?’, suy ngẫm sâu sắc đến nỗi quên cả ăn ngủ. Năm 1172, ở tuổi ba mươi tư, ông đỗ Tiến sĩ, rồi giữ chức Thái thú huyện Kiến An. Khoảng mười năm sau, ông được tiến cử làm Quốc Tử Giám Học chính, Giảng dạy tại Quốc Tử Giám , và sau đó, ông được thăng chức Sắc Lệnh sở San định quan phụ trách duyệt chiếu chỉ. Năm 1175, thời Nam Tống, Lã Tổ Khiêm đã mời Lục Cửu Uyên, Chu Hy và nhiều học giả khác đến 鵝湖之會 Nga hồ chi Hội ‘Hội nghị Hồ Thiên Nga’. Lục Cửu Uyên, với những lập luận hùng hồn và thuyết phục, đã hỏi: “Trước Nghiêu Thuấn thì có sách gì để đọc?”. Ông lập luận rằng chỉ cần hiểu rõ tâm và bản chất của mình là đủ, điều này khiến Chu Hy không hài lòng, và cuộc họp kết thúc không mấy vui vẻ. Sau đó, trong một bức thư gửi Lã Tổ Khiêm, Chu Hy viết, 吾痛不得自鵝湖,遂入懷玉,深山靜坐數月 Ngô thống bất đắc tự Nga Hồ, toại nhập Hoài Ngọc, thâm sơn tĩnh tọa sổ nguyệt “Ta than thở vì không thể rời khỏi Hồ Thiên Nga, nên đã đến Hoài Ngọc và ngồi lặng trong núi sâu vài tháng.” Chu Hy cho rằng học thuyết của Lục Cửu Uyên 簡略空疏 ‘giản lược không sơ’ đơn giản hời hợt, trong khi Lục Cửu Uyên cho rằng học thuyết của Chu Hy là 支離瑣碎 ‘chi li tỏa toái’ tạp loạn vụn vặt. Khi Lục Cửu Nguyên mười ba tuổi, ông đột nhiên nhận ra một câu hỏi mà mình đã trăn trở từ nhỏ. Hôm đó, khi đang đọc sách cổ, ông tình cờ gặp chữ 宇宙 ‘vũ trụ’, và một học giả đã giải thích: 四方上下曰宇,往古來今曰宙 ‘Tứ phương thượng hạ viết vũ, vãng cổ lai kim viết trụ’ Bốn phương, trên dưới gọi là 宇 ‘vũ’, quá khứ hiện tại gọi là 宙 ‘trụ’. Ông bỗng tỉnh ngộ: Thì ra đây chính là ý nghĩa thực sự của 無窮 ‘vô cùng’ a? Nhân loại và vạn vật trong vũ trụ đều tồn tại trong vô cùng. Ông cầm bút viết: “宇宙內事乃己分內事,己分內事乃宇宙內事.” (年譜,陸九淵集,卷三十六) ‘Vũ trụ nội sự nãi kỉ phân nội sự, kỉ phân nội sự nãi vũ trụ nội sự”. ‘Niên phổ’, ‘Lục Cửu Uyên tập’ quyển Tam Thập lục) ‘Việc trong vũ trụ là việc của ta, việc của ta là việc trong vũ trụ.’ (Sử ký, Tuyển tập Lục Cửu Nguyên, Tập 36). Sử ký Lục Cửu Nguyên ghi rằng ông 因宇宙字義,篤志聖學 ‘Nhân vũ trụ tự nghĩa, đốc chí thánh học’ Cống hiến hết mình cho việc học thánh hiền vì ý nghĩa của chữ ‘vũ trụ’, nghĩa là ông đã lĩnh hội được đạo sống từ hai chữ ‘vũ trụ’. Lục Cửu Uyên khao khát trở thành một nhà hiền triết Nho giáo, và ông tin rằng Nguyên lý để trở thành một vị thánh không cần phải tìm kiếm ở đâu khác, mà thực sự nằm trong chính tâm mình. Ông viết:宇宙便是吾心,吾心即是宇宙。東海有聖人出焉,此心同也,此理同也。西海有聖人出焉,此心同也,此理同也。千百世之上至千百世之下,有聖人出焉,此心此理,亦莫不同也。Phiên âm: Vũ trụ tiện thị ngô tâm, ngô tâm tức thị vũ trụ. Đông Hải hữu Thánh nhân xuất yên, thử tâm đồng dã, thử lý đồng dã. Tây Hải hữu Thánh nhân xuất yên, thử tâm đồng dã, thử lý đồng dã. Thiên bách thế chi thượng chí thiên bách thế chi hạ, hữu Thánh nhân xuất yên, thử tâm thử lý, diệc mạc bất đồng dã. Dịch nghĩa: “Vũ trụ là tâm ta, tâm ta là vũ trụ. Một vị Thánh xuất hiện ở Đông Hải, Tâm của vị ấy cũng vậy, Lý của vị ấy cũng vậy. Một vị Thánh xuất hiện ở Tây Hải, Tâm của vị ấy cũng vậy, Lý của vị ấy cũng vậy. Từ ngàn đời trước đến ngàn đời sau, một vị Thánh xuất hiện, Tâm và Lý của vị ấy cũng không khác biệt.” Cứ để tự nhiên diễn ra, và tâm này sẽ ứng phó với vạn vật vô tận. Lục Cửu Uyên giải thích ‘Cực’ là ‘Trung tâm’, ông tin rằng ‘Thái cực’ là ‘nguyên lý chân chính’. Ông nói: 蓋極者,中也,言無極則是猶言無中也,是奚可哉?」「夫太極者,實有是理,…其為萬化根本固自素定,其足不足,能不能,豈以人之言不言之故耶?」(與朱元晦,一)「充塞宇宙,無非此理,豈容以字義拘之乎?」(與朱元晦,二),「言即其事,事即其言,所謂『言顧行,行顧言』」(與朱元晦,二) Phiên: ‘Cái cực giả, trung dã, ngôn vô cực tắc thị do ngôn vô trung dã, thị hề khả tai? ‘Phu thái cực giả, thật hữu thị lý,…kì vi vạn hóa căn bản cố tự tố định, kì túc bất túc, năng bất năng, khởi dĩ nhân chi ngôn bất ngôn chi cố da?” (‘Dữ Chu Nguyên Hối’ nhất) ‘sung tắc Vũ trụ, vô phi thử lý, khởi dung dĩ tự nghĩa câu chi hồ?” (‘Dữ Chu Nguyên Hối’ nhị)… ‘ngôn tức kì sự, sự tức kì ngôn, sở vị “Ngôn cố hành, hành cố ngôn” (‘Dữ Chu Nguyên Hối’ nhị), Dịch ý: “Cực chính là Tâm. Nói không có cực chính là nói không có Tâm. Làm sao có thể chấp nhận được?’ ‘Thái cực quả thật có nguyên lý này... Nó là nguyên lý căn bản của vạn vật biến hóa và vốn dĩ cố định. Đủ hay không, có thể hay không thể đạt được, đều không phải do người ta nói đến hay không mà quyết định.” (Thư gửi Chu Nguyên Hối, Phần 1) “Nguyên lý này bao trùm khắp vũ trụ. Làm sao chúng ta có thể bị ràng buộc bởi ý nghĩa của ngôn từ?” (Thư gửi Chu Nguyên Hối, Phần 2) “Lời nói chính là hành động, hành động chính là lời nói. Đây chính là ý nghĩa của câu “lời nói phản ánh hành động, hành động phản ánh lời nói” (Thư gửi Chu Nguyên Hối, Phần 2). 「『無極』二字,出於《老子·知其雄章》,吾聖人之書所無有也。」(與朱元晦,一)《老子》「無名天地之始,有名萬物之母」,「有生於無」的觀點是老氏從始至終的為學宗旨,「無極而太極」。“Vô cực” nhị tự, xuất ư ‘Lão Tử. Tri kì Hùng chương’, ngô thánh nhân chi thư sở vô hữu dã.” ‘Dữ Chu Nguyên Hối’ nhất ‘Lão Tử’ ‘Vô danh thiên địa chi thủy, hữu danh vạn vật chi mẫu’, ‘Hữu sinh ư vô’ đích quan điểm thị lão thị tòng thủy chí chung đích vi học tông chỉ, ‘Vô cực nhi thái cực’. “Hai chữ ‘Vô cực’ xuất có gốc từ chương ‘Tử Kỳ Hùng Chương’ sách ‘Đạo Đức Kinh’, vốn không có trong sách của các bậc thánh hiền của ta.” (‘Thư gửi Chu Nguyên Hối’, Phần 1) Chương đầu tiên của ‘Đạo Đức Kinh’ viết: ‘Vô danh là khởi đầu của Trời Đất; Hữu danh là Mẹ của vạn vật.’ ‘Hữu sinh từ Vô’ là nguyên lý giáo huấn nhất quán của Lão Tử, ‘Vô cực dẫn đến Thái cực’ chính là hiện thân của quan điểm này. HHN]
朱子《集注》,元明以來以之取士,幾於人人習之。清初漢學再興,始有異議者。譽之者尊為聖經賢傳,一字無敢逾越;詆之者置之源不議不論之列。如王闓運所著之《論語訓》,漢、魏、六朝諸家之說備列無遺,獨於朱《注》一字不及,漢宋門戶,隱若劃一鴻溝。黃式三《論語後案》始以《集解》、《集注》並列,然其旨仍在袒漢學。實則《集注》雖考証稍疏,然字斟句酌,亦非無一長可取,不能概行抹殺。是書先列《集解》,為漢學所宗;次《集注》,為宋學所本;中間增「唐以前古注」一門,搜羅漢、魏、六朝及唐人《論語》著述,片言只字,必一一搜剔,不使遺漏,庶幾已佚之書,賴以不墮。其近人著述,有罕見之本,或篇帙無多,恐其日久失傳,往往全部收入,亦本斯旨。Phiên âm: Chu Tử ‘Tập chú’, Nguyên Minh dĩ lai dĩ chi thủ sĩ, ki ư nhân nhân tập chi. Thanh sơ Hán học tái hưng, thủy hữu dị nghị giả. Dự chi giả tôn vi Thánh kinh Hiền truyện, nhất tự vô cảm du việt; để chi giả trí chi nguyên bất nghị bất luận chi liệt. Như Vương Khải Vận sở trứ chi ‘Luận Ngữ huấn’, Hán, Ngụy, Lục Triều chư gia chi thuyết bị liệt vô di, độc ư Chu ‘chú’ nhất tự bất cập, Hán Tống môn hộ, ẩn nhược hoạch nhất hồng câu. Hoàng Thức Tam ‘Luận Ngữ Hậu án’ thủy dĩ ‘Tập giải’, ‘Tập chú’ tịnh liệt, nhiên kì chỉ nhưng tại đản Hán học. Thật tắc ‘Tập chú’ tuy khảo chứng sảo sơ, nhiên tự châm cú chước, diệc phi vô nhất trường khả thủ, bất năng khái hành mạt sát. Thị thư tiên liệt ‘Tập giải’, vi Hán học sở tông; thứ ‘Tập chú’, vi Tống học sở bản; trung gian tăng ‘Đường dĩ Tiền cổ Chú’ nhất môn, sưu la Hán, Ngụy, Lục Triều cập Đường nhân ‘Luận ngữ’ trứ thuật, phiến ngôn chỉ tự, tất nhất nhất sưu dịch, bất sử di lậu, thứ ki dĩ dật chi thư, lại dĩ bất đọa. Kì cận nhân trứ thuật, hữu hãn kiến chi bản, hoặc thiên trật vô đa, khủng kì nhật cửu thất truyền, vãng vãng toàn bộ thu nhập, diệc bản tư chỉ.
Dịch nghĩa: Chu Tử ‘Tập chú’ của Chu Hy được dùng để tuyển chọn các quan lại thời Nguyên và Minh, và hầu như ai cũng học tập. Với sự phục hưng của học thuyết Hán học vào đầu thời Thanh, những ý kiến bất đồng bắt đầu xuất hiện. Những người ca ngợi thì tôn sùng nó như Kinh sách Thiêng liêng, không dám đi chệch khỏi nguồn gốc; những người chỉ trích thì bác bỏ nó vì cho rằng không thể bàn luận. Ví dụ, ‘Luận Ngữ huấn’ của Vương Khải Vận đã liệt kê toàn bộ các luận giải của nhiều Học phái khác nhau từ thời Hán, Ngụy và Lục triều, nhưng lại không hề đề cập đến luận giải của Chu Hy, dường như đã tạo ra một khoảng cách giữa thời Hán và thời Tống. ‘Luận Ngữ Hậu án’ của Hoàng Thức Tam ban đầu kê ‘Tập giải’, ‘Tập chú’ cạnh nhau, nhưng mục đích vẫn là hỗ trợ Hán học. Trên thực tế, mặc dù nghiên cứu văn bản ‘Tập chú’ còn thiếu sót, nhưng cách lựa chọn từ ngữ và cách diễn đạt cẩn thận của nó không phải là không có giá trị và không nên bị bác bỏ hoàn toàn. Sách này đầu tiên liệt kê ‘Tập giải’, vốn là nền tảng của học thuật thời Hán; sau đó là ‘Tập chú’, vốn là nền tảng của học thuật thời Tống; ở giữa, một phần mới, ‘Đường dĩ Tiền cổ chú’ Bình chú cổ trước thời nhà Đường, được bổ sung, tìn tòi, sắp xếp các tác phẩm viết về 'Luận Ngữ' của các học giả thời Hán, Ngụy, Lục Triều và Đường. Từng chữ từng câu đều được sàng lọc kỹ lưỡng, không bỏ sót bất kỳ chi tiết nào, để những cuốn sách bị thất lạc không bị thất lạc. Trong số các tác phẩm gần đây, có những bản hiếm hoặc các chương ngắn, vì lo ngại chúng có thể bị mất mát theo thời gian nên thường được đưa vào toàn bộ, cũng vì mục đích này.
_________________________________
(Còn nữa…)
Nguồn:《論語集釋》,程樹德撰,是論語研究者的重要參考書。收集了清以前的重要論語注釋,引用書籍達六百八十種,共一百四十萬字。出版.1943年由華北編譯館出版。 ‘Luận Ngữ Tập thích’ Trình Thụ Đức soạn, thị Luận Ngữ nghiên cứu giả đích trọng yếu tham khảo thư. Thu tập liễu thanh dĩ tiền đích trọng yếu Luận Ngữ chú thích, dẫn dụng thư tịch đạt lục bách bát thập chủng, cộng nhất bách tứ thập vạn tự. Xuất bản. 1943 niên do hoa bắc biên dịch quán xuất bản. ‘Luận Ngữ Tập thích, do Trình Thụ Đức biên soạn, là một Bộ sách tham khảo quan trọng dành cho những người nghiên cứu Luận Ngữ. Sách tập hợp những bình luận chủ chốt về Luận Ngữ từ trước thời nhà Thanh, trích dẫn 680 cuốn sách và tổng cộng 1,4 triệu chữ. Xuất bản năm 1943. Cục Biên soạn và Phiên dịch Bắc Trung Quốc.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét