Lưu Chấn Duy
Người dịch: Hà Hữu Nga
Hàn Dũ sinh năm 768, mất năm 824, tự là Thoái Chi, người huyện Hà Dương, phủ Hà Nam, nay là thành phố Mạnh Châu, tỉnh Hà Nam; tự nhận quê hương tổ tiên là Xương Lê, nên được gọi là Hàn Xương Lê. Về sau, ông giữ chức Thị lang Bộ Lại, nên còn gọi là Hàn Lại Bộ. Hàn Dũ và Liễu Tông Nguyên là người khởi xướng phong trào văn xuôi cổ đại thời bấy giờ, được gọi chung là ‘Hàn Liễu’. Tô Thức ca ngợi ông 文起八代之衰,道濟天下之溺,忠犯人主之怒,勇奪三軍之帥 Văn khởi Bát đại chi suy, Đạo tế Thiên hạ chi nịch, Trung phạm Nhân chủ chi nộ, Dũng đoạt Tam quân chi Soái’ Văn giúp phục hưng Tám triều đại, Đạo cứu Thiên hạ khỏi chết đuối, Trung quân nên đắc tội cùng Thiên tử, Dũng ngang Đại soái khiến Ba quân’ (tám triều đại: Đông Hán, Ngụy, Tấn, Tống, Tề, Lương, Trần, Tùy). Ông nổi tiếng về cả văn xuôi và thơ ca. nên có thụy hiệu ‘Văn’, và được gọi là Hàn Văn Công. Các tác phẩm của ông được tập hợp trong ‘Xương Lê Tiên sinh Tập’.
Hàn Dũ tự nhận là hậu duệ của Hàn Vương Tín; cha là Hàn Trọng Khanh. Ông mất cha lúc ba tuổi và mẹ qua đời khi mới hai tháng tuổi; được anh trai là Hàn Hội nuôi dưỡng. Ông theo anh trai đến Trường An, Thiều Châu, nay là Thiều Quan, Quảng Đông, và nhiều nơi khác, nơi anh trai làm quan. Sau đó, Hàn Hội mất ở Thiều Châu, Hàn Vũ cùng chị dâu họ Trịnh hộ tống linh cữu Hàn Hội trở lại Hà Dương. Về sau, ông lánh nạn ở Tuyên Thành (nay là Tuyên Thành, An Huy), nơi ông và cháu trai Hàn Lão Thành được Trịnh thị nuôi dưỡng, và mối quan hệ giữa ông và nhà họ Trịnh còn thân thiết hơn cả anh em ruột. Năm thứ hai niên hiệu Trinh Nguyên (786), ông đến Trường An dự thi, nhưng do không có thân thế hay quan hệ gia đình nên ông đã thi trượt ba lần. Năm thứ tám niên hiệu Trinh Nguyên (792), hai nhà cổ văn Lục Chí và Lương Túc phụ trách khoa cử. Hàn Vũ từng là học trò của Lương Túc, lại do ham thích cổ văn nên đã đỗ Tiến sĩ trong kỳ Khoa cử của triều đình. Ông đã tham gia ứng thí Bộ Lại, nhưng trượt ba lần. Trong cơn phẫn nộ, ông nói rằng mình đã 為考官所辱 ‘vi khảo quan sở nhục’ ‘bị các giám khảo làm nhục’. Vào năm Trinh Nguyên thứ mười một (795), ông đã ba lần viết thư cho Tể tướng, hy vọng được tiến cử, nhưng vô ích. Vào năm Trinh Nguyên thứ mười hai (796), đạo quân Tuyên Vũ ở Biện Châu hỗn loạn. Ông đến nhậm chức với Đổng Tấn, Tiết độ sứ đạo quân Tuyên Vũ, giữ chức Quan sát Thôi quan. Trong thời gian này, ông làm quen với Mạnh Giao, Lý Cao và Trương Tịch trở thành đệ tử của ông. Đổng Tấn qua đời, ông được điều làm Tiết Độ Thôi quan dưới quyền Trương Kiến Phong, Tiết độ sứ Vũ Ninh. Sau khi Trương Kiến Phong mất, ông chuyển đến Lạc Ấp.
Năm Trinh Nguyên thứ mười bảy (801), qua sự giới thiệu của Lý Cao với Lục Tham, ông được tiến cử làm Tiến sĩ Tứ Môn của Quốc Tử Giám. Trước năm Trinh Nguyên thứ mười chín (803), ông viết “Sư thuyết”. Năm Trinh Nguyên thứ mười chín (803), ông được thăng làm Giám sát Ngự sử. Do hạn hán ở Quan Trung, ông đã làm bản tấu trình “Ngự sử đài Thượng luận thiên hạn nhân cơ trạng” luận tội Lý Thật, Thái thú Kinh Triệu, vốn là họ hàng của Hoàng đế. Kết quả là, ông bị giáng chức làm Ngự sử Dương Sơn, nhưng lại được bách tính vô cùng yêu mến, thậm chí lấy chữ Hàn để đặt tên cho con cháu. Tháng 8 năm Vĩnh Trinh thứ nhất (805), Đường Hiến Tông lên ngôi và ban lệnh đại xá. Hàn Dũ bị điều chuyển làm Pháp tào Tham quân ở phủ Giang Lăng, Kinh Châu. Hàn Dũ rất thất vọng cất lời: 棲棲法曹掾,何處事卑陬 ‘Thê thê pháp tào duyện, hà xứ sự ti tưu’ ‘Lè tè cái phó quan, Đâu rồi đời bạc phếch?’ Năm Nguyên Hòa thứ sáu (811), ông được bổ nhiệm làm Bác sĩ Quốc Tử Giám và viết ‘Tiến học giải’, được Tể tướng Bùi Độ đọc, khen ngợi và thăng chức làm Lang trung Bộ Lễ. Năm 815, ông theo Bùi Độ tham chinh Hoài Tây và được thăng chức làm Hình Bộ Thị lang vì có công trạng. Ông cũng viết ‘Bình định Hoài Tây Bi’, là bia khắc ca ngợi Tể tướng Bùi Độ, nên Lý Tố cũng tham chiến bình định Hoài Tây, lại có một người vợ là con gái của công chúa Đường An, nên đã cáo buộc Hàn Dũ viết bia không đúng sự thật. Thạch Hiếu Trung, một thuộc hạ của Lý Tố, đã đập đổ bia khắc. Hoàng đế Đường Hiến Tông không còn cách nào khác ngoài việc ra lệnh cho Đoàn Văn Xương viết lại văn bia. Tháng Giêng năm Nguyên Hòa thứ mười bốn (819), khi được bổ Hình Bộ Thị lang, nhưng do phản đối việc Đường Hiến Tông tiếp kiến xá lợi Phật nên ông bị giáng chức làm Thứ sử Triều Châu, Quảng Đông.
Sau khi đến Triều Châu, Hàn Vũ kết bạn với nhà sư Đại Điên. Ở đó, ông đã viết ‘Tế Ngạc ngư văn’ Văn Tế cá sấu, cho ném một con lợn và một con dê xuống sông, tổ chức dân chúng săn cá sấu, ông còn cho đổ vôi sống và lưu huỳnh xuống sông để đuổi chúng đi. Sách ‘Cựu Đường thư’ ghi rằng sau đó cá sấu đã biến mất. Tuy nhiên, trên thực tế, sau này khi Thừa tướng Lý Đức Dụ và quan đại thần nhà Tống Trần Nghiêu Tá đến Triều Châu, thấy cá sấu vẫn còn đó. Sau khi Hàn Vũ qua đời, một ngôi đền mang tên Hàn Văn Công miếu đã được xây dựng tại khu vực này.
[Ghi chú về 祭鱷魚文 Tế Ngạc ngư văn/ Văn tế Cá sấu của Hàn Dũ: 維年月日,潮州刺史韓愈,使軍事衙推秦濟,以羊一豬一投惡溪之潭水,以與鱷魚食,而告之曰:昔先王既有天下,列山澤,罔繩擉刃,以除蟲蛇惡物為民害者,驅而出之四海之外。及後王德薄,不能遠有,則江漢之間,尚皆棄之以與蠻夷楚越,況潮嶺海之間,去京師萬里哉?鱷魚之涵淹卵育於此,亦固其所。今天子嗣唐位,神聖慈武,四海之外,六合之內,皆撫而有之,況禹跡所揜,揚州之近地,刺史、縣令之所治,出貢賦以供天地宗廟百神之祀之壤者哉?鱷魚其不可與刺史雜處此土也。
刺史受天子命,守此土,治此民,而鱷魚旱然不安溪潭,據處食民畜熊豕鹿獐,以肥其身,以種其子孫,與刺史抗拒,爭為長雄。刺史雖駑弱,亦安肯為鱷魚低首下心,伈伈見見,為民吏羞,以偷活於此耶?且承天子命以來為吏,固其勢不得不與鱷魚辯。
鱷魚有知,其聽刺史言:潮之州,大海在其南。鯨鵬之大,蝦蟹之細,無不容歸,以生以食,鱷魚朝發而夕至也。今與鱷魚約,盡三日,其率醜類,南徙於海,以避天子之命吏。三日不能,至五日;五日不能,至七日;七日不能,是終不肯徙也,是不有刺史聽從其言也。不然,則是鱷魚冥頑不靈,刺史雖有言,不聞不知也。夫傲天子之命吏,不聽其言,不徙以避之,與冥頑不靈而為民物害者,皆可殺。刺史則選材技吏民,操強弓毒矢,以與鱷魚從事,必盡殺乃止。其無悔!
Phiên âm: “Duy niên nguyệt nhật, Triều Châu Thứ sử Hàn Dũ, sử Quân sự Nha thôi Tần Tế, dĩ dương nhất trư nhất đầu Ác Khê chi đàm thủy, dĩ dữ Ngạc ngư thực, nhi cáo chi viết: Tích tiên vương kí hữu Thiên hạ, liệt sơn trạch, võng thằng thục nhận, dĩ trừ trùng xà ác vật vi dân hại giả, khu nhi xuất chi tứ hải chi ngoại. Cập hậu vương đức bạc, bất năng viễn hữu, tắc Giang Hán chi gian, thượng giai khí chi dĩ dữ man di Sở Việt, huống triều lĩnh hải chi gian, khứ kinh sư vạn lí tai? Ngạc ngư chi hàm yêm noãn dục ư thử, diệc cố kì sở. Kim Thiên tử tự đường vị, thần thánh từ vũ, Tứ hải chi ngoại, Lục hợp chi nội, giai phủ nhi hữu chi, huống vũ tích sở yểm, Dương Châu chi cận địa, Thứ sử, Huyện lệnh chi sở trị, xuất cống phú dĩ cung Thiên địa Tông miếu Bách thần chi tự chi nhưỡng giả tai? Ngạc ngư kì bất khả dữ Thứ sử tạp xứ thử thổ dã.”
“Thứ sử thụ Thiên tử mệnh, thủ thử thổ, trị thử dân, nhi Ngạc ngư hạn nhiên bất an khê đàm, cứ xứ thực dân súc hùng thỉ lộc chương, dĩ phì kì thân, dĩ chủng kì tử tôn, dữ thứ sử kháng cự, tranh vi trường hùng. Thứ sử tuy nô nhược, diệc an khẳng vi Ngạc ngư đê thủ hạ tâm, tẩm tẩm kiến kiến, vi dân lại tu, dĩ thâu hoạt ư thử da? Thả thừa Thiên tử mệnh dĩ lai vi lại, cố kì thế bất đắc bất dữ Ngạc ngư biện.”
“Ngạc ngư hữu tri, kì thính thứ sử ngôn: Triều chi châu, đại hải tại kì nam. Kình bằng chi đại, hà giải chi tế, vô bất dung quy, dĩ sinh dĩ thực, Ngạc ngư triêu phát nhi tịch chí dã. Kim dữ Ngạc ngư ước, tận tam nhật, kì suất xú loại, nam tỉ ư hải, dĩ tị thiên tử chi mệnh lại. Tam nhật bất năng, chí ngũ nhật; ngũ nhật bất năng, chí thất nhật; thất nhật bất năng, thị chung bất khẳng tỉ dã, thị bất hữu thứ sử thính tòng kì ngôn dã. Bất nhiên, tắc thị ngạc ngư minh ngoan bất linh, Thứ sử tuy hữu ngôn, bất văn bất tri dã. Phu ngạo Thiên tử chi mệnh lại, bất thính kì ngôn, bất tỉ dĩ tị chi, dữ minh ngoan bất linh nhi vi dân vật hại giả, giai khả sát. Thứ sử tắc tuyển tài kĩ lại dân, thao cường cung độc thỉ, dĩ dữ Ngạc ngư tòng sự, tất tận sát nãi chỉ. Kì vô hối!” Dịch nghĩa: “Vào ngày này, tháng này năm này, Thứ sử Triều Châu Hàn Dũ, đã lệnh cho quan Nha thôi Quân sự Tần Cơ ném một con dê, một con lợn xuống đầm Ác Khê cho Ngạc ngư/Cá sấu ăn mà cáo rằng:” “Ngày xưa, các đấng Tiên vương trị vì đất nước, đã hoạch định núi non đầm phá, dùng lưới quăng, dây trói, dùi đâm, đao bổ diệt trừ sâu trùng, rắn rết, thú hoang làm hại dân lành, xua đuổi chúng ra ngoài bốn biển. Cập đến Hậu vương đức mỏng thiểu tài, đã chẳng đủ sức với tay đến chốn xa xôi hẻo lánh cho cam, mà ngay cả khu vực sông Dương sông Hán cũng đành bỏ cho lũ man di Sở Việt. Huống chi dải đất Triều Châu đến Lĩnh Nam kia, cách kinh đô xa ngoài ngàn dặm? Quả đúng đất lành cho lũ Ngạc ngư ẩn mình bám trú sinh sôi. Ngày nay, Đường Đại đế đã chính ngôi Thiên Tử, đấng minh quân thần thánh nhân từ; vậy nên phàm trong Sáu phương, trải ngoài Bốn biển, Thiên hạ đây nằm trọn tay Ngài. Huống chi cận địa Dương Châu vẫn in hằn dấu chân Đại Vũ, thử hỏi nay có phải Thứ sử, Huyện lệnh trông coi, sản cống phú, xuất lễ vật cùng dàng Đất Trời tông miếu tổ tiên cùng muôn đấng thần linh? Vậy Ngạc ngư kia sao được phép trú ngụ chốn đây cùng quan Thứ sử.”
“Thứ sử ta, thụ mệnh Thiên tử, nắm giữ đất này, cai quản dân này, vả Ngạc ngư kia khuấy đảo khe đầm, chiếm cứ đất đai, săn lùng gia súc cùng gấu, lợn hươu nai – hầu vỗ béo bản thân, để sinh sản đông đàn dài lũ; lại ngang nhiên thách thức Thứ sử ta tranh quyền đoạt lực. Dẫu Thứ sử ta kém cỏi bất tài, nhưng sao đặng cúi đầu để lũ Ngạc ngư dã tâm tẩm ngẩm tầm ngầm, để hạ nhục bá quan bách tính, đặng tồn tại qua ngày? Vả, nay Thứ sử ta vâng Thiên tử mệnh, nào có ngại chi ra tay đấu cùng lũ Ngạc ngư ngươi.”
“Ngạc ngư biết chăng, hãy nghe Thứ sử quan ta phán: Phía nam Triều Châu Biển cả không cùng. Khủng tày Kình ngư Đại bàng, bé mọn tựa nghêu sò tôm tép, thảy đều có chốn dung thân, kiếm miếng sinh con; lũ Ngạc ngư ngươi chỉ cần sáng đi tối đến. Nào Ngạc ngư nghe giao ước như vầy: Nội trong ba ngày, dẫn nhau xuống biển phương Nam, khuất mắt bá quan Thiên tử bổ nhậm. Ba ngày không xong thì năm ngày vậy; Năm ngày chưa đặng, cho dư bảy ngày; Bảy ngày không xong ắt là từ chối, Không xem lời quan Thứ sử ra gì. Không chịu rời đi hẳn là ngang ngạnh bất tuân hoặc là không hiểu. Bất kể kẻ nào cưỡng lại Thiên tử, không vâng lệnh Ngài, không chịu lánh đi, cùng với bè lũ ương ngoan, cố chấp, gây hại cho dân cho vật, thảy đều giết chết. Sau đây Thứ sử lựa những quan viên bá tánh hiền tài, trao cho cung mạnh tên độc, quyết đấu với loài Ngạc ngư đến chết không tha. Đừng có mà hối!.” HHN]
Hàn Dũ đã đề xướng thuyết ‘Tam phẩm nhân tính’ ba bản chất của con người. Thuyết này đặt ra ba khía cạnh: Thứ nhất, bản chất con người là bẩm sinh; Thứ hai, bản chất con người vốn thiện; và Thứ ba, nội dung của Thiện tính ấy là Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí và Tín. Cảm xúc nảy sinh từ sự tương tác giữa bản chất con người với vạn vật bên ngoài. Quan điểm của Hàn Vũ thực ra bắt nguồn từ giáo lý của Vương Xung thời Đông Hán, chứ không phải Đổng Trọng Thư như một số người quan niệm. Tuy luận thuyết của Hàn Dũ có phần thô sơ và chưa hoàn thiện, nhưng nó vẫn được Chu Hy ca ngợi. Lý do thực sự cho lời khen ngợi này nằm ở việc Hàn Dũ nhấn mạnh vào nội dung bẩm sinh của bản chất con người là Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí và Tín, chính là cốt lõi của Luận thuyết Tân Nho giáo về bản chất tốt đẹp vốn có của con người. Bài viết này, thông qua góc nhìn rộng mở, từ “Tính thiện” của Mạnh Tử đến “Tính bản thiện” của Chu Hy, cho thấy Luận thuyết Tam phẩm tính của Hàn Dũ vừa là phương tiện vừa là bước chuyển tiếp trong Luận thuyết Nhân tính của Nho giáo, vừa đánh dấu sự khởi đầu cho Tính bản thiện vốn có của con người trong Tân Nho giáo. Chẳng trách Chu Hy, vừa than thở về tham vọng quyền thế, giàu sang phú quý của Hàn Dũ, vừa ca ngợi ông về 識見高處 ‘thức kiến cao xứ’ trí tuệ cao siêu. Bài viết này cố gắng phân tích hàm ý của học thuyết tam phẩm tính của Hàn Dũ và vị trí của nó trong toàn bộ lịch sử phát triển Nhân tính của Nho giáo. Bài viết được chia thành ba phần: Phần thứ nhất, phân tích hàm ý của Luận thuyết Tam phẩm tính của Hàn Dũ; Phần thứ hai, so sánh quan điểm của ông về Nhân tính với quan điểm của Đổng Trọng Thư và Vương Xung để làm rõ lập trường của Luận thuyết này; và Phần thứ ba, phân tích ảnh hưởng của ông đối với Lý học Tống Minh về Tính bản thiện.
[Tr.305]. Tổ tiên Hàn Dũ từng sống ở Xương Lê, do đó ông tự gọi mình là Hàn Xương Lê. Ông nổi tiếng với các tác phẩm văn học,1 tuy nhiên, trong sự phát triển của triết học Nho giáo truyền thống Trung Quốc, Hàn Dũ là một nhân vật chủ chốt, bắc cầu giữa quá khứ và tương lai. Nếu không có ông khởi xướng việc truyền bá truyền thống chính thống,2 thì sự phục hưng của Nho giáo Khổng Tử và Mạnh Tử thời Tiền Tần có thể đã bị trì hoãn một lần nữa; và sự trỗi dậy của Tân Nho giáo trong các triều đại Tống và Minh có thể đã không mạnh mẽ như vậy. Tình trạng thiếp ngủ, suy tàn của Nho giáo từ thời Ngụy, Tấn, Nam Bắc Triều đến thời Tùy Đường đã được Hàn Dũ đánh thức, giống như một tiếng sét từ giếng sâu, chứng minh rằng cách cai trị Thiên hạ nằm ở Đạo đức và nguyên tắc Nho giáo, chứ không phải ở các thực hành thoát ly của Phật giáo và Đạo giáo. Điều này gắn liền với sự kiên trì theo đuổi suốt đời của Hàn Vũ. Mẹ ông mất hai tháng sau khi ông chào đời, để lại ông mồ côi cả cha lẫn mẹ lúc ba tuổi. Ông được anh trai là Hàn Hội (khoảng 738-779) và chị dâu người họ Trịnh nuôi dưỡng. Anh trai ông cũng mất khi ông mười hai tuổi, để lại ông ‘một đứa trẻ mồ côi’. Tuy nhiên, ông 幼刻苦學儒,不俟獎勵 [tr.306] ấu khắc khổ học Nho, bất sĩ tưởng lệ ‘chăm chỉ học Nho giáo từ nhỏ, không cần ai khuyến khích’.4
七歲而讀書,十三而能文 ‘Thất tuế nhi độc thư, thập tam nhi năng văn’5 ‘Ông bắt đầu đọc sách từ năm bảy tuổi và có thể viết văn năm mười ba tuổi’. Hàn Dũ học với các học giả Nho giáo danh tiếng là Độc Cô Cập (725-777) và Lương Túc (753-793). Ông dành trọn tâm huyết cho văn chương cổ điển, và sử sách ghi lại rằng 愈自知讀書,日記數千百言,比長,盡能通六經、百家學」7。「及冠,恣為書以傳聖人之道」8,自稱「前古之興亡,未嘗不經於心也,當世之得失,未嘗不留於意也,常以天下之安危在邊」9,而「志欲干霸王」10. ‘Dũ tự tri độc thư, nhật kí sổ thiên bách ngôn, bỉ trường, tận năng thông Lục kinh, Bách gia học’7. Cập quan, tứ vi thư dĩ truyền thánh nhân chi đạo’8, tự xưng ‘tiền cổ chi hưng vong, vị thường bất kinh ư tâm dã, đương thế chi đắc thất, vị thường bất lưu ư ý dã, thường dĩ thiên hạ chi an nguy tại biên’9, nhi ‘chí dục can bá vương’10. “Dũ biết đọc, viết hàng ngàn chữ mỗi ngày. Lớn lên, ông thông thạo Lục Kinh và các giáo lý của nhiều Học phái khác nhau”. “Khi trưởng thành, phóng túng viết hầu truyền đạt giáo lý của các bậc thánh hiền.” Ông nói: 前古之興亡,未嘗不經於心也,當世之得失,未嘗不留於意也 ‘Tiền cổ chi hưng vong, vị thường bất kinh ư tâm dã, đương thế chi đắc thất, vị thường bất lưu ư ý dã’ “Sự thịnh suy của thời xưa chưa bao giờ thôi day dứt tâm tư ta, và những thăng trầm của thế gian này chưa bao giờ thôi khuấy động ý nghĩ ta. Ta luôn nghĩ đến sự an nguy của Thiên hạ.” Ông cũng “khát vọng trở thành vương bá.” Điều này chứng tỏ sự can đảm của Hàn Dũ trước nghịch cảnh và tham vọng lớn lao của ông. Mặc dù có tài năng văn chương xuất chúng, Hàn Dũ đã phải bốn lần ứng thí các cuộc thi đình rồi mới trúng Tiến sĩ, với giám khảo chính là Tể tướng Lục Chí (754-805), cùng với Lương Túc và Vương Sở làm trợ lý.11 Tuy nhiên, sự nghiệp quan trường của ông không thành công, phần lớn là do tính thẳng thắn và xu hướng xung đột với hoạn quan và những nhân vật quyền thế.12
Ông nhậm chức Hình Bộ Thị lang, vào năm Nguyên Hòa thứ mười bốn Đường Hiến Tông (819), ông đã đệ trình một biểu văn có tựa đề ‘Luận Phật cốt biểu’ cho rằng Đức Phật thờ ơ với vận mệnh của quốc gia và người dân, nên ông phản đối quyết định của Hoàng đế Đường Hiến Tông nghênh đón Xá lợi Phật. Để đến nỗi 表入,帝大怒,持示宰相,將抵以死 ‘Biểu nhập, Đế đại nộ, trì thị Tể tướng, tương để dĩ tử’ ‘Sau khi nhận được biểu văn, Hoàng đế vô cùng tức giận, đưa cho Tể tướng xem và định xử tội chết’, nhưng may mắn thay, nhờ nỗ lực của Bùi Độ (765-839) và Thôi Quần (772-832), ông đã thoát chết và bị giáng chức làm Thứ sử Triều Châu.13 Sự thẳng thắn của ông đã làm kinh động thiên hạ. Làm quan đến chức Lễ Bộ Thị lang, và vào năm Trường Khánh thứ tư (824), ông được truy tặng làm Lễ Bộ Thượng thư, và được đặt thụy hiệu là Văn.14 Hàn Dũ tự coi mình là người kế thừa và bảo vệ Nho giáo trong suốt cuộc đời, ông từng nói: 使其道由愈而粗傳,雖滅死萬萬無恨 ‘Sử kì đạo do dũ nhi thô truyền, tuy diệt tử vạn vạn vô hận’ ‘Nếu Đạo được Dũ tôi thô sơ truyền lại, thì dẫu muôn vạn lần phải chết tôi cũng cam lòng.’15
Bài ‘Nguyên Đạo’ nổi tiếng của ông viết: 博愛之謂仁,行而宜之之謂義,由是而之焉之謂道,足乎己無待於外之謂德。仁與義為定名,道與德為虛位. Phiên âm: ‘Bác ái chi vị nhân, hành nhi nghi chi chi vị nghĩa, do thị nhi chi yên chi vị đạo, túc hồ kỉ vô đãi ư ngoại chi vị đức. Nhân dữ nghĩa vi định danh, Đạo dữ đức vi hư vị.” Dịch nghĩa: “Bác ái gọi là Nhân, làm được (宜之 nghi chi) điều Nhân là Nghĩa, do đó mới gọi là Đạo, tự túc không dựa dẫm bên ngoài gọi là Đức. Nhân Nghĩa làm nên Định danh, Đạo Đức tạo thành Hư vị.”16 Học thuyết Đạo thống này nhằm mục đích bài xích Phật giáo và Đạo giáo; Hàn Dũ đã thực hành phương châm này trong suốt cuộc đời, và các cuộc thảo luận của thế hệ sau về những thành tựu của Hàn Dũ cũng đề cập đến điều đó.17 Học thuyết của ông về ba phẩm chất của con người là sự chuyển tiếp từ ‘Tính thiện’ của Mạnh Tử sang ‘Tính bản thiện’ của Chu Hi (1130-1200). Từ góc nhìn bao quát này, Hàn Dũ thực sự chiếm một vị trí then chốt trong sự phát triển của học thuyết Nho giáo về Nhân tính luận, kết nối quá khứ và tương lai, với ảnh hưởng sâu xa.18
[Ghi chú từ 宜之 ‘nghi chi’ có nghĩa cốt lõi là 恰當地 kháp đương địa ‘thích nghi’ hoặc ‘thích hợp’. Từ này có nguồn gốc ở 詩經·小雅 Kinh Thi, thiên Tiểu nhã, Bài thơ 裳裳者華 ‘Thường thường giả hoa’ trong đó có câu 左之左之,君子宜之 ‘Tả chi tả chi, Quân tử nghi chi’, minh họa cách xử lý công việc phù hợp thông qua sự tương ứng giữa vị thế và hành động của người ‘Quân tử’. Trong văn học truyền thống, từ này xuất hiện như một cụm từ, vừa là một phán đoán độc lập (ví dụ: 高人宜對此 ‘Cao nhân nghi đối thử’ lại có thể kết hợp để trở nên một thành ngữ ghép 左宜右有 ‘tả nghi hữu hữu’ trong bài thơ 玩月 Ngoạn nguyệt. Về mặt ngữ pháp, 宜 nghi mang ý nghĩa cốt lõi là ‘phù hợp’ hoặc ‘thích hợp’, trong khi 之 chi đóng vai trò như một cấu trúc nhấn mạnh giọng điệu. HHN]
[Ghi chú về ‘Quân tử’ của Tuân Tử: 君子能亦好,不能亦好;小人能亦醜,不能亦醜。君子能則寬容易直以開道人。不能則恭敬繜絀以畏事人。小人能則倨傲僻違以驕溢人。不能則妬嫉怨誹以傾覆人。故曰:君子能則人榮學焉,不能則人樂告之;小人能則人賤學焉,不能則人羞告之。是君子小人之分也。君子寬而不僈。廉而不劌,但有廉隅,不至於刃傷也。辯而不争,察而不激,直立而不勝,堅彊而不曓,柔從而不流,恭敬謹慎而容,夫是之謂至文。《詩》曰:「左之左之,君子宜之;右之右之,君子有之。」此言君子以義屈信變應故也。[《詩》,《小雅‧裳裳者華》之篇。以能應變,故左右無不得宜也。Phiên âm: Quân tử năng diệc hảo, bất năng diệc hảo; tiểu nhân năng diệc xú, bất năng diệc xú. Quân tử năng tắc khoan dung dịch trực dĩ khai đạo nhân. Bất năng tắc cung kính tôn truất dĩ úy sự nhân. Tiểu nhân năng tắc cứ ngạo tích vi dĩ kiêu dật nhân. Bất năng tắc đố tật oán phỉ dĩ khuynh phúc nhân. Cố viết: quân tử năng tắc nhân vinh học yên, bất năng tắc nhân lạc cáo chi; tiểu nhân năng tắc nhân tiện học yên, bất năng tắc nhân tu cáo chi. Thị quân tử tiểu nhân chi phân dã. Quân tử khoan nhi bất mạn dữ mạn đồng, đãi nọa dã. Liêm nhi bất quế. Đãn hữu liêm ngung, bất chí ư nhận thương dã.’ Biện nhi bất tranh, sát nhi bất kích. Trực lập nhi bất thắng, kiên cường nhi bất bạo. Nhu tòng nhi bất lưu, cung kính cẩn thận nhi dung. ‘Thi’ viết: ‘Tả chi tả chi, quân tử nghi chi; hữu chi hữu chi, quân tử hữu chi.’ Thử ngôn quân tử dĩ nghĩa khuất tín biến ứng cố dã. ‘Thi’, Tiểu nhã . Thường thường giả hoa chi thiên. Dĩ năng ứng biến, cố tả hữu vô bất đắc nghi dã.
Dịch nghĩa: Người quân tử dù có năng lực hay không thì vẫn tốt lành; kẻ tiểu nhân dù có năng lực hay không thì vẫn xấu xa. Người quân tử có năng lực thì khoan dung, hòa nhã, thẳng thắn, chỉ bảo kẻ khác; không có năng lực thì khiêm cung, ôn tồn, lấy kính sợ mà phục vụ người. Kẻ tiểu nhân có chút năng lực thì kiêu ngạo, bố đời, mà gây họa cho người. Kẻ tiểu nhân không năng lực thì đố kỵ, ganh ghét, vu khống, mà hãm hại người. Thế mới nói: Người quân tử có năng lực, thì được người khác vinh hạnh học hỏi; nếu không có năng lực thì kẻ khác sẽ vui lòng bảo cho. Kẻ tiểu nhân có năng lực thì bị đời khinh thường không thèm theo đòi; đã tiểu nhân lại còn bất tài thì bảo ban nó chỉ thêm nhục mà thôi. Đó là sự khác biệt giữa người quân tử và đứa tiểu nhân vậy. Người quân tử thì độ lượng chứ không kiêu mạn, (但有廉隅,不至於刃傷也 ‘đãn hữu liêm ngung, bất chí ư nhận thương dã’) liêm khiết [sắc nhọn] mà không nguy hại [đâm cắt]; tranh biện nhưng không tước đoạt; thẳng thắn mà không hiếu thắng; kiên cường nhưng không hung bạo; nhu thuận nhưng không dao động; cung kính, cẩn trọng mà không xa cách. Đó là văn đức trọn vẹn vậy. ‘Kinh Thi. Tiểu nhã. Thường thường giả hoa’ viết: “Tả này, tả này, xứng với Quân tử; Hữu đây, hữu đây, thuộc về Quân tử.” Điều đó khẳng định người Quân tử dựa vào ‘nghĩa’ vượt thắng ‘tín’ để ứng biến với mọi đổi thay. Nhờ năng lực thích ứng với mọi biến dịch mà người Quân tử luôn thù thắng ở mọi hướng.
Những thảo luận của Hàn Dũ về bản tính con người chủ yếu được tìm thấy trong bài luận 原性 ‘Nguyên tính’ của ông.19 Bài viết này cố gắng phân tích những hàm ý trong thuyết Tam phẩm tính của Hàn Dũ và vị trí của nó trong lịch sử phát triển toàn diện của Nho giáo về bản tính con người. Bài viết được chia thành ba phần: Thứ nhất, phân tích những hàm ý của học thuyết Tam phẩm tính của Hàn Dũ; Thứ hai, so sánh quan điểm của ông về bản tính con người với quan điểm của Đổng Trọng Thư (197-104 TCN) và Vương Xung (27-97 TCN) để làm rõ sự kế thừa của ông; và Thứ ba, phân tích ảnh hưởng của ông đối với Lý học - Tân Nho giáo thời Tống-Minh về Tính bản thiện vốn có của con người.
I. Hàm ý Tam phẩm tính của Hàn Dũ
Bài luận 原性 ‘Nguyên tính’ của Hàn Dũ chỉ có vài trăm chữ, súc tích và đi thẳng vào vấn đề, được chia thành ba phần. Đoạn đầu thảo luận về ý nghĩa và mối quan hệ giữa ‘Tính’ và ‘Tình’, chủ trương phân loại Tính thành ba cấp độ. Đoạn thứ hai phê phán những cách hiểu trước đây về bản chất con người là 皆舉其中而遺其上下 ‘giai cử kì trung nhi di kì thượng hạ’ chỉ đề cập đến ‘trung’ mà bỏ qua các khía cạnh ‘thượng hạ’. Đoạn cuối trích dẫn lời của Khổng Tử (551-479 TCN) và phê phán những cuộc tranh luận đương đại pha trộn tư tưởng Phật giáo và Đạo giáo về tự nhiên. Đầu tiên, ông định nghĩa ‘Tính’ và ‘Tình’, nêu rõ nội dung của chúng: 性也者,與生俱生也.情也者,接於物而生也.性之品有三,而其所以為性者五.情之品有三,而其所以為情者七.“Tính dã giả, dữ sinh câu sinh dã; tình dã giả, tiếp ư vật nhi sanh dã. Tính chi phẩm hữu tam, nhi kì sở dĩ vi tính giả ngũ. Tình chi phẩm hữu tam, nhi kì sở dĩ vi tình giả thất.” [Tr.308] Tự tính là những gì chúng ta sinh ra đã có. Tình cảm là những gì phát sinh từ sự tiếp xúc với vạn vật. Phẩm tính có ba cấp độ, và năm yếu tố cấu thành tự tính. Tình cảm có ba cấp độ, và bảy yếu tố cấu thành cảm xúc.
Từ đó, Hàn Dũ đã phân tích sâu hơn về Tam tính: 曰性之品有上中下三:上焉者,善焉而已矣;中焉者,可導而上下也;下焉者,惡焉而已矣。其所以為性者五:曰仁,曰禮,曰信,曰義,曰智。上焉者之於五也,主於一而行於四;中焉者之於五也,一不少有焉,則少反焉,其於四也混;下焉者之於五也,反於一而悖於四。Phiên âm: Viết tính chi phẩm hữu thượng trung hạ tam: thượng yên giả, thiện yên nhi dĩ hĩ; trung yên giả, khả đạo nhi thượng hạ dã; hạ yên giả, ác yên nhi dĩ hĩ. Kì sở dĩ vi tính giả ngũ: viết nhân, viết lễ, viết tín, viết nghĩa, viết trí. Thượng yên giả chi ư ngũ dã, chủ ư nhất nhi hành ư tứ; trung yên giả chi ư ngũ dã, nhất bất thiểu hữu yên, tắc thiểu phản yên, kì ư tứ dã hỗn; hạ yên giả chi ư ngũ dã, phản ư nhất nhi bội ư tứ. Dịch nghĩa: Bản tính Thượng đẳng được đặc trưng bởi một đức tính chính yếu đồng thời sở hữu bốn đức tính còn lại; Bản tính Trung đẳng được đặc trưng bởi sự khiếm khuyết hoặc vi phạm nhẹ một đức tính, với bốn đức tính còn lại được sử dụng kết hợp; loại người này có thể được hướng dẫn để cải thiện; Còn Bản tính Hạ đẳng không chỉ vi phạm một đức tính mà còn lệch lạc so với bốn đức tính kia.
_________________________________
(Còn nữa…)
Nguồn: 劉振維 (2009)論韓愈性三品說 在儒學人性論發展史上的蘊義.劉振維,2009年12月,〈論韓愈性三品說在儒學人性論發展史上的蘊義〉,《朝陽人文社會學刊》,7卷2期,頁303-331. Lưu Chấn Duy (2009). Luận Hàn Dũ Tính Tam phẩm thuyết tại Nho học Nhân tính luận Phát triển sử Thượng đích Uẩn nghĩa. 2009 niên12 nguyệt, “Triêu Dương Nhân văn Xã hội học San”, 7 Quyển 2 Kì, Hiệt 303-331.
Ghi chú
*本文為國科會補助民國95年度專題研究計畫部分內容,計畫名稱「『性善』到『性本善』失落環節之研究(II-II)」,計畫編號NSC-95-2411-H-324-001,特此誌之。另感荷兩位匿名審查者賜教與提供之見解。然仍須聲明,本文所論不敢必自以為是,但決可訴諸公論。闡釋缺失與遺漏在所難免,企盼賢友不吝批評指正。
1.蘇軾(1037-1101)認為韓愈是唐代唯一之文章代表,謂:「歐陽公言:『晉無文章,惟陶淵明歸去來詞而已。』余謂唐無文章,惟韓退之送李愿歸盤古序而已。平生欲效此作,每執筆輒罷,因自笑曰:『不若且放,教退之獨步。』」秦觀(1049-1100)云:「鉤莊列之微,挾蘇張之辯,摭遷固之實,獵屈宋之英,本之以詩書,折之以孔氏,此成體之文,如韓愈之所作是也。蓋前之作者多矣,而莫有備於愈;後之作者亦多矣,而無以加於愈。故曰:總而論之,未有如韓愈者也。」《韓昌黎全集》(臺北:新興,1967),第19卷〈送李愿歸盤古〉標題注及「昌黎集敘說」,頁3,312。
2.見,原道;《韓昌黎全集》,第11卷,頁199。馮友蘭說(1985-1990):「韓愈於此,極推尊孟子,以為得孔子之正傳。此為宋明以來之傳統的見解,而韓愈倡之。周秦之際,儒家中孟荀二派並峙。西漢時荀學為盛。僅揚雄對孟子有相當之推崇,此後直至韓愈,無有力之後繼。韓愈一倡,此說大行。而孟子一書,遂為宋明道學家所根據之重要典籍焉。」《中國哲學史》(臺北:臺灣商務,1993),頁802-803。
3.韓昌黎全集,第35,23卷,頁470,357。另《新唐書》謂:「會卒,嫂鄭鞠之。」歐陽修(1007-1072),宋祁(998-1062)撰,《新唐書》,卷176,「韓愈本朝陽人文社會學刊 第七卷第二期 [tr.306]學儒,不俟獎勵」4。「七歲而讀書,十三而能文」5,從儒林推崇古文家獨孤及(725-777),梁肅(753-793)之徒學習6,究心古文,史載「愈自知讀書,日記數千百言,比長,盡能通六經,百家學」7。「及冠,恣為書以傳聖人之道」8,自稱「前古之興亡,未嘗不經於心也,當世之得失,未嘗不留於意也,常以天下之安危在邊」9,而「志欲干霸王」10。可見韓愈無畏環境的困苦與胸懷之壯志。儘管韓愈文采甚佳,然先後參加四次進士考試方得中第,主考官為宰相陸贄(754-805),梁肅,王礎為佐11。但官路不遂,因才高好直言,先後與宦官,權要相抗之故12。任刑部侍郎,於獻宗元和十四年(819)上〈論佛骨表〉,認為佛不問天下國家,不管君臣父子等,反對獻宗迎佛骨之舉。「表入,帝大怒,持示宰相,將抵以死」,幸賴裴度(765-839),崔群(772-832)等力救,貶為潮州刺史13,直聲驚動天下。官至吏部侍郎,長慶四年(824),贈禮部尚書,諡曰文14。韓愈一生以儒學的繼承者與捍衛者自命,嘗云「使其道由愈而粗傳,雖滅死萬萬無恨」15。認為先王道統的中心思想是「仁,義,傳」,頁5255;收於1997年北京中華書局出版《二十四史》,第11-12冊。
4.後晉劉昫(887-946)等撰,《舊唐書》,卷160,「韓愈本傳」,頁4195;收於《二十四史》,第10-11冊。
5.與鳳翔邢尚書;《韓昌黎全集》,第18卷.頁292。
6.《舊唐書》,「韓愈本傳」,頁4195。
7.《新唐書》,「韓愈本傳」,頁5255。
8.皇甫湜 (約 777-730)〈韓文公墓銘〉;《皇甫持正文集》(上海:上海古籍,1994),卷6,頁99。
9.仝注5,頁292-293。
10.詩云「念昔始讀書,志欲干霸王」見〈岳陽樓別竇司直〉一詩;《韓昌黎全集》,第2卷.頁61。
11.卞孝萱,《韓愈評傳》(南京:南京大學,1998),頁539。
12.皇甫湜於〈韓文公墓銘〉中云:「始先生以進士三十有一仕歷官,其為御史,尚書郎,中書舍人,前後三貶,皆以疏陳治事,廷議不隨為罪。」仝注8。
13.仝注7,頁5258-5261。
14.仝注7,頁5264。
15.與孟尚書書;《韓昌黎全集》,第18卷,頁299。
16.原道;《韓昌黎全集》,第11卷,頁196。
17.見《新唐書》卷176贊語,頁5269。此以韓愈上比孟子(372-289B.C.),並謂韓愈所處之世更為艱難,是以過於荀子(313-238B.C.)與揚雄(53B.C.-18A.D.)。
18.韓廷一說:「在中國歷史上,文人之受尊敬者,影響之深遠者,除孔孟之外,已不做第三人想。」《韓昌黎思想研究》(臺北:臺灣商務,1982),頁23。實除孔孟外,影響最大的當屬朱熹,而非韓愈。但韓愈的影響亦是甚大的。
19.《韓昌黎全集》,第11卷,頁199-201。

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét