Powered By Blogger

Thứ Tư, 19 tháng 11, 2025

Luận ngữ Tập giải Nghĩa sớ - Luận ngữ Học nhi Đệ nhất (I)

Hoàng Khản

 

Người dịch: Hà Hữu Nga

 

Hoàng Khản 皇侃 (488-545) là người xứ Ngô Quận (Tô Châu, Giang Tô ngày nay), là hậu duệ đời thứ chín của Hoàng Tường, thái thú Thanh Châu. Ông là một học giả Nho giáo và Kinh điển gia thời Nam Triều, luôn coi Trịnh Huyền là người Thầy lớn của mình. Hoàng Khản học với Hạ Sướng người Hội Kê khi còn trẻ và tinh thông kinh điển, đặc biệt là Tam Lễ, Luận Ngữ, Hiếu Kinh. Ông đã viết các chú giải, bài giảng về Luận Ngữ và Hiếu Kinh, từng làm Quốc tử Trợ giáo, có hàng trăm người tham dự các bài giảng của ông. Về con đường quan lộ, ông đã thăng tiến lên cấp bậc Viên ngoại Tán kỵ Thị lang, và mất năm 545. Nghiên cứu của Hoàng Khản về Kinh Lễ và Luận Ngữ được những người đương thời đánh giá cao. Ông đã viết các tác phẩm như Lễ Ký Giảng Sớ, Luận Ngữ Ý Sớ Ly, Hiếu Kinh Nghĩa Sớ, Ngũ Kinh Dị Đồng Bình. Lễ Ký Nghĩa Sớ vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay. Học thuật của ông phần lớn kế thừa phương pháp chú giải của Trịnh Huyền thời Đông Hán và cũng kết hợp những tư tưởng Huyền học của Vương Bật và Quách Tượng thời Ngụy Tấn để giải thích những điểm chính. Ông đã biên soạn ‘Luận Ngữ Ý Sớ’ gồm mười tập, khác với cách chú giải văn bản truyền thống và nghiên cứu tên gọi và hệ thống, thay vào đó, ông chủ yếu diễn giải kinh điển thông qua lăng kính Huyền học của Lão Tử và Trang Tử. Ví dụ, liên quan đến đoạn văn trong Luận Ngữ: 君子不重則不威,學則不固”,其解曰:“重為輕根,靜為燥本,君子之體,輕不可薄也.” ‘Quân tử bất trọng tắc bất uy, học tắc bất cố’, kì giải viết: ‘Trọng vi khinh căn, tĩnh vi táo bản, quân tử chi thể, khinh bất khả bạc dã.’ ‘Quân tử thiếu trang trọng sẽ không oai nghiêm, học vấn sẽ không vững chắc.’ Điều này được giải thích như sau: ‘Trọng là gốc của nhẹ nhàng, tĩnh là nền của sự khô hanh, bản thể của người quân tử, không thể xem nhẹ vậy.’ Cách lý giải của ông rất khác so với Nho giáo thời Hán, phản ánh phong cách Huyền học Nam Triều. ‘Luận Ngữ Ý Sớ’ của Hoàng Khản đã bị thất lạc vào thời Nam Tống. Vào thời Càn Long nhà Thanh đã được mang về từ Nhật Bản và lưu vào ‘Tứ Khố Toàn Thư’; ngoài ra, một bản khắc còn tồn tại trong ‘Cổ Kinh Giải Hối Hàm’ của nhà Thanh, và đó là bản chú giải kinh điển duy nhất thời Nam Triều còn sót lại.

[Ghi chú về 三禮 Tam Lễ, cụ thể là ‘Nghi lễ’, ‘Chu lễ, và ‘Lễ kí, có nguồn gốc từ Trịnh Huyền thời Đông Hán. Vào đầu thời Tây Hán, ‘Lễ kinh’ ban đầu là một thuật ngữ cụ thể để chỉ ‘Nghi lễ’. Trịnh Huyền thời Đông Hán đã phân kê ‘Nghi lễ’, ‘Chu lễ’, và ‘Lễ kí’ là ‘Tam lễ’, và chú giải chúng, viết thành ‘Tam Lễ chú’. Đến thời Đường, ‘Lễ kinh’ là ‘Tiểu Đái Lễ Kí’, và các thế hệ sau dần dần bắt đầu gọi ‘Lễ kinh’ là ‘Tam lễ’. ‘Lễ kinh’ luôn khó đọc, ngôn ngữ cổ xưa, súc tích, và nổi tiếng là khó hiểu. Ví dụ, kết cấu kiến ​​trúc và kích thước của nhiều cung điện trong ‘Lễ kinh’ thường không được đề cập đến, và nó đã 歷代屢更,漸非其舊 ‘Lịch đại lũ canh, tiệm phi kì cựu’ ‘được sửa đổi nhiều lần qua các triều đại, dần dần lệch lạc so với hình thức ban đầu.’ Do đó, khi khảo cứu Sách Lễ, khi đọc đến Cung thất của Thiên tử và Chư hầu ​​thường dẫn đến việc hình dung ra toàn những lâu đài trên không trung. Vào những năm đầu triều đại Càn Long, Hoàng đế đã hạ chiếu thành lập Tam Lễ Quán, 禮記一書,尚未修纂.又儀禮,周禮二經,學者以無關科舉,多未寓目.‘Lễ kí’ nhất thư, thượng vị tu toản. Hựu ‘Nghi lễ’, ‘Chu lễ’ nhị kinh, học giả dĩ vô quan khoa cử, đa vị ngụ mục.’ “Vì ngay cả một bộ ‘Lễ ký’ thôi mà vẫn chưa được biên soạn. Hơn nữa, hai bộ ‘Nghi lễ’ và ‘Chu lễ’ lại không được nhiều học giả đọc vì chúng không liên quan đến khoa cử.” Mãi đến khi sự cai trị của triều đình nhà Thanh đối với các dị tộc dần ổn định hơn, thì việc củng cố hệ thống lễ nghi mới trở thành một nhiệm vụ cấp bách. Đến năm Càn Long thứ mười chín (1754), ấn bản cuối cùng của  ‘Tam Lễ Nghĩa Sớ’ đã được xuất bản, mất tổng cộng mười chín năm và có thể được coi là một thành tựu to lớn của thời đại. 

Những ghi chép sớm nhất về Tam Lễ có thể được tìm thấy trong Kinh Thư, cụ thể là trong phần về Thuấn Điển: !四岳,有能典朕三禮 ‘Tư! Tứ nhạc, hữu năng điển trẫm Tam lễ.’ ‘Than ôi! Bốn Núi, lấy ai chủ trì Tam Lễ của ta!’ Khổng An Quốc thời Hán ghi chú: 三禮,天地人之禮 ‘Tam lễ, Thiên Địa Nhân chi lễ’ ‘Tam Lễ là Thiên, Địa, Nhân Lễ.’ ‘Tùy thư• Lễ Nghi Chí nhất’ chép: 唐、虞之時,祭天之屬為天禮,祭地之屬為地禮,祭宗廟之屬為人禮。故書雲命伯夷典朕三禮 ‘Đường, Ngu chi thì, tế Thiên chi chúc vi Thiên lễ, tế Địa chi chúc vi Địa lễ, tế Tông miếu chi chúc vi Nhân lễ. Cố thư vân mệnh Bá Di điển trẫm Tam lễ.’ “Vào thời Đường Ngu, tế Trời được gọi là Thiên lễ, tế Đất được gọi là Địa lễ, tế Tông miếu được gọi là Nhân Lễ. Do đó, sách nói rằng Bá Di được chỉ định chủ trì Tam Lễ của ta.” Bì Tích Thụy, trong 經學通論 ‘Kinh Học Thông Luận’, viết: 三禮之名,起於漢末,在漢初但曰禮而已,漢所謂禮,即今十七篇之儀禮,而漢不名儀禮,專主經言,則曰禮經,合記而言,則曰禮記,許慎,盧植所稱禮記,皆即儀禮與篇中之記,非今四十九篇之禮記也,其後禮記之名,為四十九篇之所奪,乃以十七篇之禮經,別稱儀禮,又以周官經為周禮,合稱三禮,蓋以鄭君並注三書,後世盛行鄭注,於是三書有三禮之名 Phiên âm: ‘Tam lễ chi danh, khởi ư Hán mạt, tại Hán sơ đãn viết Lễ nhi dĩ, Hán sở vị lễ tức kim thập thất thiên chi Nghi lễ, nhi Hán bất danh Nghi lễ, chuyên chủ Kinh ngôn, tắc viết Lễ kinh, hợp kí nhi ngôn, tắc viết Lễ kí, Hứa Thận, Lô Thực sở xưng Lễ kí, giai tức nghi lễ dữ thiên trung chi kí, phi kim tứ thập cửu thiên chi Lễ kí dã, kì hậu Lễ kí chi danh, vi tứ thập cửu thiên chi sở đoạt, nãi dĩ thập thất thiên chi Lễ kinh, biệt xưng Nghi lễ, hựu dĩ Chu Quan Kinh vi Chu lễ, hợp xưng Tam lễ, cái dĩ Trịnh Quân tịnh chú Tam Thư, hậu thế thịnh hành Trịnh chú, ư thị Tam thư hữu Tam lễ chi danh’ Dịch nghĩa: “Cái tên ‘Tam lễ’ có nguồn gốc từ cuối thời Hán. Vào đầu thời Hán, nó chỉ được gọi đơn giản là ‘Lễ’.‘Lễ’ được nhắc đến trong thời nhà Hán là bộ mười bảy chương Nghi lễ ngày nay. Tuy nhiên, thời nhà Hán không dùng tên ‘Nghi lễ’, chỉ tập trung vào Kinh ngôn, nên viết là ‘Lễ kinh’, kết hợp với các ghi chép khác, nó được gọi là ‘Lễ ký’. Hứa Thận, Lô Thực gọi là ‘Lễ ký mà từ Hứa Thận và Lô Thực nhắc đến ám chỉ cả ‘Nghi lễ’ và các ghi chép trong các chương đó, chứ không phải ‘Lễ ký’ bốn mươi chín chương ngày nay. Sau này, cái tên ‘Lễ ký’ được phiên bản Bốn Mươi Chín Chương đoạt lấy, nên ‘Lễ kinh’ Mười Bảy Chương được gọi riêng là ‘Nghi lễ’, còn ‘Chu Quan kinh’ được gọi là ‘Chu lễ’, và gọi chung là Tam Lễ. Trong tác phẩm 禮學略 ‘Lễ học Lược thuyết’ ‘Thảo luận ngắn gọn về Lễ học’, Hoàng Khản cho rằng: 禮學所以難治,其故可約:一曰,古書殘缺;一曰,古制茫昧;一曰,古文簡奧;一曰,紛紜Lễ học sở dĩ nan trị, kì cố khả ước thuyết dã: Nhất viết, cổ thư tàn khuyết; Nhất viết, cổ chế mang muội; Nhất viết, cổ văn giản áo; Nhất viết, dị thuyết phân vân.’ ‘Lý do tại sao việc Khảo cứu lễ nghi lại khó khăn có thể tóm tắt như sau: Thứ nhất, Sách cổ không đầy đủ; Thứ hai, Thể chế cổ đại không rõ ràng; Thứ ba, Văn bản cổ đại súc tích sâu xa; và Thứ tư, Có nhiều cách giải thích khác nhau.’

[Ghi chú về Trịnh Huyền (127-200 SCN), tự là Khang Thành, sinh ra ở huyện Cao Mật, quận Bắc Hải, vào năm thứ hai niên hiệu Vĩnh Kiến đời Thuận Đế, nhà Đông Hán. Cổ thành này nằm ở phía tây nam huyện Cao Mật, tỉnh Sơn Đông ngày nay. Năm mười tám tuổi (144), ông nhậm 嗇夫 Hương Sắc Phu một chức tiểu lại ở hương trấn, nhưng vì ham mê học hành nên không thích làm quan. Trong những ngày nghỉ, ông thường xuyên đến trường học hỏi các thầy, bỏ bê việc nhà và bị cha mẹ khiển trách. Bất chấp hoàn cảnh khó khăn, trí thông minh và ý chí kiên định đã giúp ông học hành uyên bác và thành thạo lục nghệ, đặc biệt là tính toán lịch pháp và số học trước tuổi hai mươi.

[Ghi chú Hương Sắc Phu 嗇夫 là tên của một quan chức cấp hương trấn ở Trung Quốc cổ đại, chủ yếu chịu trách nhiệm canh tác, quản lý thuế và lao động, cũng như hòa giải tư pháp ở cấp thôn làng. Chức vụ chính thức này tiếp tục hệ thống nhà Tần vào thời nhà Hán. Là một quan chức chính thức, Hương Sắc Phu có con dấu chính thức và thành lập một hệ thống quản lý cơ sở với Hương Tá, Hương Hữu Trật. Họ có quyền tư pháp để hòa giải các tranh chấp, kiểm kê dân số, đất đai, chủ trì việc thiết lập ranh giới ruộng đất, giám sát việc thực hiện ‘Điền luật’ ‘Luật ruộng đất’ và quản lý việc phân bổ lương thực; tổng hợp dữ liệu thuế, ký và báo cáo cho Huyện đình phán quyết. Trong hệ thống quan chức làng của nhà Hán, Hương Sắc Phu, Hương Tá, và Hương Hữu Trật đã hình thành một hệ thống phân công trách nhiệm quản lý. Ở khía cạnh tư pháp, Hương Sắc Phu chủ trì việc điều tra các vụ án và lập văn bản làm cơ sở cho phán quyết của Huyện đình. Vào đầu thời Tây Hán, chế độ quan lại và quản lý làng xã được hình thành. Đến thời Hán Vũ Đế, sự xuất hiện của hệ thống quan chức và thư lại đã dẫn đến sự suy yếu chức năng của họ. Sự xuất hiện của các quan lại như Khuyến nông duyện (duyện: Phó quan) vào thời Đông Hán đã phản ánh những thay đổi trong chế độ hương xã.

[Ghi chú Hương Tá là một quan lại cấp cơ sở trong hệ thống hành chính cấp Hương trấn ở Trung Quốc cổ đại. Chức vụ này được thành lập lần đầu tiên vào thời Tần và thời Hán và tiếp tục cho đến thời Nam Triều. Là phó quan của Hương Sắc Phu, trách nhiệm chính của họ bao gồm hỗ trợ xử lý các công việc của Hương trấn, thu thuế và tham gia hòa giải các tranh chấp dân sự. Theo ghi chép trong sách 尹灣漢簡 Doãn Loan Hán giản và sách 敦煌懸泉漢簡 Đôn Hoàng Huyền Tuyền Trí Hán giản, Hương tá thuộc hàng ‘đấu thực’, tức là các quan lại cấp thấp, và cùng với hệ thống Hữu Trật, Du Kiếu và Tam Lão tạo thành hệ thống hành chính Hương trấn.  Sách ‘Hậu Hán thư’ thời Đông Hán đã ghi lại những trường hợp cụ thể về việc Hương tá tham gia vào các tranh chấp dân sự, phản ánh chức năng thực tế của họ trong việc quản lý cơ sở.

Hữu Trật 有秩 Hữu Trật Lại 有秩: là một chức quan hành chính cơ sở được thành lập vào thời nhà Tần và nhà Hán. Nhà Hán tuân theo chế độ nhà Tần và quy định rằng một hương trấn có hơn 5.000 hộ gia đình phải có chức vụ này. Trách nhiệm chính của chức vụ này bao gồm xử lý các vụ kiện, thu thuế, và các công việc quản lý hành chính khác. Phẩm cấp lương bổng của Hữu Trật là 100 thạch thóc và được cơ quan cấp huyện trực tiếp bổ nhiệm. Dưới chế độ hành chính quận huyện, hương trấn được ghi lại trong ‘Hậu Hán Thư • Bách Quan Chí Ngũ’ thì Hữu Trật cùng với Tam Lão và Du Kiếu tạo thành cơ cấu quản lý cấp hương. Trong hệ thống hành chính cơ sở được thành lập vào thời nhà Tần và nhà Hán, Hữu Trật, với tư cách là quan cấp hương trấn, đã đảm nhận các chức năng quản lý cốt lõi. Nguồn gốc của quan danh này có thể từ chế độ huyện và thị trấn của nhà Tần. Sau khi thành lập nhà Hán, nó đã được đưa vào hệ thống quan liêu chính thức. Sách 史記範雎蔡澤列傳‘Sử KýPhạm Sư Thái Trạch Liệt Truyện’ có đề cập đến 自秩以上至諸大吏 ‘tự trật dĩ thượng chí chư đại lại’ ‘từ cấp Trật đến các Đại quan’, điều này khẳng định vị thế cơ bản của chức vụ này trong hệ thống quan lại. Hữu Trật Lại’ là một quan danh lập ra trong thời Chiến Quốc và tồn tại đến đời Tần Hán, được hưởng bổng lộc từ 100 thạch thóc trở lên. Nó xuất hiện lần đầu tiên trong ghi chép về 初為縣有秩史() ‘Sơ vi huyện hữu trật lại (sử)’ khi Thương Ưởng cải cách và thực hiện chế độ quận huyện. Nhà Tần chia quan lại thành hai cấp: Hữu Trật Lại’ (bổng lộc 100 thạch thóc trở lên) và ‘Đẩu Thực’ (bổng lộc 100 thạch thóc trở xuống). Nhà Hán kế thừa chế độ nhà Tần và cũng áp dụng tiêu chuẩn phân loại này. Mức lương của họ dao động từ 100 thạch đến 300 thạch, và họ là những quan lại chính thức cấp trung và cấp thấp, được đãi ngộ bằng cách bố trí đầu bếp, xe cộ và các phúc lợi khác. Tuy nhiên đến thời Hán Vũ Đế nhà Tây Hán, các chức danh và cấp bậc của các quan chức liên quan đến Hữu Trật Lại đã thay đổi, phản ánh những thay đổi so với hệ thống hành chính nhà Tần. HHN] 

[Ghi chú về 遊徼 Du kiếu: Một chức quan cấp hương trấn dưới thời Tần Hán. Chịu trách nhiệm tuần tra và kiểm soát trộm cắp. Được thành lập vào thời Tần, chức quan này được duy trì phần lớn từ thời Hán đến Nam Bắc triều, nhưng sau đó đã bị bãi bỏ. Sách ‘Hán Thư• Bách Quan Công Khanh Biểu Thượng’ 漢書•百官公卿表上 ghi: 十亭一,有三老,有秩, 嗇夫,遊徼…遊徼徼循禁賊盜 ‘Thập đình nhất hương, hương hữu tam lão, hữu trật, sắc phu, Du kiếu… Du kiếu kiếu tuần cấm tặc đạo.’ Mười Đình tạo thành một Hương, mỗi Hương có Tam lão, Hữu trật, Phú phu, Du kiếuDu kiếu tuần tra và ngăn chặn trộm cắp.’ Sách東觀漢記.鄭均傳 ‘Đông Quan Hán Ký . Trịnh Quân Truyện’: 兄仲為縣遊徼,頗受禮遺,數諦 ‘Huynh Trọng vi huyện Du kiếu, pha thụ lễ di, quân ​​ sổ đế’. Sách ‘Đông Quan Hán ký, Trịnh Quân truyện’ ghi: ‘Anh trai ông là Trọng làm Du kiếu trong huyện, được nhiều lễ vật; Quân nhiều lần phản đối.’ Vân Kính thời Thanh viết trong Sách三代因革論七. 漢曰三老,,曰遊徼,皆賜爵同於遂之官.Tam đại nhân cách luận thất. Hán viết Tam lão, viết Sắc phu, viết Du kiếu, giai tứ tước đồng ư hương toại chi quan. Luận về biến động thời Tam đại, mục bảy. Thời nhà Hán có Tam lão, có Sắc phu, có Du kiểu, tất cả đều được phong quan tước ngang bằng ở hương thôn. Bài dân ca cổ ‘Lưu Thánh Công túy ca’ dẫn ‘Lưu Huyền truyện’ trong Hậu Hán thư, học giả thời Đường là Lý Hiền chú: 續漢書:時聖公聚客,家有酒,請遊徼飲,賓客醉歌,:朝亨兩都尉,遊徼後來,用調羹味.‘Tục Hán Thư’ viết: Thì Thánh Công tụ khách, gia hữu tửu, thỉnh Du kiếu ẩm, tân khách túy ca, ngôn: ‘Triêu Hanh lưỡng Đô úy, Du kiếu hậu lai, dụng điều canh vị’ Sách ‘Tục Hán thư’ kể: ‘Lúc đó, Lưu Thánh Công đãi khách, gia đình bày rượu, và ông mời Du kiếu [Quan tuần tra] đến uống. Khách say xỉn, hát: ‘Triêu Hanh hai Đô úy, Quan tuần được mời sau, chỉ còn canh để húp’. Hậu Hán thư sử dụng từ ‘Du kiếu’. Sách 地方自治博議 ‘Địa phương Tự trị bác nghị’ ‘Thảo luận về Tự trị địa phương’ của Mính Tôn viết: 又漢制:十里一亭,亭有長;十亭一鄉,鄉有三老,有嗇夫,遊徼 ‘Hựu Hán chế: Thập lí nhất đình, đình hữu trưởng; thập đình nhất hương, hương hữu Tam lão, hữu Sắc phu, Du kiếu’ ‘Cũng như chế độ nhà Hán: Cứ mười dặm là một Đình, mỗi Đình có một Đình trưởng; mười Đình thành một Hương, mỗi Hương có Tam lão, Sắc phu, và Du kiếu.’ [Ghi chú về Thánh Công Hán Canh Thủy Đế, Lưu Huyền (?-25 tháng 10 SCN), tự là Thánh Công, người huyện Thái Dương, quận Nam Dương (phía tây nam thành phố Tảo Dương, tỉnh Hồ Bắc ngày nay). Ông là hoàng đế của chế độ Canh Thủy, được Lục Lâm Quân dựng lên trong thời kỳ chuyển giao giữa hai triều đại Tây Hán và Đông Hán. Lưu Huyền vốn là thành viên của hoàng tộc Tây Hán, hậu duệ của Hán Cảnh Đế (Lưu Kỳ) và là em họ của Quang Vũ Đế Lưu Tú, có chung ông cố là Lưu Mãi, và ông nội là Lưu Lợi, Thái thú Thương Ngô. Cha ông là Lưu Tử Trương, mẹ là Hà thị. HHN] 

[Ghi chú 懸泉置漢簡 Huyền Tuyền Trí Hán giản: Thẻ tre thời Hán ở Dịch Trạm Huyền Tuyền là thẻ tre và gỗ thời Hán được khai quật tại di chỉ Dịch Trạm Huyền Tuyền ở thành phố Đôn Hoàng, tỉnh Cam Túc, Trung Quốc, và hiện được lưu giữ tại Bảo tàng Thẻ tre và gỗ Cam Túc. Từ tháng 10 năm 1990 đến tháng 12 năm 1992, Viện Di tích Văn hóa và Khảo cổ học tỉnh Cam Túc đã khai quật di chỉ Dịch Trạm Huyền Tuyền gần 甜水井 Điềm Thủy Tỉnh ở thị trấn Mạc Cao, thành phố Đôn Hoàng. Dịch Trạm Huyền Tuyền là một Dịch trạm quan trọng trên Con đường Tơ lụa cổ đại, nằm ở huyện Hiệu Cốc, Quận Đôn Hoàng, cách thành phố khoảng 64 km về phía đông. Nhà Hán đã tiếp tục phát triển mạng lưới bưu chính toàn quốc do Hoàng đế đầu tiên của nhà Tần thiết lập, củng cố mạng lưới bưu chính biên giới. Việc truyền đạt thông tin nhanh chóng trở nên thiết yếu trong việc chống lại quân Hung Nô vốn rất cơ động. Mạng lưới dịch trạm được hình thành bằng cách thiết lập nhiều trạm và việc chuyển tiếp tin tức giữa các trạm. Các trạm dịch trạm cung cấp chỗ ở và bữa ăn cho khách và thương nhân bình thường, được sử dụng để tiếp đón các quan chức cấp cao và sứ thần nước ngoài, truyền đạt tài liệu quân sự, v.v. Huyền Tuyền Chi được cho là đã được thành lập trong chuyến viễn chinh Đại Nguyên của tướng Lý Quảng Lợi vào năm 101 TCN. Các nhà khảo cổ đã phát hiện khoảng 35.000 thẻ tre và gỗ trong sân (một sân của công trình phòng thủ cổ đại) và hố tro (một hố đổ rác cổ đại), trong đó khoảng 23.000 thẻ có khắc chữ. Có 1.900 mảnh tre và gỗ ghi niên đại, trải dài từ năm Nguyên Định thứ sáu của Hoàng đế Vũ Đế nhà Tây Hán (năm 111 TCN) đến năm Vĩnh Sở thứ nhất của Hoàng đế An Đế nhà Đông Hán (năm 107 SCN). Nội dung của những mảnh tre và gỗ này bao gồm các chiếu chỉ của triều đình, công văn, luật lệ, văn bản tư pháp, sổ sách kế toán, thư từ riêng và văn bản cổ.

[Ghi chú 尹灣漢簡 Doãn Loan Hán giản: Sách Thẻ tre Doãn Loan là một nhóm thẻ tre được khai quật vào tháng 2 năm 1993 từ Lăng số 6 của triều đại Tây Hán tại làng Doãn Loan, huyện Đông Hải, thành phố Liên Vân Cảng, tỉnh Giang Tô. Tổng cộng có 133 thẻ tre và 23 thẻ gỗ được tìm thấy, với tổng số hơn 40.000 chữ. Chủ  mộ thuộc thời Thành Đế nhà Tây Hán, là Công Tào Sử quận Đông Hải tên là Sư Nhiêu. 功曹史Công Tào Sử là một quan danh thời nhà Hán, có chức năng 選署功勞 ‘tuyển thự công lao’ ‘tuyển chọn người có công năng’, cụ thể là đánh giá năng lực của các quan. Chức danh này đã phá vỡ thông lệ 掾為長史次之 ‘Duyện vi trưởng, Sử thứ chi’ ‘Phó làm Trưởng, Trưởng làm thuộc hạ’, áp dụng một chế độ độc đáo 僅設功曹史而不另置掾 ‘cận thiết công tào sử nhi bất lánh trí duyện’ ‘chỉ bổ nhiệm Công Tào Sử, không bổ nhiệm Duyện’. Cấp bậc chức danh quyết định bậc bổng lộc; quan chức dưới quyền trung ương có thể hưởng lương bổng từ 300 đến 400 thạch thóc, trong khi Công Tào Sử dưới quyền huyện thường có lương bổng dưới 100 thạch. Việc bổ nhiệm và sa thải họ do Trưởng quan quyết định.]

 

Năm thứ hai niên hiệu Kiến Hòa đời vua Hoàn Đế (148 SCN), Đỗ Mật, tướng quản Bắc Hải, rất coi trọng Trịnh Huyền và chuyển ông đến quận Bắc Hải, đồng thời hỗ trợ cho ông ra ngoài đi học thêm. Ông đã đến thăm học giả khắp các châu U, Tịnh, Dự, Duyện, và sau đó học tại Thái học ở Lạc Dương. Ông đã học Kinh Thị Dịch, Xuân Thu Công Dương Truyện, Tam Thống Lịch và Cửu chương Toán thuật với Bác sĩ Ngũ Nguyên Tiên, và học Chu Lễ, Lễ Ký, Tả Truyện, Hà Thi và Cổ Văn Thượng Thư  với Bác sĩ Trương Cung Tổ. Thấy Sơn Đông không đủ cho việc học của mình, ông đã đi về phía tây đến Quan Trung để học với Mã Dung. Mã Dung có hơn bốn trăm đệ tử, trong đó có hơn năm mươi người thành thục đạt đến trình độ cao nhất. Mã Dung giữ một vị trí học thuật cực cao và có nhiều đệ tử. Trịnh Huyền cũng nằm trong số đó, nhưng trong ba năm, ông không được phép gặp Thầy, mà chỉ nhận được sự hướng dẫn gián tiếp từ các học viên cao cấp; tuy nhiên, ông đã học tập chăm chỉ ngày đêm mà không bao giờ lơ là.

 

Một lần, Mã Dung đã tập hợp một nhóm đệ tử giỏi nhất của mình để thảo luận về thiên văn học và việc tính toán lịch pháp gặp phải khó khăn. Nghe nói về tài tính toán của Trịnh Huyền, Sư phụ mời ông lên tầng trên. Cuối cùng Trịnh Huyền cũng có cơ hội chất vấn và thách thức người khác. Sau khi tất cả những câu hỏi chất chứa trong lòng đã được giải đáp, ông cáo từ trở về nhà. Mã Dung, phát hiện ra tri ​​thức uyên thâm của ông, thốt lên vừa ngạc nhiên vừa tiếc nuối: 鄭生今去,吾道東矣Trịnh sinh kim khứ, ngô đạo đông hĩ ‘Học giả họ Trịnh đã đi rồi, con đường của ta giờ hướng Đông vậy.’ Lúc này, Trịnh Huyền đã bốn mươi tuổi. Ông đã miệt mài học hành hơn mười năm, cuối cùng cũng hoàn thành xuất sắc việc học hành. Năm Vĩnh Khang Nguyên niên (167) thời Hán Hoàn Đế, Trịnh Huyền trở về quê. Vì cha mẹ đã già yếu, gia đình lại nghèo khó, ông thuê một mảnh đất dưới chân núi Lao Sơn ở huyện Tức Mặc, dẫn dắt khoảng 1000 học trò, canh tác ruộng đất và dạy học để nuôi cha mẹ. Dưới thời Tây Bình Hán Linh Đế, hoạn quan chuyên quyền đã vu cáo Lý Ưng, Đỗ Mật và những người khác về việc thành lập bè phái. Bất cứ ai liên quan đến những cá nhân này đều bị cách chức hoặc bị bỏ tù - đó được gọi là黨錮之禍 ‘đảng cố chi họa’ ‘Họa Cấm Đảng Phái’.

 

[Ghi chú 黨錮之禍 Đảng cố chi họa: Họa Cấm Đảng đề cập đến những cuộc đấu tranh phe phái xảy ra dưới triều đại của  Hoàng đế Hán Hoàn Công và Hoàng đế Hán Linh Công của nhà Đông Hán ở Trung Quốc, khi các quan lại sĩ phu và quý tộc, bất mãn với sự lộng quyền của hoạn quan đối với chính sự, đã tham gia vào cuộc xung đột phe phái với bè lũ Hoạn quan. Sự kiện này được đặt tên theo tập tục của hoạn quan là 終生禁止仕官chung sinh cấm chỉ sĩ quan’ giam cầm sĩ phu, quan lại suốt đời với cáo buộc là ‘đảng nhân’ một thuật ngữ dùng để chỉ các thành viên của một phe phái chính trị. Sự kiện này đã xảy ra hai lần. Họa Cấm Đảng Phái kết thúc với việc các hoạn quan gần như xóa sổ phe phái sĩ phu. Hầu hết các quan điểm đương thời, và các sử gia sau này, đều đồng cảm với phe phái sĩ phu, tin rằng sự đàn áp học giả của hoạn quan đã làm tổn hại đến nền tảng của triều đình và báo trước cuộc Khởi nghĩa Khăn Vàng và cuối cùng là sự sụp đổ của nhà Hán. Trịnh Huyền cũng đã bị cấm cố cùng với hơn bốn mươi người khác, bao gồm cả Tôn Tung, và việc đi lại của ông bị hạn chế.  Trong hơn mười năm bị giam cầm, ông ẩn mình trong nhà, chuyên tâm viết lách và hoàn thành cuốn ‘Tam Lễ Chú’.

 

Năm đầu tiên của triều đại Linh Đế (năm 184), Họa Cấm Đảng được bãi bỏ, và hàng ngàn học giả từ khắp nơi đến học tập dưới sự chỉ dạy của Trịnh Huyền. Triều đình và chính quyền nhiều lần triệu ông tham gia quan trường, nhưng ông từ chối tất cả, tiếp tục công việc giảng dạy và viết lách. Năm Trung Bình thứ năm, ông sáu mươi hai tuổi, cuộc khởi nghĩa Khăn Vàng bùng nổ và họ chiếm được quận Bắc Hải, Huyền đã dẫn môn đồ đến ẩn náu tại núi Bất Kỳ, cách huyện Tức Mặc 20 dặm về phía đông nam. Trong ba năm này, ông đã hoàn thành các bài bình luận về ‘Cổ văn Thượng thư chú’. ‘Mao Thi chú’, ‘Luận Ngữ chú’. Năm Sơ Bình thứ nhất thời Hán Hiến Đế (190), quân Khăn Vàng chạy đi nơi khác, và Huyền trở về quê. Tướng Khổng Dung, trị nhậm Bắc Hải, đã kính cẩn viếng thăm ông và thậm chí còn lập cho ông một hương trấn đặc biệt ở huyện Cao Mật, đặt tên là Trịnh Công Hương. Ông cũng cho mở cổng chính cho xe ngựa của các quan chức cao cấp đi qua, gọi là Thông Đức Môn, để thể hiện sự tôn trọng đặc biệt đối với Trịnh Huyền. Năm sau, hơn 200.000 quân Khăn Vàng trở về Bắc Hải. Khổng Dung bị đánh bại, và Trịnh Huyền phải chạy đến Từ Châu để thoát khỏi cảnh hỗn loạn. Thứ sử Từ Châu, Đào Khiêm, cũng đã đối xử kính trọng với ông như một người thầy và một người bạn. Năm 194, Đào Khiêm qua đời vì bệnh, và Lưu Bị, làm Bình Nguyên tướng, kế vị Khiêm làm Thứ sử Từ Châu, đối xử với Huyền nhất mực tôn kính như một người thầy và thường xuyên tham vấn về chiến lược trị quốc.

Năm 196, vùng Bắc Hải dần bình định. Theo lời thúc giục của Khổng Dung, Trịnh Huyền rời Từ Châu trở về Cao Mật. Trên đường đi, ông chạm trán với hàng vạn quân Khăn Vàng phản loạn. Khi nhìn thấy ông, tất cả đều cúi đầu và thề sẽ không động đến quê hương ông. Khổng Dung rất kính trọng ông, ra lệnh cho thuộc hạ gọi ông là ‘Trịnh Quân’ và không được gọi bằng tên, để tỏ lòng tôn kính. Sau đó, Khổng Dung bị Viên Đàm, con trai của Viên Thiệu, bao vây. Trịnh Huyền lệnh cho con trai duy nhất của mình là Trịnh Ích Ân dẫn quân đến cứu viện, nhưng Ích Ân bị áp đảo về số lượng và tử trận. Năm 196, Viên Thiệu và Tào Tháo đã có một trận quyết chiến tại Quan Độ. Vì danh tiếng của Trịnh Huyền, Thiệu muốn lợi dụng ông để gia tăng ảnh hưởng, nên đã nhất quyết đưa Huyền đến doanh trại và buộc ông hành quân cùng quân đội. Trịnh Huyền miễn cưỡng phải đi, dù đang bị bệnh, nhưng khi đến huyện Nguyên Thành, bệnh tình trở nặng, ông phải ở lại thành. Ngay cả trong lúc bệnh tật, ông vẫn soạn thảo chin tập chú giải về Chu Dịch. Ông mất vào tháng 6 năm đó, thọ 74 tuổi. Ban đầu, ông được chôn cất ở phía đông Kịch Huyện, tỉnh Sơn Đông, nhưng sau đó được chuyển đến Nhạn Phụ, phía tây huyện Cao Mật. Hơn một ngàn đệ tử của ông đã đến viếng.

 

Trịnh Huyền dành cả cuộc đời cho học vấn, vẫn kiên định trong cảnh nghèo khó. Sau tuổi bốn mươi, ông dạy học và chuyên tâm vào việc khảo cứu, soạn sách. Nhiều nhân vật quyền thế đã tiến cử ông vào các chức vụ quan trọng, và một số người được giới thiệu cùng thời đã lên đến chức vụ cao chỉ trong vòng vài tháng. Tuy nhiên, ông vẫn không bị tiền tài và quyền lực mua chuộc, và không khuất phục trước quyền thế. Trịnh Huyền là một người 學不厭,教不倦 học bất yếm, giáo bất quyện học không biết chán, dạy không biết mệt. 學而不厭,誨人不倦:‘學而不厭,誨人不倦’,意思是指學習而不覺滿足,教誨別人而不知疲倦,語出論語·述而học nhi bất yếm, hối nhân bất quyện ‘Luận ngữ• Thuật nhi’: “‘Học nhi bất yếm, hối nhân bất quyện’, ý tư thị chỉ học tập nhi bất giác mãn túc, giáo hối biệt nhân nhi bất tri bì quyện, ngữ xuất ‘Luận ngữ • Thuật nhi’. Câu nói “Học không biết chán, dạy không biết mệt” có nguồn gốc từ sách ‘Luận ngữ • Thuật nhi’ của Khổng Tử, Quyển 1, Chương 2. Dù gia cảnh nghèo khó, bệnh tật, ông vẫn tiếp tục siêng năng khảo cứu, viết lách, từ bỏ mọi của cải và danh vọng trần tục để tập trung vào công việc học thuật và giảng dạy cho khoảng mười ngàn học trò. Theo sách新語 ‘Thế thuyết Tân ngữ’, ngay cả những người hầu gái trong nhà Huyền, dưới sự dạy dỗ của ông, cũng rất giỏi thơ ca và văn chương, chứng tỏ tài năng đáng nể của ông trong việc bồi dưỡng nhân tài. Các tác phẩm nghiên cứu kinh điển của Trịnh Huyền bao gồm: ‘Chu Dịch chú’ chín quyển, ‘Thượng Thư chú’ chín quyển, ‘Mao Thi Tiên’ hai mươi quyển, ‘Mao Thi Phổ ba quyển, ‘Chu Lễ Chú’ mười hai quyển, ‘Nghi Lễ Chú’ mười bảy quyển, ‘Lễ Ký Chú’ hai mươi quyển. ‘Xuân Thu Tả Thị Truyện’ gồm nhiều tập (chưa hoàn thành), ‘Hiếu Kinh Chú’ một quyển, ‘Luận Ngữ Chú’ mười quyển, ‘Mạnh Tử Chú’ bảy quyển,  ‘Bác Ngũ Kinh Dị Nghĩa’ một quyển, ‘Lục Nghệ Luận’ một quyển, cùng hàng chục quyển khác. Chuyên môn của ông đặc biệt nằm ở việc nghiên cứu các nghi lễ.

 

Vào thời nhà Hán, mười bảy chương của ‘Nghi Lễ’ chỉ có lời giải thích của thầy, không có chú thích. Mã Dung chỉ chú thích chương ‘Tang Phục’, và chính Trịnh Huyền đã đưa ra lời chú thích cho tất cả mười bảy chương của ‘Nghi Lễ’. Mặc dù ‘Chu Lễ’ có chú thích của Đỗ Tử Xuân, Trịnh Hưng, Trịnh Chúng, Cổ Qùy và Mã Dung, nhưng Trịnh Huyền đã có thể dung hòa những lời giải thích khác nhau này và thiết lập học phái độc đáo của riêng mình. ‘Tiểu Đái Lễ Ký’, gồm bốn mươi chín chương, không có lời chú giải nào khác cho đến khi Trịnh Huyền cung cấp các chú giải toàn diện. Nếu không có các chú giải của ông, thì những tác phẩm kinh điển này có thể đã bị thất lạc. Kể cả khi chúng không bị thất lạc, thì việc thiếu chú giải đồng nghĩa với việc không ai có thể hiểu đầy đủ về chúng. Hơn nữa, ông, cùng với Thúc Tôn Tuyên, Quách Lệnh Khanh và Mã Dung, mỗi người đã đóng góp hàng trăm nghìn lời chú giải cho bộ ‘Hán Luật’, một kho tàng luật hình sự cổ xưa của Trung Quốc, bao gồm hơn chín trăm tập. Dưới triều đại của Ngụy Minh Đế, khi luật pháp được xem xét lại, Hoàng đế đã ban sắc lệnh bãi bỏ tất cả các chú giải khác và bắt buộc chỉ sử dụng độc quyền các diễn giải của Trịnh Huyền. Điều này chứng tỏ kiến ​​thức sâu rộng về luật pháp của ông.

 

Thời Lưỡng Hán, kinh điển Nho giáo chia thành hai học phái: Cựu văn và Kim văn, liên tục công kích lẫn nhau, sự cạnh tranh giữa họ gay gắt hệt như nước và lửa vậy. Vào thời Tây Hán, Kim văn đạt được vị thế thống trị, trong khi các học giả của Cựu văn chỉ có thể truyền thụ riêng cho dân thường. Nhóm học giả Nho giáo cấp thấp này đã hình thành bè phái và công kích những người bất đồng chính kiến, chỉ tập trung vào các tranh chấp phe phái và bỏ qua tri thức học lý. Riêng Trịnh Huyền lại sung thượng chân lý, khiêm tốn học tập và khảo cứu, không bị thành kiến chi phối. Ban đầu, ông khảo cứu các kinh điển Tân văn như  ‘Kinh Thị Dịch’,  ‘Công Dương Xuân Thu’, ‘Hàn Thi’ dưới sự hướng dẫn của các học giả Tân văn, sau đó nghiên cứu các kinh điển Cựu văn.

 

Tuy nhiên, ông chú thích Cổ văn Tả Truyện, chứ không phải Kim văn của Công Dương Truyện; ông chú thích Cổ văn của Mao Thi, chứ không phải Kim văn của Hàn Thi; ông sử dụng Cổ văn trong chú thích của mình về Thượng Thư, nhưng cũng tiếp thu các học thuyết của phái Kim văn. Chú thích của ông về Kinh Thi, mặc dù chủ yếu dựa trên Mao Thi, nhưng cũng kết hợp các học thuyết của Tam gia phái Tề, Lỗ và Hàn; chú giải ‘Nghi Lễ’ của ông sử dụng cả Kim văn và Cổ văn, nếu sử dụng Cổ văn thì chú giải ghi rõ Kim văn, còn nếu sử dụng Kim văn thì chú giải ghi rõ chú Cổ văn; chú giải của ông về ‘Luận Ngữ’ cũng kết hợp thế mạnh của phái Tề Luận, Cổ luận Tam gia. Kiến thức sâu rộng của ông về cả Cổ văn và Kim văn, cùng với tinh thần khách quan và cầu thị, đã thực sự mở ra một thế giới mới cho các nghiên cứu Kinh điển sau này.

 

Trong thời trị vì của Hán Hiến Đế, sau khi vị đại thần quyền lực Đổng Trác bị xử tử, những người theo ông còn lại là Lý Quyết, Quách Tỷ tiếp tục kiểm soát triều đình. Đào Khiêm, Thứ sử Từ Châu, cùng với Chu Can, cựu Thứ sử Dương Châu, Âm Đức tướng Lang Nha, Lưu Quỳ tướng Đông Hải, Cấp Liêm tướng Bành Thành, Khổng Dung tướng Bắc Hải, Viên Trung tướng Bái, Ứng Thiệu Thái thú Thái Sơn, Nhữ Nam Thái thú Từ Cầu, Tiền Cửu Giang Thái thú Phục Kiền, Bác sĩ Trịnh Huyền, đã cùng nhau phong cho Xa kị Tướng quân Chu Tuấn làm Thái sư, phát hịch kêu gọi các địa phương thảo phạt Lý Quyết, tôn vinh Hiến Đế. Tuy nhiên, Chu Tuấn chấp nhận lệnh triệu tập của Lý Quyết quay về triều đình, vì vậy Đào Khiêm cùng những người khác phải từ bỏ.

 

Vào năm Kiến An thứ ba (198), Hán Hiến Đế triệu Trịnh Huyền đến làm Đại Tư Nông, Trịnh Huyền chấp nhận bổ nhiệm nhưng không nhậm chức. Vì vậy, ông còn được gọi là Trịnh Tư Nông (nhưng Trịnh Tư Nông trong các sách chú giải kinh điển chủ yếu ám chỉ Trịnh Chúng, một học giả kinh điển và là Đại thần Nông nghiệp đầu thời Đông Hán). Mùa xuân năm Kiến An thứ năm (năm 200 SCN), ông mơ thấy Khổng Tử nói với ông: ,,今年在辰,來年在巳. ‘Khởi, khởi, kim niên tuế tại thần, lai niên tuế tại tị.’ ‘Dậy đi, dậy đi, năm nay là năm Thìn, năm sau là năm Tị.’ Trong trận Quan Độ, ông bị Viên Thiệu ép theo quân đội, lâm bệnh nặng ở Nguyên Thành (nay là huyện Đại Minh, tỉnh Hà Bắc) và qua đời vào tháng 6.

 

[Ghi chú Đại Tư Nông大司農 Đại thần Nông nghiệp phụ trách tài chính quốc gia. Dưới thời Hán Cảnh Đế, chức danh này được đổi thành Đại Nông Lệnh, đến thời Hán Vũ Đế, chức danh này lại được đổi thành Đại Tư Nông. Đây là một trong Cửu Khanh, Chín Thượng thư  của nhà Hán. Các quan chức cấp dưới của chức này bao gồm năm đơn vị, mỗi đơn vị có một Nhất lệnh và một Nhất thừa. Trong đó, 太倉 Thái thương phụ trách việc dự trữ gạo và ngũ cốc, 均輸 Quân thâu phụ trách việc cung cấp vật tư, 平準 Bình chuẩn phụ trách việc điều tiết hàng hóa, Đô nội phụ trách Quốc khố, còn 籍田皇 Tịch Điền Hoàng phụ trách việc canh tác của cá nhân Hoàng đế. Ngoài ra, các độc quyền muối và sắt mới được Hán Vũ Đế thành lập cũng nằm dưới sự quản lý của Đại Tư Nông. Vương Tư Hoành, Đại Tư Nông thời Tào Ngụy, đã xây dựng một 水碓 ‘thủy đối’ cối xay nước và được miễn trở về ruộng của mình.[1] Trong thời kỳ nhà Ngụy, nhà Tấn và Nam Bắc triều, chức danh này được đổi tên thành Đại thần Nông nghiệp. Đây là một chức danh chính thức ở Trung Quốc cổ đại. Dưới thời nhà Tần, có chức Đại thần quản lý lương thực. Trong các triều đại khác nhau, Đại thần quản lý nông nghiệp cũng được lập ra để quản lý các vấn đề tài chính. Chức vụ này giữ một vị trí quan trọng. Dưới thời Bắc Ngụy, Đại thần quản lý kho thóc được lập ra để chia sẻ quyền lực với Đại thần quản lý nông nghiệp. Sau đó, Đại thần quản lý nông nghiệp chỉ quản lý các đơn vị quản lý vải vóc và thuế má. Sau thời Tùy, chức vụ này được đổi thành Đại thần quản lý nông nghiệp. Dưới thời Nguyên, Đại thần quản lý nông nghiệp được lập ra, nhưng nhiệm vụ của họ khá khác biệt. Dưới thời Thanh, Đại thần quản lý thu nhập thường được gọi là Đại thần quản lý nông nghiệp.

[Ghi chú về 水碓 Thủy đối: Cối xay nước là một dụng cụ cổ xưa của Trung Quốc, sử dụng sức nước để giã gạo. Nó còn được gọi là Cơ đối hoặc Thủy đảo khí chạy bằng nước. Nó sử dụng sức nước để vận hành bánh xe nước thẳng đứng, dẫn động cối xay, hoàn thành quá trình giã gạo. Dụng cụ này hoạt động dựa trên nguyên lý đòn bẩy và một bộ phận quay hoặc trượt (như bánh xe lệch tâm hoặc hình trụ có hình dạng không đều) trong liên kết cơ học được sử dụng đặc biệt để biến chuyển động quay thành chuyển động thẳng hoặc ngược lại. Ghi chép sớm nhất về phương pháp vận hành ‘thủy luân’ này được tìm thấy trong sách ‘Tân Luận · Ly xa Đệ thập nhất’của Hoàn Đàm vào thời Tây Hán. Đỗ Dự đã phát minh ra cối xay nước liên kết vào cuối thời Ngụy và đầu thời Tấn. Nó sử dụng một bánh xe nước lớn để liên kết nhiều bộ cối xay nhằm nâng cao hiệu suất. Các ghi chép về việc sử dụng cối xay nước đã xuất hiện vào thời Hán. Dưới thời Hán An Đế, Ngu H đã quảng bá dụng cụ này ở khu vực Lũng Tây. Đến thời Đường, phạm vi ứng dụng của nó đã mở rộng sang các lĩnh vực nghiền dược liệu và chế biến bột tre. Tổ Trùng Chi thời Nam Triều đã thiết kế một thiết bị cối xay nước tổng hợp. ‘Cổ Kim Đồ Thư Chỉnh Hợp’ thời Thanh ghi nhận攻稻之法,省人力十倍 ‘công đạo chi pháp, tỉnh nhân lực thập bội’ nó là phương pháp giã gạo tiết kiệm gấp mười lần sức người. Thời Càn Long nhà Thanh, Kiều Đôn Oản Diêu ở Thương Nam, tỉnh Chiết Giang, đã xây dựng một cụm cối xay nước dựa vào thủy lực của thác nước. Vào thời kỳ đỉnh cao, cụm cối xay nước này có hơn 100 cơ sở, một số trong đó vẫn còn hoạt động cho đến ngày nay. Vào cuối thế kỷ trước, với sự phổ biến của máy móc nông nghiệp và những thay đổi về điều kiện nguồn nước, các cối xay nước dần dần không còn được sử dụng vào thực tiễn đời sống nữa. HHN]

___________________________

(Còn nữa…)

Nguồn: 皇侃 (488-545) 《論語集解義疏》論語學而第一 Luận ngữ Tập giải Nghĩa sớ - Luận ngữ Học nhi Đệ nhất.

 

 

 

 

 

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét