Powered By Blogger

Thứ Ba, 11 tháng 11, 2025

Truyện Hàn Dũ bài Phật giáo trong Đường thư (I)

Dư Lịch Hùng

Người dịch: Hà Hữu Nga

Tóm tắt

[Tr.97] Phật giáo phát triển mạnh mẽ dưới thời nhà Tùy và nhà Đường, nhưng những trường hợp ủng hộ và phản đối Phật giáo cuồng nhiệt thường xuyên xảy ra giữa các Hoàng đế và quan lại. Các nhân vật phản Phật giáo đáng chú ý nhất dưới thời nhà Đường là Phó Dịch, vào đầu thời Đường, Địch Nhân Kiệt và Diêu Sùng vào thời Thịnh Đường, Hàn Dũ vào thời Trung Đường, Tiêu Phỏng và Lý Úy vào thời mãn Đường, tất cả đều được ghi chép chi tiết trong sử sách và kinh điển Phật giáo. Hầu hết các chính quyền Ngũ Đại đều đàn áp Phật giáo, đặc biệt là Hoàng đế Thế Tông nhà Hậu Chu thậm chí còn phá bỏ tất cả các chùa chiền Phật giáo. Dưới thời nhà Tống, nhiều Hoàng đế là những Phật tử thuần thành, ủng hộ Phật giáo hơn nhiều so với các triều đại trước. Trong các tiểu sử được ghi lại trong hai bộ sử nhà Đường, các sử gia thường có thái độ phê phán đối với Phật giáo. Tiểu sử các nhà sư trong ‘Cựu Đường Thư’ đã không phản ánh được tình trạng hưng thịnh của Phật giáo trong thời nhà Đường; ‘Tân Đường thư’ đã xóa hoàn toàn tiểu sử các nhà sư và bỏ qua nhiều thông tin về các nhân vật Phật giáo, một sự tương phản hoàn toàn với lập trường ủng hộ Phật giáo của triều đình. Dưới thời Đường Hiến Tông, khi Hoàng đế và các quan lại nghênh đón Xá lợi của Đức Phật, Hàn Dũ đã kịch liệt phản đối và suýt bị xử chết. Mặc dù được tha, ông vẫn bị đày đến Triều Châu. Quan điểm chống Phật giáo của Hàn Dũ bắt nguồn từ lập luận thuyết của Phó Dịch. Mặc dù hành động của ông đã gây chấn động dư luận và không hề động đến các nguyên lý Phật giáo, nhưng chúng đã có ảnh hưởng sâu sắc đến các thế hệ sau. Cả ‘Lưỡng Đường thư’ và ‘Hàn Dũ Truyện’ đều ghi lại đầy đủ toàn văn ‘Luận Phật cốt biểu’ Biểu bàn về Xá Lợi Phật’ của ông đã cho thấy tầm quan trọng của nó. Bài viết này cố gắng sử dụng những ví dụ phản Phật giáo trong tiểu sử của Hàn Dũ trong hai cuốn ‘Đường thư’ làm điểm khởi đầu để so sánh và đối chiếu sự khác biệt về môi trường chính trị và bầu không khí văn hóa của chủ thuyết phản Phật giáo trong thời Ngũ Đại và sự sùng bái Phật giáo trong thời Bắc Tống. Bài viết phân tích cụ thể giá trị lịch sử Tấu sớ của Hàn Dũ, các yếu tố được các Sử thần xem xét khi lựa chọn tư liệu lịch sử, cũng như ý nghĩa lịch sử và ý nghĩa văn hóa.

Giới thiệu

[Tr.98] Phật giáo thời Tùy Đường đã thành lập các Tông phái riêng, đạt đến đỉnh cao. Trong suốt lịch sử, đã có rất nhiều trường hợp Hoàng đế và quan lại vừa sùng bái vừa phản đối Phật giáo. Hệ thống 三教論衡 ‘Tam giáo luận hành’ bàn luận cân đong giữa Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo thời nhà Đường1, mục đích chính không phải là khai thác những lý thuyết hàn lâm sâu sắc, mà chỉ đơn thuần là tạo ra một vùng đệm để ‘tìm kiếm điểm chung trong khi vẫn giữ được sự khác biệt’ giữa các nhân vật của ba tôn giáo. Điểm mấu chốt của nó là ‘cân đong’ chứ không phải ‘thảo luận’, mặc dù mức độ trao đổi trí tuệ thấp hơn, nhưng vẫn duy trì được bầu không khí văn hóa tương đối hài hòa. Tuy nhiên, những người kiên định theo đuổi Nho giáo, chẳng hạn như Phó Dịch và Hàn Dũ không thể chấp nhận phương pháp ‘luận hành’ bàn luận cân đong này và những kết luận của nó. Họ chủ yếu phản đối Phật giáo từ góc độ chính trị, kinh tế và văn hóa quốc gia, hiếm khi đề cập trực tiếp đến nội dung cốt lõi của giáo lý Phật giáo. Mặc dù phương pháp tranh luận này không thể làm lung lay căn bản giáo lý hay giáo lý Phật giáo, nhưng nó thường vấp phải sự phản bác dữ dội từ các Phật tử và tín đồ, cuối cùng dẫn đến một tình huống không thể kiểm soát.

Trong số các học giả thời Đường phản đối Phật giáo, ảnh hưởng của Hàn Dũ là sâu sắc nhất, được ghi chép trong cả ‘Cựu’ lẫn ‘Tân Đường thư’, và toàn văn 論佛骨表 ‘Luận Phật cốt biểu’ của ông được đưa vào sử sách ở cả hai Tiểu sử Hàn Dũ, cho thấy tầm quan trọng mà ông đặt vào vấn đề này. Các chính thể Ngũ Đại đàn áp Phật giáo, do đó các sử thần của ‘Cựu Đường thư’ phần lớn có thái độ phê phán Phật giáo; triều đình Bắc Tống tôn sùng Phật giáo, nhưng các sử thần của ‘Tân Đường thư’ lại cố tình bỏ qua các sự kiện Phật giáo, một sự tương phản rõ rệt đáng được xem xét kỹ lưỡng

I. Lược đồ diễn ngôn phản Phật giáo thời Đường

Ngày 21 tháng 6 năm 621 (năm Vũ Đức thứ tư đời Đường Cao Tổ), Thái Sử lệnh Phó Dịch (555-639) đã trình tấu một bài biểu có tựa đề 上廢省佛僧表 ‘Thượng phế tỉnh Phật tăng biểu’ ‘Biểu bãi bỏ và giảm số lượng tăng sĩ Phật giáo’, kịch liệt phản đối những điều xấu xa của Phật giáo, từ đó khơi mào cho phong trào phản Phật giáo trong giới Sĩ Đại phu học giả-quan lại thời Đường. Năm sau, nhà sư Pháp Lâm viết 對傅奕廢佛僧事Đối Phó Dịch phế Phật Tăng sự’ ‘Về việc bãi bỏ Tăng sĩ Phật giáo của Phó Dịch’, 破邪論 ‘Phá tà luận’ ‘Bác bỏ tà giáo’ của Phó Dịch, và Đông Cung học sĩ Lý Sư Chính viết 德論 ‘Nội đức luận’ ‘Bàn về Đức hạnh Nội tại’, 正邪論Chính Tà luận ‘Bàn về Chỉnh sửa Tà giáo’, v.v., phản bác gay gắt Biểu văn của Phó Dịch.2.

[Ghi chú 太史令Thái Sử lệnh: là một chức vụ chính thức ở Trung Quốc cổ đại, chịu trách nhiệm về thiên văn học, hệ thống lịch pháp, biên soạn lịch sử và hồ sơ quốc gia. Quan danh này có nguồn gốc từ thời nhà Hạ. Trong thời kỳ Tây Chu và Xuân Thu, chức năng là soạn thảo văn bản, ghi chép các sự kiện lịch sử, quản lý thiên văn học, hệ thống lịch pháp, tế lễ, và giữ một vị trí tương đối cao. Vào thời Tần Hán, Sử ký được chính thức thành lập, trực thuộc Thái thường 太常, chịu trách nhiệm về quan sát, tính toán thiên văn, và vị thế của quan danh này dần suy yếu. Tư Mã Thiên và Trương Hành cũng đã từng giữ chức vụ này. Sau thời Ngụy Tấn, chức năng biên soạn lịch sử được chuyển giao cho撰著郎 Trứ tác lang còn Thái Sử lệnh chỉ chịu trách nhiệm về lịch pháp. Vào thời nhà Tùy, nó được đổi tên thành Thái Sử giám, và vào thời nhà Đường, là Thái sử cụcTi Thiên thai, tập trung vào việc quan sát thiên văn và lập lịch. Vào thời nhà Tống, Thái sử cục và Ti Thiên giám được lập riêng biệt. Vào thời nhà Nguyên, Thái sử viện và Ti Thiên giám cùng tồn tại, chủ yếu tập trung vào các tính toán thiên văn. Trong thời nhà Minh và nhà Thanh, hệ thống thiên văn và lịch pháp quy về Khâm Thiên giám, và chức năng biên soạn lịch sử được chuyển giao cho Hàn Lâm Viện, do đó Hàn Lâm Viện còn được gọi là “Thái sử”. Mặc dù tên gọi và sự liên kết đã thay đổi trong suốt lịch sử, nhưng trách nhiệm cốt lõi của quan danh này luôn xoay quanh việc quan sát thiên văn, chỉnh sửa lịch pháp, biên soạn lịch sử. HHN]

‘Cựu Đường thư. Phó Dịch truyện’, ghi rằng vào năm thứ bảy đời Vũ Đức (624), Phó Dịch lại đệ trình một Tấu biểu có tựa đề 請除釋教疏 ‘Thỉnh trừ Thích giáo sớ’ ‘Thỉnh cầu bãi bỏ Phật giáo’, kịch liệt quy kết Phật giáo gây hại cho đất nước, và khẳng định kể từ thời Tây Tấn, 政虐祚短,皆由佛教致災 ‘Chính ngược Tộ đoản, giai do Phật giáo trí tai’ chính thể bạo ngược, triều đại ngắn ngủi đều do Phật giáo gây ra’, làm lời cảnh báo. Nhà sư Minh Khái soạn văn bản ‘Quyết định bãi bỏ Tăng sĩ của Phó Dịch’, bác bỏ từng điểm vu khống Phật giáo và tiêu diệt Tăng sĩ của Dịch.

Vào năm thứ chín đời Vũ Đức (626), Phó Dịch lại trình một tấu biểu thỉnh cầu bãi bỏ Phật giáo, lời lẽ sắc bén và thẳng thắn. Sau đó Đường Cao Tổ ra lệnh cho các quan đại thần thảo luận chi tiết về vấn đề này. Tuy nhiên, trong số các quan đại thần, nhiều người theo Phật giáo, và chỉ có Thái Bộc khanh Trương Đạo Nguyên nói rằng奕奏合理 ‘Dịch tấu hợp lý’ Tấu biểu của Phó Dịch là hợp lý. Trung Thư lệnh Tiêu Vũ đã tranh luận không ngừng với Phó Dịch. Đường Cao Tổ 將從奕言, 會傳位而止 ‘tương tòng Dịch ngôn, hội truyền vị nhi chỉ’ ‘nghe theo lời Dịch’ và sẽ kết thúc việc bài Phật giáo trước khi truyền ngôi’.3

Khi Đường Thái Tông lên ngôi, ông từng triệu Phó Dịch đến hỏi về Phật giáo. Phó Dịch trả lời: 佛是胡中桀黠,欺誑夷狄”,“於百姓無補,於國家有害.”太宗聞後頗然之.4 Phật thị hồ trung kiệt hiệt, khi cuống di địch”,“ ư bách tính vô bổ, ư quốc gia hữu hại.” Thái Tông văn hậu “pha nhiên chi”.4 ‘Phật giáo là một tôn giáo xảo trá, lừa gạt ở bọn man di’, ‘không có lợi cho dân mà lại có hại cho đất nước’. [tr.99] Nghe thấy thế, Thái Tông ‘đặc biệt tán đồng’.4 ‘Cựu Đường thư’ ghi lại tiểu sử của Phó Dịch, vào năm thứ mười ba đời Trinh Quán (639), Phó Dịch, trên giường bệnh, đã khuyên nhủ con trai mình rằng: 老,莊玄一之篇,周,孔《六經》之說,是為名教,汝宜習之。妖胡亂華,舉時皆惑,唯獨竊嘆,眾不我從,悲夫!汝等勿學也。古人裸葬,汝宜行之。Phiên âm: ‘Lão, Trang Huyền nhất chi thiên, Chu, Khổng ‘Lục Kinh’ chi thuyết, thị vi danh giáo, nhữ nghi tập chi. Yêu Hồ loạn Hoa, cử thì giai hoặc, duy độc thiết thán, chúng bất ngã tòng, bi phu! Nhữ đẳng vật học dã. Cổ nhân lỏa táng, nhữ nghi hành chi.’5 Dịch nghĩa: ‘Huyền Nhất chi thiên’ của Lão Tử và Trang Tử, Luận thuyết trong Lục Kinh của Nhà Chu và Khổng Tử, chính là giáo lý của Nho giáo; con nên học tập. Bọn Hồ yêu ma, làm loạn Hoa Hạ, thảy đều hoang mang; riêng ta than thở, chúng dân bất tòng - thật đáng thương thay! Con đừng học chúng. Cổ nhân táng  trần; con nên theo đó.’5.

[Ghi chú 玄一之篇 ‘Huyền Nhất chi Thiên’ có thể ám chỉ sự mở rộng của khái niệm 玄之又玄 ‘Huyền Chi Hựu Huyền’, đặc biệt là trong tư tưởng Đạo giáo, biểu thị những nguyên lý hay cảnh giới sâu sắc, huyền bí và vô lượng. Trong siêu hình học thời Ngụy, Tấn, Nam Bắc triều, nội dung chính của nó là những diễn giải về ‘Tam Bí’ (Lão Tử, Trang Tử và Kinh Dịch). Theo nghĩa hẹp hơn, ‘Huyền học’ đôi khi cũng đề cập đến các nghiên cứu bí truyền bao gồm Phong thủy, Mệnh số, Bói toán, với nền tảng lý thuyết là Âm Dương và Ngũ Hành. HHN] [裸葬Lỏa táng: một táng lễ truyền thống của người Hán, thi thể được chôn cất trần truồng, không quần áo hay quan tài. Phong tục này bắt nguồn từ triết lý Hoàng Lão, chủ trương 以身親土 “dĩ thân thân thổ” gắn liền thân thể với đất, với niềm tin cho rằng điều này giúp cho con người 返吾真 phản ngô chân ‘trở về với bản ngã đích thực’, nghĩa là cơ thể trực tiếp trở về với Đất - một Táng thức Tối giản mang Ý nghĩa Tối cao. HHN]

Hơn nữa, Phó Dịch còn soạn ‘Ngụy Tấn dĩ lai bác Phật giả vi ‘Cao Thức truyện’ ‘Những người bác bỏ Phật giáo từ thời nhà Ngụy Tấn đều được ghi chép trong Cao Thức truyện.’ một bộ sách mười tập, được lưu hành rộng rãi. Xét về cuộc đời của Phó Dịch, từ thời Tùy đến thời Đường, ông luôn giữ lập trường phản Phật giáo, và ngay cả khi lâm chung, ông vẫn không quên dặn dò con trai không được học tập giáo lý của 妖胡 ‘Yêu Hồ’ giặc Hồ Yêu Ma. Đường Cao Tổ Lý Uyên và Đường Thái Tông Lý Thế Dân ban đầu đã thoát khỏi nguy hiểm nhờ sự giúp đỡ của các nhà sư chiến binh trong các cuộc nổi loạn. Mặc dù Phó Dịch liên tục bị các nhà sư và tín đồ Phật giáo chỉ trích vì những tấu sớ phản Phật giáo, nhưng cả hai vị Hoàng đế đều coi trọng cả chính quyền dân sự lẫn chiến lược quân sự, và không phải là những Quân vương sung thượng Phật giáo, nhờ đó, cuối cùng Phó Dịch đã tránh được việc bị giáng chức. Phương pháp biên soạn ‘Phó Dịch truyện’ trong cả ‘Cựu Đường thư’ và ‘Tân Đường thư’ là ghi chép lại chi tiết các sự việc, tập hợp các bản tấu sớ và văn thuyết của ông, rồi đưa cả vào bộ sách. Ngoài tác dụng bổ sung cho sử sách, điều này còn thể hiện rõ việc ca ngợi và phê phán Phật giáo của các sử thần trong việc biên soạn hai bộ ‘Đường thư’.

Kế tiếp Phó Dịch, Địch Nhân Kiệt (630-700), Diêu Sùng (651-721), Trương Đình Khuê (?-734), và Tân Thế Phủ (không rõ năm sinh và năm mất) cũng là những người bài Phật giáo khét tiếng. Vào năm Cửu Thị Nguyên niên (700), Hoàng hậu Võ Tắc Thiên đã lên kế hoạch xây dựng một bức tượng lớn tại sườn núi Bạch Mã, cần hàng triệu đồng tiền để hoàn thành. Hoàng hậu Võ Tắc Thiên ra lệnh mỗi nhà sư và ni cô trong nước phải đóng góp mỗi ngày một đồng cho dự án, nhưng Địch Nhân Kiệt đã trình lên Hoàng đế một bản cáo thị để ngăn cản bà, với lý do các hoạt động Phật giáo gây bất lợi cho đất nước, sau đó Hoàng hậu Võ Tắc Thiên đã từ bỏ dự án.6 Đến thời Trường An (701-705), Hoàng hậu Võ Tắc Thiên lại lên kế hoạch xây dựng một Đại tượng, với công sức tiền của thậm chí còn nhiều hơn. Trương Đình Khuê, Tô Hướng (635-715), Lý Kiệu (644-713) và những người khác đã đệ trình bản tấu phản đối mạnh mẽ việc này.7 Vào thời Cảnh Long (707-709) của Đường Trung Tông, 時又盛興佛寺,百姓勞弊,帑藏為之空竭‘thì hựu thịnh hưng Phật tự, bách tính lao tệ, nô tàng vi chi không kiệt’, ‘các ngôi chùa Phật giáo lại phát triển mạnh mẽ, khiến bách tính khốn đốn, ngân khố cạn kiệt.’ Tân Thế Phủ đã dâng sớ phản đối mạnh mẽ việc này, nhưng bản kiến ​​nghị của ông không được chấp nhận.8

Vào thời trị vì của Hoàng đế Trung Tông, 公主外戚皆奏請度人為僧尼,亦有出私財造寺者,富強丁,皆經營避役,遠近充滿。姚崇奏曰:佛不在外,求之於心。佛圖澄最賢,無益於全趙;羅什多藝,不救於亡秦。何充,苻融,皆遭敗滅;齊襄,梁武,未免災殃。但發心慈悲,行事利 [tr.100] 益,使蒼生安樂,即是佛身。何用妄度姦人,令壞正法? Phiên âm “Công chủ ngoại thích giai tấu thỉnh độ nhân vi tăng ni, diệc hữu xuất tư tài tạo tự giả, phú hộ cường đinh, giai kinh doanh tị dịch, viễn cận sung mãn”, Diêu Sùng tấu viết “Phật bất tại ngoại, cầu chi ư tâm. Phật Đồ Trừng tối hiền, vô ích ư toàn Triệu; La Thập đa nghệ, bất cứu ư vong Tần. Hà Sung, Phù Dung, giai tao bại diệt; Tề Tương Đế, Lương Vũ Đế, vị miễn tai ương. Đãn phát tâm từ bi, hành sự lợi ích, sử thương sanh an nhạc, tức thị phật thân. Hà dụng vọng độ gian nhân, lệnh hoại chánh pháp? 9 Dịch nghĩa: “Thân thích của Công chúa Hoàng hậu đều thỉnh cầu độ cho làm tăng, ni, và một số thậm chí còn dùng tiền riêng để xây chùa. Những gia đình giàu có và những người đàn ông khỏe mạnh đều đổ xô đến chùa để tránh lao dịch khổ sai, khiến khu vực này trở nên đông đúc.” Diêu Sùng tấu viết: “Phật không ở bên ngoài, mà ở trong tâm. Ngay cả Phật Đồ Trừng, đức hạnh nhất cũng chẳng giúp ích gì cho toàn thể nước Triệu; Cưu Ma La Thập tuy tài giỏi nhưng không thể cứu nước Tần suy vong. Hà Sung và Phù Dung đều bị thất bại và bị diệt; Tề Tương Đế và Lương Vũ Đế cũng không thoát khỏi tai ương. Chỉ cần tu dưỡng lòng từ bi, hành động [tr.100] vì lợi ích của tất cả mọi người, mang lại an lạc cho dân chúng—đó chính là hiện thân của Đức Phật. Vậy tại sao chúng ta lại tùy tiện dẫn dắt kẻ ác và làm bại hoại Chánh pháp? 9

Về sau, Diêu Sùng để lại di chúc cho con cháu, đôi khi có những lời lẽ bài Phật giáo, nói rằng: 夫釋迦之本法,為蒼生之大弊,汝等各宜警策,正法在心,勿效兒女子曹,終身不悟也。吾亡後必不得為此弊法. Phiên âm: “Phu Thích Già chi bản pháp, vi thương sinh chi đại tệ, nhữ đẳng các nghi cảnh sách, chánh pháp tại tâm, vật hiệu nhi nữ tử tào, chung thân bất ngộ dã. Ngô vong hậu tất bất đắc vi thử tệ pháp.” Dịch nghĩa: “Pháp căn bản của Thích Ca làm cho chúng sinh trăm họ điêu tàn, các ngươi hãy cùng nhau tỉnh thức, giữ gìn chánh pháp trong tâm, đừng học đòi lũ nữ nhi con trẻ suốt đời lầm lạc. Sau khi ta mất, tà pháp này không được phép tiếp tục.” Ngược lại, những lời răn dạy cuối cùng của Phó Dịch và Diêu Sùng dành cho con cháu mình về việc tu tập 妖胡弊法 yêu hồ tệ pháp’ ‘tà pháp của bọn Yêu ma người Hồ’ phản ánh sự thiếu hiểu biết về Phật giáo của giới trí thức truyền thống, một tình cảm mà họ không thể rũ bỏ ngay cả trên giường bệnh.

Ngoài ra, vào năm Đại Lịch thứ mười ba đời Đường Đại Tông (778), triều đình đã triệu tập để nghị luận về việc 澄汰佛道 ‘trừng thải Phật Đạo’ thanh lọc Phật giáo, Đạo giáo', và Bành Yển đã tham gia vào các cuộc nghị luận này. Bản tấu của ông trong ‘Cựu Đường thư’ được ghi lại rất chi tiết, chiếm gần ba phần tư toàn bộ ‘Bành Yển truyện’, thể hiện vai trò quan trọng của ông.10 Các vụ án chống Phật giáo được ghi lại trong cả ‘Cựu Đường thư’ và ‘Tân Đường thư’ phần lớn giống nhau, tất cả đều xuất hiện trong các bản tấu biểu dài dòng, nhưng nội dung có thể được rút gọn hoặc khác nhau về độ dài.

Do đó, vụ án chống Phật giáo của Phó Dịch đóng vai trò tiên phong, ảnh hưởng đáng kể đến tư tưởng và lập luận cơ bản của những người chống Phật giáo sau này. Bài luận của Hàn Dũ về ‘Phật cốt biểu’ đặc biệt truyền cảm hứng và ảnh hưởng sâu sắc. Sách 邵氏聞見後 ‘Thiệu thị Văn kiến Hậu lục’ của Thiệu Bác, chép: 太史令傅奕上疏請除佛法云:不忠不孝,削髮而揖君親。遊手遊食,易服以逃租賦。偽三塗,謬張六道,恐喝愚民,詐欺庸品.Phiên âm: ‘Thái Sử lệnh Phó Dịch thượng sớ thỉnh trừ Phật pháp vân: “Bất trung bất hiếu, tước phát nhi ấp Quân thân. Du thủ du thực, dịch phục dĩ đào tô phú. Ngụy khải tam đồ, mậu trương lục đạo, khủng hát ngu dân, trá khi dong phẩm.’ Dịch nghĩa: Thái Sử lệnh Phó Dịch dâng sớ thỉnh cầu xóa bỏ Phật giáo, nói rằng: ‘Bất trung bất hiếu, cạo trọc đầu cúi lạy Thiên tử, mẹ cha.’ Du thủ du thực, đổi áo quần hầu trốn tô thuế. Xảo mở Tam Đồ (Súc sinh, Ngạ quỷ, Địa ngục), Trá trương Lục Đạo (Trời, Người, A Tu La, Ngạ quỷ, Súc sinh, Địa ngục), Dọa nạt ngu dân, Dối lừa kẻ khó.’ Lại nói: 生死壽夭,由於自然,刑德威福,關之人主。貧富貴賤,功業所招。而愚僧皆矯云由佛。又云:降自羲,農,至於有漢,皆無佛法,君明臣忠,祚長年永。漢明帝始立胡神,洎於苻,石,羌胡亂華,主庸臣佞,祚短政虐 Phiên âm: ‘Sinh tử thọ yểu, do ư tự nhiên, hình đức uy phúc, quan chi nhân chủ. Bần phú quý tiện, công nghiệp sở chiêu. Nhi ngu tăng giai kiểu vân do Phật.’ Lại còn thêm: ‘Hàng tự hi, nông, chí ư hữu hán, giai vô Phật pháp, quân minh thần trung, tộ trường niên vĩnh. Hán Minh Đế thủy lập hồ thần, kịp ư Phù, Thạch, Khương Hồ loạn Hoa, chủ dung thần nịnh, tộ đoản chính ngược.” Dịch nghĩa: ‘Sống, chết, trường thọ, mệnh yểu trời định; hình phạt, đức hạnh, quyền lực, vận may đều do vua định. Giàu nghèo, quý tiện, công nghiệp mà thành. Vậy mà ngu tăng, tự nhận Phật truyền.’ Và còn viết: ‘Phục Hy Thần Nông đến thời nhà Hán, Phật giáo tuyệt không; Vua sáng Tôi trung Dài lâu Triều đại. Minh Đế lập Hồ thần, Cập đến Phù, Thạch, Khương Hồ loạn Hoa; Chúa dung Nịnh thần, Triều vương ngắn ngủi, Chính thể bạo tàn’. ‘Phật cốt biểu’ của Hàn Thoái Chi viết: 伏羲至周文,武時皆未有佛,而年多至百歲,有過之者。自佛法入中國,帝王事之,壽不能長,梁武事之最謹,而國大亂。憲宗得奏大怒,將加極法,曰:愈言我奉佛太過,猶可容。至言東漢奉佛之後,帝王咸致夭促,何其乖刺也. Phiên âm: “Phục Hi chí Chu Văn, Vũ thì giai vị hữu Phật, nhi niên đa chí bách tuế, hữu quá chi giả. Tự Phật pháp nhập Trung Quốc, Đế vương sự chi, thọ bất năng trường, Lương Vũ sự chi tối cẩn, nhi quốc đại loạn.” Hiến Tông đắc tấu đại nộ, tương gia cực pháp, viết: “Dũ ngôn ngã phụng Phật thái quá, do khả dung. Chí ngôn Đông Hán phụng Phật chi hậu, đế vương hàm trí yêu xúc, hà kì quai thứ dã.”

Dịch nghĩa: “Từ thời Phục Hy đến thời Văn Vương, Vũ Vương nước Chu, không có Phật, vậy mà nhiều người sống đến hơn một trăm tuổi, thậm chí có người còn sống lâu hơn. Từ khi Phật giáo du nhập vào Trung Quốc, các Hoàng đế phụng sự Phật giáo không sống lâu. Vua Vũ nước Lương đã phục vụ hết sức tận tụy, nhưng đất nước lại hỗn loạn.” Đường Hiến Tông, khi nhận được tấu, đã vô cùng tức giận và định áp dụng hình phạt nghiêm khắc nhất, bèn nói: “Dũ nói ta đã quá sùng Phật, thì vẫn có thể dung được.” “Nhưng nói sau khi nhà Đông Hán theo Phật giáo, các Hoàng đế đều chết yểu, thì thật quái gở vậy!” 11 Theo họ Thiệu, quan điểm của Hàn Dũ trong ‘Phật cốt biểu’ dựa trên tấu sớ của Phó Dịch và được ‘mở rộng’, chứ không phải là những hiểu biết ban đầu của ông. Quan điểm này cũng được các lập luận liên quan của Trần Thiện với 捫虱新話 ‘Môn sắt Tân thoại’, Từ Văn Tĩnh với 管城碩記 ‘Quản Thành Thạc kí’, Triệu Dực với 陔餘叢考 ‘Cai dư Tùng khảo’, Tiền Đại Hân với 十駕齋養新錄 ‘Thập giá Trai dưỡng Tân lục’ ủng hộ.12 Khi Hàn Dũ viết biểu, ông hẳn đã rất quen thuộc với những vụ án bài Phật giáo thời Đường và đã cân nhắc kỹ lưỡng. 諸人用功未有昌黎之勤,議論未若昌黎之 [tr.101] 酷烈”,顧其言多與昌黎之表大同”.13 Phiên âm: “Chư nhân dụng công vị hữu Xương Lê chi cần, nghị luận vị nhược Xương Lê chi khốc liệt”, đãn “cố kì ngôn đa dữ Xương Lê chi biểu đại đồng”.13 Dịch nghĩa: ‘Những nỗ lực của người khác không cần cù như Xương Lê, và những lập luận của họ không mạnh mẽ [tr.101] như ông’, nhưng ‘lời lẽ của họ phần lớn giống với bài biểu của Xương Lê.”13 Mặc dù quan điểm bài Phật giáo của Hàn Dũ không đặc biệt mới mẻ, nhưng những vụ án bài Phật giáo của ông đã có ảnh hưởng rộng rãi và bất ngờ đến chính trị và tư tưởng của giới học giả thời nhà Đường.

II. Truyện kể trong Tân/Cựu Đường thư: Tiểu sử Hàn Dũ

Năm Nguyên Hòa thứ mười ba (818), Công Đức sử báo tin rằng Bảo tháp Hộ quốc Chân Thân của Pháp Môn Tự ở Phượng Tường có chứa một phần xương ngón tay của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, ba mươi năm mới mở một lần, và sự kiện đó đã khiến cho mùa màng bội thu, người dân được hưởng thái bình. Tháng giêng năm sau, Đường Hiến Tông令中使杜英奇押宮人三十人,持香花,赴臨皐驛迎佛骨。自光順門入大,留禁中三日,乃送諸寺。王公士庶,奔走捨施,唯恐在後。百姓有廢業破,燒頂灼臂而求供養者 Phiên âm: Lệnh Trung sứ Đỗ Anh Kì áp cung nhân tam thập nhân, trì hương hoa, phó lâm cao dịch nghênh Phật cốt . Tự Quang Thuận môn nhập đại nội, lưu cấm trung tam nhật, nãi tống chư tự. Vương công sĩ thứ, bôn tẩu xả thi, duy khủng tại hậu. Bách tính hữu phế nghiệp phá sản, thiêu đính chước tí nhi cầu cung dưỡng giả. Dịch nghĩa: “Lệnh cho Trung sứ Đỗ Anh Kỳ hộ tống ba mươi cung nữ mang hương hoa đến Dịch trạm Lâm Cao để rước Phật cốt. Phật cốt được đưa vào cung qua cổng Quang Thuận, lưu lại trong cung ba ngày, sau đó được đưa đến các chùa chiền. Vương công, quan lại và thường dân đều đổ xô đến cúng dường, sợ bị bỏ lại phía sau. Thậm chí có những thường dân, thất bại trong kinh doanh, bị phá sản còn tự đốt đầu thiêu tay làm phép cúng dường vậy.14

[Ghi chú về Trung sứ: là sứ thần do Hoàng đế sai phái, chủ yếu là hoạn quan, có nhiệm vụ mật. Tất cả các văn kiện và chỉ dụ của Hoàng cung đều phải thông qua hệ thống mật vụ của hoạn quan, điều này thường trở thành một cách để hoạn quan giành được quyền lực. Hệ thống Trung sứ bắt đầu hình thành vào thời nhà Đường, và triều đình dựa vào hoạn quan để quản lý các phiên trấn khác nhau và lập ra các Trung sứ Giám sát để theo dõi các Tiết Độ sứ. Chu Ôn thời Hậu Lương đã từng ban hành một chỉ dụ giết hết tất cả các Trung sứ Giám sát ở các phiên trấn, nhưng các phiên trấn là tiền thân của Thập Quốc đã từ chối tuân theo. Đến thời nhà Minh, Trung sứ Triều đình đã tiếp quản hệ thống ban hành mệnh lệnh từ Hoàng đế ban ra bên trong và bên ngoài Hoàng cung, và trở thành cầu nối giao tiếp giữa Hoàng đế và nội các. HHN]

Hàn Dũ, vốn không thích Phật, đã dâng ‘Luận cốt biểu” để phản đối. Xem xét lập luận của Hàn Dụ, bốn điểm chính nổi lên: Thứ nhất, trước thời nhà Hán, khi chưa có Phật pháp, những bậc quân vương sáng suốt và các cận thần trung thành đã đảm bảo cho triều đại trường tồn và thịnh vượng; Thứ hai, sau khi Phật pháp vào Trung Quốc, xuất hiện Chúa hèn Thần nịnh khiến cho Triều đại ngắn ngủi, Chế độ bạo tàn; Thứ ba, nay việc cung nghênh xá lợi Phật đã gây nên 傷風敗俗,傳笑四方 “thương phong bại tục, truyền tiếu tứ phương” làm suy bại thuần phong mỹ tục, trở thành trò cười khắp bốn phương; Thứ tư, 佛本夷狄之人,不知君臣之義,父子之情”,乞以此骨,投諸水火,永絕根本 Phật bản di địch chi nhân, bất tri “Quân thần chi nghĩa, Phụ tử chi tình”, khất dĩ thử cốt, “đầu chư thủy hỏa, vĩnh tuyệt căn bổn” Đức Phật vốn là một người man di, không hiểu “nghĩa lý giữa vua và tôi, tình cảm giữa cha và con”, nên đã yêu cầu “ném xá lợi này vào nước và lửa để vĩnh viễn cắt đứt gốc rễ”.15

[Ghi chú về 功德使 Công đức sử là một chức vụ chính thức ở Trung Quốc cổ đại, quản lý các nhà sư và ni cô Phật giáo cũng như các đạo sĩ và ni cô Đạo giáo. Thời điểm tồn tại của chức vụ này là từ thời nhà Đường đến thời nhà Nguyên. Trong thời trị vì của Hoàng đế Huyền Tông, có ghi chép về những người không phải là nhà sư nhưng có chức vụ Công đức sử. Sau cuộc nổi loạn An Lộc Sơn, chức vụ này dần được thể chế hóa. Vào năm Trinh Nguyên thứ tư Hoàng đế Đức Tông (788), Tả nhai và Hữu nhai Công đức sử được phục hồi, do Đậu Văn Tràng và Vương Hy Thiên, hoạn quan của Quân đội Thần Sách nắm giữ. Chức năng của chức vụ này bao gồm quản lý sổ đăng ký nhà sư và ni cô, sửa chữa chùa chiền và dịch kinh sách, hình thành một hệ thống quản lý theo chiều dọc bao gồm các nhà sư ghi chép sổ sách, quan chức nhà sư và người giám sát chùa chiền. Trong thời nhà Đường, quyền lực của Công đức sử đã thay đổi từ một chức vụ tạm thời thành một tổ chức chính thức. Vào năm Nguyên Hòa thứ hai (807), nó thay thế Bộ Lễ để trở thành cơ quan quản lý cao nhất về các vấn đề Phật giáo. Trong thời Hậu Lương thuộc Ngũ Đại, các nhà sư và Đạo sĩ được đặt dưới sự quản lý của Bộ Lễ. Dương Quang Viễn thời Hậu Tấn từng giữ chức Công đức sử của cả nước. Trong thời Nhà Tống, chức này do Phủ doãn Khai Phong đồng thời nắm giữ. Chức vụ này đã bị bãi bỏ sau khi được chuyển sang Hồng Lô Tự vào thời Nguyên Phong. Chức vụ chính thức này thường do hoạn quan nắm giữ. Vào năm Trấn Nguyên thứ mười hai (796), chế độ kiêm nhiệm chức vụ Thần Sách Hộ Pháp được thiết lập, phản ánh sự kết hợp giữa quyền lực của hoạn quan và việc quản lý tôn giáo vào thời Nhà Đường. HHN]

[Ghi chú về 鴻臚寺 Hồng Lô Tự là tên một Quan phủ Trung Quốc cổ đại, chủ yếu phụ trách các nghi lễ của triều đình và tiếp đón khách. Vào thời nhà Hán, Đại Điển Khách của nhà Tần được đổi tên thành Đại Hành Lệnh, và dưới thời Hán Vũ Đế, được đổi thành Đại Hồng Lô. Ban đầu, Hồng Lô có nghĩa là nơi hô vang ca ngợi và hướng dẫn các nghi lễ. Đại Hồng Lô phụ trách tiếp khách nước ngoài. Vào thời Bắc Tề, Hồng Lô Tự được thành lập, và các triều đại sau này tiếp tục làm như vậy. Vào thời Nam Tống, Tấn và Nguyên không có Hồng Lô Tự, mà chỉ  nhưng được tái lập vào thời Minh và Thanh, với quan chức đứng đầu là Hồng Lô Tự khanh. Hồng Lô Tự ban đầu có một Phán Tự sự phụ trách các công việc của Phủ quan. Đến thời Nguyên Phong đã thực hiện một thể chế mới và bổ nhiệm một Quan Khanh (Thượng thư), một Thiếu Khanh, một Thừa quan (trợ lý Quan Khanh) và một quan Chủ Bộ Các phụ trách việc cống nạp, yến tiệc, quà cáp và tiếp đón man di ngoại quốc, cũng như các lệnh cấm về tang lễ quốc gia, đền thờ trong kinh đô và sổ sách của các nhà sư Phật giáo và Đạo giáo. Khi các vị vua và sứ thần từ các nước Tứ man đến triều bái, họ được đối xử lịch sự dành cho khách, được cung cấp chỗ ở, các thủ tục tiếp kiến, ban tặng quà và tổ chức đãi tiệc. Dịch trạm Hoài Viễn 懷遠驛 Hoài Viễn Dịch chịu trách nhiệm tiếp nhận cống nạp từ các quốc gia Nam man là Giao Châu và các quốc gia Tây Nhung là Kucha, Arabia, Khotan, Cam Túc, Shah và Tông Ca. 

[Ghi chú về 懷遠驛 Hoài Viễn Dịch: Dịch Trạm Hoài Viễn là một cơ quan ngoại giao chính thức được thành lập dưới thời Nam Tống. Nó được mở rộng từ Pháp Tuệ Tự và nằm dưới quyền quản lý của Hồng Lô Tự. Dịch Trạm này chịu trách nhiệm tiếp đón sứ thần từ các nước hải ngoại như Cao Ly, Chiêm Thành, Đại Lý, Chân Lý Phụ Quốc nay là Campuchia, và Srivijaya Tam Phật Tề nay thuộc Malaysia. Tên của Phủ quan này được lấy từ quan niệm chính trị 懷諸侯,柔遠人 “Hoài chư hầu, nhu viễn nhân” ‘Thương nhớ Chư hầu, Vỗ về viễn chúng’ (bọn vùng sâu, vùng xa) trong Học thuyết Trung dung, phản ánh chính sách đối ngoại 懷柔致遠 Hoài nhu trí viễn “thương nhớ vỗ về vùng sâu vùng xa” của nhà Tống. Vào năm Thiệu Hưng thứ bảy (1137) nhà Nam Tống, khi phái đoàn Tam Phật Tề Srivijaya đến cống nạp, triều đình đã tổ chức yến tiệc chiêu đãi tại đây, quy mô tiếp đón được tăng từ 23 lên 40 người. So với Ban Kinh Quán, nơi tiếp đón các quan chức nhà Kim, và Đô Đình Dịch, nơi tiếp đón các quan chức trong nước, thì Dịch trạm Hoài Viễn có chức năng ngoại giao rất điển hình. Dịch trạm Hoài Viễn được xây dựng lại ở Quảng Châu vào thời nhà Minh và nhà Thanh vẫn sử dụng hệ thống và chức năng của Phủ quan thời nhà Tống. HHN] 

[Ghi chú 班荊館 Ban Kinh Quán là một cơ quan tiếp đón ngoại giao chính thức được thành lập bên ngoài kinh đô vào thời Ngũ Đại và Bắc Tống ở Trung Quốc. Nó được xây dựng lần đầu tiên vào thời Thiên Phủ của nhà Hậu Tấn (936-944) và tiếp tục cho đến thời Biện Kinh (nay là Khai Phong) của nhà Tống. Chức năng chính của nó là cung cấp dịch vụ ăn uống và lưu trú cho các sứ thần nước ngoài đi sứ đến Trung Quốc. Tên của nó xuất phát từ câu chuyện班荊相與食 ‘Ban kinh tương dữ thực’ trong 左傳 Tả truyện, phản ánh cách hiếu khách trong nghi thức ngoại giao thời cổ đại. Theo Tống sử, triều đình Bắc Tống đã tổ chức một bữa tiệc Hoàng gia tại đây để chào đón các sứ thần nước Liêu, điều này phản ánh vị trí quan trọng của cơ quan này trong các vấn đề ngoại giao vào thời điểm đó. Vẫn còn một ghi chép rõ ràng về năm Thiên Phúc thứ hai nhà Hậu Tấn (937). Sách 資治通鑑 ‘Tư trị Thông giám’ ghi lại rằng 敕斬饒於班荊館 ‘Sắc trảm Ngạn Nhiêu ư Ban Kinh Quán’ ‘Hoàng đế đã ra lệnh xử trảm Ngạn Nhiêu tại Ban Kinh Quán’, cho thấy cơ quan này đã được xây dựng ít nhất là vào đầu thời Hậu Tấn. Sau khi nhà Bắc Tống định đô tại Biện Kinh, nơi đây tiếp tục được sử dụng và trở thành trung tâm tiếp đón các phái đoàn ngoại giao từ Liêu Quốc, Tây Hạ và các nước khác. Tên gọi này bắt nguồn từ câu chuyện trong Tả Truyện, Tương Công, năm thứ 26: 楚人伍舉與聲子相遇於鄭國郊外,"班荊相與食,而言復故Sở nhân Ngũ Cử dữ Thanh Tử tương ngộ ư Trịnh Quốc giao ngoại, ban kinh tương dữ thực, nhi ngôn phục cố’ Ngũ Cử, một người nước Sở, gặp Thanh Tử bên ngoài thành nước Trịnh, họ ‘trải cành mận gai, cùng nhau ăn cơm, cùng nhau kể chuyện xưa’. Chữ ban’ nghĩa là trải ra, còn ‘kinh’ là cành mận gai, động thái này là ẩn dụ cho những cuộc trò chuyện thân mật trong các dịp gặp gỡ, dù là với sứ thần trong ngoại giao. Hồ Tam Tỉnh đã giải thích chi tiết nguồn gốc của tên gọi này khi chú thích sách ‘Tư Trị Thông Giám’. HHN] 

[Ghi chú về Mận gai: Nhân động đến Ban Kinh Quán, Quán Trải Mận gai, lại nhớ thuở bé người già trong nhà bắt chép/đọc bài: 九月九日憶山東兄弟 ‘Cửu Nguyệt Cửu Nhật Ức Sơn Đông Huynh Đệ’ ‘Tết Trùng Cửu Nhớ Anh Em ở Sơn Đông’ của 王維 Vương Duy về mỹ tục bẻ cành Mận gai Thù du cài lên tóc để nhớ người ở xa:

獨在異為異客,

每逢佳節倍思親。

遙知兄弟登高處,

遍插茱萸少一人。

Phiên âm:

Độc tại dị hương vi dị khách;

Mỗi phùng giai tiết bội tư thân.

Dao tri huynh đệ đăng cao xứ;

Biến sáp thù du thiếu nhất nhân.

Dịch nghĩa:

‘Xứ lạ một mình làm khách lạ,

Mỗi lần Tết đến nhớ người thân,

Anh em dắt díu nhau lên núi,

Bẻ mận chợt đâu lẻ một cành.’ HHN]

_________________________________

(Còn nữa…)

Nguồn: 余曆雄(2017).兩《唐書•韓愈傳》排佛事例的史學意義考辨.馬來西亞漢學刊 (創刊號) 20178(97-110)金寶:馬來西亞漢學研究會[史學研究] Dư Lịch Hùng (2017). Lưỡng Đường thư Hàn Dũ Truyện bài Phật sự lệ đích sử học ý nghĩa khảo biện. Mã Lai Tây Á Hán học khan (sáng khan hiệu) 2017 niên 8 nguyệt (hiệt 97-110) Kim Bảo: Mã Lai Tây Á Hán học Nghiên cứu Hội [Sử học Nghiên cứu].

*余曆雄,南京大學文學博士,拉曼大學中文系助理教授,研究方向為中國古代文史.

Ghi chú

1.陳寅恪《馮友蘭中國哲學史下冊審查報告》曰:“南北朝時,即有儒釋道三教之目,(北周衛元嵩撰《齊三教論》七卷。見《舊唐書》肆柒《經籍志》下。)至李唐之世,遂成固定之制度。如國家有慶典,則召集三教之學士,講論於殿廷,是其一例。”(《金明館叢稿二編》,北京:三聯書店,2001,頁 283)

2.傅奕《上廢省佛僧表》,法琳《對傅奕廢佛僧表》,《破邪論》,見載《廣弘明集》卷十一;李師政《內德論》,見載《廣弘明集》卷十四。朝臣虞世南又為法琳《破邪論》作序,見載《全唐文》卷一三八。

3.[後晉] 劉昫:《舊唐書》卷七十九《傅奕傳》,第8冊,北京:中華書局,1975,頁2715-2717。關於傅奕排佛事例,詳見張遵騮《隋唐五代佛教大事年表》(范文瀾《唐代佛教》附,北京:人民出版社,1979,頁118-131)。

4.張遵騮《隋唐五代佛教大事年表》曰:“《隆興佛教編年通論》,《佛祖統紀》兩書均載太宗以此不齒傅奕,與上記相反。”又引《貞觀政要》卷六辨證,太宗謂諸臣曰:“梁武父子好佛老以致亡國,足為鑒戒。”(頁123)湯用彤《隋唐佛教史稿》亦申辨高祖,太宗“抑佛”之所由。(《湯用彤全集》第2卷,石家莊:河北人民出版社,2000,頁13-21)可知上述佛氏二書,當是釋子或奉佛者為張揚其說而編改太宗原意,不可為據。

5.[後晉]劉昫:《舊唐書》第8冊,頁2717。《新唐書》卷一〇七《傅弈傳》所載事迹近同。([宋]歐陽修等,第13冊,北京:中華書局,1975,頁 4061)

6.[後晉] 劉昫:《舊唐書》卷八十九《狄仁傑傳》,第9 冊,頁 2893-2894。

7.[後晉]劉昫:《舊唐書》卷九十四《李嶠傳》、卷一〇〇《蘇珦傳》、卷一〇一《張廷珪傳》,第 9、10冊,頁 2994-2995、3116、3150-3152。

8.[後晉]劉昫:《舊唐書》卷一〇一《辛替否傳》,第 10 冊,頁 3155-3158。[宋]歐陽修等:《新唐書》卷一一八《辛替否傳》,第14 冊,頁 4277-4281。

9.[後晉] 劉昫:《舊唐書》卷九十六《姚崇傳》,第 9 冊,頁 3021-3029。[ 宋 ] 歐陽修等:《新唐書》卷一二四《姚崇傳》,第 14 冊,頁 4381-4388。

10.[後晉]劉:《舊唐書》卷一二七《彭偃傳》,第11冊, 頁 3579-3581。惟《新唐書》無《彭偃傳》,其事迹附見《新唐書》卷二二五中《逆臣傳.朱泚傳》,全文僅三十五字,極為簡略,亦不載其刪汰僧道之議。(第20冊,頁6449)究其所,當是彭偃於“朱泚之亂”時為賊所得,“偽署中書舍人,僭號辭令,皆偃為”,史臣不齒其行,遂簡附其事迹於“逆臣傳”後。對於《新唐書》而言,“附”罪名之下,豈容見載“賢臣”奏議?兩《唐書》對排佛事例的不同考量,《彭偃傳》可說是一個相當特殊的例子。

11.[宋]邵博撰,劉德權李劍雄點校:《邵氏聞見後錄》,北京:中華書局,1983,頁64。

12.[宋]陳善《捫虱新話》卷五“韓文公《論佛骨表》其說始於傅奕”條;[清] 徐文碩《管城碩記》卷三十“韓文公《諫佛骨表》”條;[清]趙翼《陔餘叢考》卷三十四“《諫佛骨表》有所本”條;[清]錢大昕《十駕齋養新錄》卷十六“傅奕詆浮圖法”條等。

13.湯用彤:《隋唐佛教史稿》第一章第五節《韓愈與唐代士大夫之反佛》,頁 39。

14.[後晉] 劉昫:《舊唐書》卷一六〇《韓愈傳》,第13冊,頁4198。

15.[唐]韓愈著,屈守元常思春主編:《論佛骨表》,《韓愈全集校注》第4冊,成都:四川大學出版社,1996,頁2288-2290。


 

 

 

 

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét