Powered By Blogger

Thứ Tư, 1 tháng 10, 2025

Huyền thoại và Lịch sử về Hoàng Đế (III)

Trương Hãn Mặc

Người dịch: Hà Hữu Nga

Những hình ảnh đối lập và mục đích thuyết phục

[Tr.106] Đoạn văn trong sách Quốc ngữ được trích dẫn ở trên đề cập đến cuộc xung đột giữa hai bộ tộc Cơ và Khương, dường như ám chỉ trận chiến giữa Hoàng Đế và Viêm Đế35 được gọi là trận Bản Tuyền [阪泉之戰 Bản Tuyền chi chiến] trong cả “Ngũ Đế Đức” và Sử ký của Thái Sử Công. Theo “Ngũ Đế Đức”, Hoàng Đế “đã huấn luyện đội quân gấu đen, gấu ngựa, hổ trắng, hổ vằn, báo lớn đánh nhau với Xích Đế trên cánh đồng Bản Tuyền”.36 Các đội quân động vật được giải thích là tên của các đội quân của Hoàng Đế, có thể được phân biệt bằng các lá cờ khác nhau có hình gấu, báo và hổ. Cách giải thích như vậy một lần nữa bị ảnh hưởng bởi xu hướng lịch sử hóa Hoàng Đế như một vị vua hiền triết thời cổ đại. Cũng có thể trong truyền thuyết, Hoàng Đế thực sự đã chỉ huy động vật trong trận chiến. Sử ký của Thái Sử công ghi chép về Trận Bản Tuyền phù hợp với đoạn văn “Vũ Đế Đức”,37 nhưng nó kể lại chi tiết về một trận chiến khác (Trác Lộc) ngay sau phần tường thuật về trận Bản Tuyền. Trong câu chuyện về trận Trác Lộc, Xi Vưu thường được miêu tả là một anh hùng chiến tranh hung tợn trong nhiều nguồn, đã bị bắt và giết chết trên cánh đồng Trác Lộc vì tội phản loạn.38

[Ghi chú về Hoàng Đế: 孔子曰:「黃帝,少典之子也,曰軒轅。生而神靈,弱而能言,幼而慧齊,長而敦敏,成而聰明。治五氣,設五量,撫萬民,度四方;教熊羆貔豹虎,以與赤帝戰於版泉之野,三戰然後得行其志。黃帝黼黻衣,大帶黼裳,乘龍扆雲,以順天地之紀,幽明之故,死生之,存亡之難。時播百穀草木,故教化淳鳥獸昆蟲,歷離日月星辰;極畋土石金玉,勞心力耳目,節用水火材物。生而民得其利百年,死而民畏其神百年,亡而民用其教百年,故曰三百年。」[孔子家語·五帝德王肅注] Phiên âm: Khổng Tử viết: “Hoàng Đế, Thiếu Điển chi tử dã, viết Hiên Viên. Sinh nhi thần linh, nhược nhi năng ngôn, ấu nhi tuệ tề, trường nhi đôn mẫn, thành nhi thông minh. Trị ngũ khí, thiết ngũ lượng, phủ vạn dân, độ tứ phương; giáo hùng bi tì báo hổ, dĩ dữ Xích Đế chiến ư Bản Tuyền chi dã, tam chiến nhiên hậu đắc hành kì chí. Hoàng Đế phủ phất y, đại đái phủ thường, thừa long ỷ vân, dĩ thuận thiên địa chi kỉ, u minh chi cố, tử sanh chi thuyết, tồn vong chi nan. Thì bá bách cốc thảo mộc, cố giáo hóa thuần điểu thú côn trùng, lịch li nhật nguyệt tinh thần; cực điền thổ thạch kim ngọc, lao tâm lực nhĩ mục, tiết dụng thủy hỏa tài vật. Sinh nhi dân đắc kì lợi bách niên, tử nhi dân úy kì thần bách niên, vong nhi dân dụng kì giáo bách niên, cố viết tam bách niên.” [Khổng Tử Gia ngữ • Ngũ Đế đức, Vương Túc chú] Dịch nghĩa: Khổng Tử nói: “Hoàng Đế, con trai của Thiếu Điển, tên là Hiên Viên. Ngài sinh ra đã là thần linh, từ thuở ấu thơ đã nói năng lưu loát, lúc bé vốn dĩnh ngộ, tề chỉnh, khi lớn lên thì trung thực mẫn tiệp, lúc thành niên thông tuệ sáng suốt. Ngài chế ngự ngũ khí [五氣 là một hệ thống phân loại trong Y học cổ truyền Trung Quốc, phân loại vạn vật dựa trên khí (mùi và hương), theo Ngũ Hành; hệ thống này, dựa trên thuyết Ngũ Hành, giải thích và suy luận mối liên hệ phức tạp giữa năm loại khí; ngũ khí bao hàm nhiều ý nghĩa trong Đông Y, nổi bật nhất là gió, nóng, ẩm, khô và lạnh HHN], thiết lập ngũ lượng [五量 bao gồm: i) 權衡 Quyền hành = cái cân, cân nhắc; ii) 升斛 Thăng hộc, đơn vị đo dung lượng, thăng/thưng= 1/10 đấu, 1 đấu = 10 lít (1 lít = 10 đề xi mét khối), hộc = 10 đấu; iii) 尺丈 Xích trượng = đơn vị đo độ dài thuộc hệ thập phân Trung Quốc cổ, 尺 xích (thước) = 33 cm;  trượng = 10 thước; iv) 裡步 lý bộ: 1 lý, 1 dặm = 500  m, 1 bộ = 5 xích, khoảng 1,66 m; v) 十百 thập bách, s đếm = 1000, HHN], an ủi dân chúng, đo lường bốn phương. Ngài dạy gấu đen, gấu ngựa, hổ trắng, hổ vằn, báo lớn đánh nhau với Xích Đế trên cánh đồng Bản Tuyền. Sau ba trận chiến, ngài đã thực hiện được ý nguyện của mình. Hoàng Đế khoác lễ phục Phủ phất thêu tinh xảo, đai lưng rộng Phủ thường (thêu hình rìu), cưỡi rồng nương mây mà bay; Ngài tuân theo phép tắc của trời đất, am tường nguyên do sáng tối, vận hành sinh tử và khốn khó tồn vong. Theo mùa, Ngài gieo trăm loài ngũ cốc, cây trái, nuôi dạy chim chóc, thú vật, côn trùng, chiêm ngắm mặt trời, mặt trăng và muôn vàn vì tinh tú; săn tìm đất đá, ngọc vàng, lao tâm khổ tứ, tiết dụng nước, lửa tài vật. Lúc sinh thời, dân chúng được lợi ích nhờ công đức của Ngài trong một trăm năm; khi nhắm mắt, dân chúng kính sợ Ngài trong một trăm năm; sau khi mất đi, dân chúng tuân theo lời dạy của Ngài trong một trăm năm. Vì vậy, mới nói là ba trăm năm. Khổng Tử Gia ngữ • Ngũ Đế đức, Vương Túc chú.HHN]

[Ghi chú về Khổng Tử Gia ngữ: 孔子家語Khổng Tử Gia ngữ, còn được gọi là孔氏家語Khổng Thị Gia ngữ, là một tác phẩm Nho giáo. Phiên bản hiện tại bao gồm mười tập và bốn mươi bốn chương, ghi lại những suy nghĩ, lời nói và hành động của Khổng Tử và các học trò của ông. Tác phẩm được Vương Túc thu thập tài liệu, hiệu đính và biên soạn trong thời Tam Quốc. Tác phẩm bao gồm các cuộc đối thoại giữa Khổng Tử và các học trò của ông, các chủ trương chính trị, luận bàn về nghi lễ, có tham chiếu các văn bản cổ như “Lễ kí”, “Thuyết uyển”. Từ thời nhà Tống đến thời hiện đại, các học giả vẫn nghi ngờ rằng đó là một tác phẩm giả mạo của Vương Túc. Tuy nhiên, các cuộc phát quật sách Thẻ tre ở Định Hiền, Hà Bắc vào năm 1973 và ở Phụ Dương, An Huy vào năm 1977 đã xác nhận rằng một số nội dung của Khổng Tử Gia ngữ có nguồn gốc từ các văn bản tiên Tần. Tác phẩm lần đầu tiên được đề cập trong ấn bản 27 tập của Hán thư: Nghệ văn chí. Sau khi ấn bản Hán thư bị thất lạc, bản chú giải của Vương Túc đã trở thành bản chính thức. Nghiên cứu văn bản thời nhà Thanh đã gây ra tranh cãi về tính xác thực của nó, và những khám phá khảo cổ học hiện đại đã dẫn đến việc đánh giá lại giá trị học thuật của Khổng Tử Gia ngữ. Năm 2020, bản sao ấn bản thời nhà Tống của Hoàng Lỗ Tăng thời nhà Minh đã được chọn vào đợt thứ sáu là “Quốc gia Trân quý Cổ tịch Danh lục” “Danh sách Quốc gia về Cổ thư Quý giá”.] [Ghi chú về Hoàng Lỗ Tăng 黃魯曾 (1487-1561), tự Đắc Chi, hiệu Trung Nam Tiên sinh, quê ở Trực Lệ, Ngô Huyện (nay là thành phố Tô Châu, tỉnh Giang Tô), là một học giả thời nhà Minh. Ông là anh trai của Hoàng Tỉnh Tăng. Sinh vào tháng 3 năm Đinh Tỵ đời Hoằng Trị (1487). Ông biên soạn nhiều sách, chẳng hạn như “Khổng Thị Ngữ Gia”, “Lương Hán Bác văn”, “Hán Đường Tấn Tứ truyện”, “Tiên gia Tứ thư”, “Đại hai tiểu hai lục”, “Thi thuyết” “chư tập hành ư bác thế”, tác phẩm “Đại hai tiểu hai lục” “Thi thuyết”. Ông mất vào tháng 6 năm Tân Dậu, niên hiệu Gia Tĩnh (1561) HHN].

[Ghi chú về họ Cơ của Hoàng Đế: ,出自黃帝,生於,為姓。黃帝生元囂,囂生蟜,蟜極,蟜生髙辛,是為帝嚳。嚳妃姜嫄感巨人跡,生子以為不祥,棄之隘巷,牛羊避不踐之,棄之山中。山人養之棄之。寒氷,鳥覆翼之。姜嫄怪之,知其為天子,乃收養之,名之曰棄堯,知其賢才以為大農,命其官曰后稷,姓之曰,姓也,人本乎祖之義也。黃帝為,棄復得之,所謂本乎祖也。棄為后稷有功,堯封之有斄裔孫公劉遷國於豳,古公亶父避狄,又遷於岐下。亶父生王季,厯厯生文王昌,又作邑於豐,稱西伯。其子發革,商有天下,是為周武王,自棄至武王十五世矣。武王至赧王又三十有八王,而秦滅周,氏降為庶人,或為王氏。漢武帝求周後,,封周子南君以奉文武之祀。至晉劉琨,甞遣将軍澹帥衆十萬討石勒,後周有柱國,隋有東宮幸臣威。(欽定四庫全書古今姓氏書辯證巻四宋鄧名世Phiên âm: Cơ tính, xuất tự Hoàng Đế, sinh ư Cơ Thủy, dĩ Cơ vi tính. Hoàng Đế sinh Nguyên Hiêu, Hiêu sinh Kiểu, Kiểu Cực, Kiểu sinh Cao Tân, thị vi Đế Khốc. Khốc phi Khương Nguyên cảm cự nhân tích, sinh tử dĩ vi bất tường, khí chi ải hạng, ngưu dương tị bất tiễn chi, khí chi sơn trung. Sơn nhân dưỡng chi khí chi. Hàn bang, điểu phúc dực chi. Khương Nguyên quái chi, tri kì vi thiên tử, nãi thu dưỡng chi, danh chi viết khí Nghiêu, tri kì hiền tài dĩ vi đại nông, mệnh kì quan viết Hậu Tắc, tính chi viết Cơ. Cơ giả, tính dã, nhân bổn hồ tổ chi nghĩa dã. Hoàng Đế vi Cơ tính, khí phục đắc chi, sở vị bản hồ tổ dã. Khí vi Hậu Tắc hữu công, Nghiêu phong chi hữu li duệ tôn công lưu thiên quốc ư bân, cổ công đản phụ tị địch, hựu thiên ư kì hạ. Đản Phụ sinh Vương Quý, Lịch Lịch sinh Văn Vương Xương, hựu tác ấp ư phong, xưng Tây Bá. Kì tử phát cách, thương hữu thiên hạ, thị vi Chu Vũ Vương, tự khí chí vũ vương thập ngũ thế hĩ. Vũ Vương chí noản vương hựu tam thập hữu bát vương, nhi tần diệt chu, Cơ Thị hàng vi thứ nhân, hoặc vi Vương Thị. Hán Vũ Đế cầu Chu hậu, đắc Cơ gia, phong Chu tử nam quân dĩ phụng văn vũ chi tự. Chí Tấn Lưu Côn, thường khiển tướng quân Cơ Đạm suất chúng thập vạn thảo thạch lặc, Hậu Chu hữu trụ quốc Cơ Nguyện, tùy hữu đông cung hạnh thần Cơ Uy. (Khâm định Tứ khố Toàn thư Cổ kim Tính Thị thư biện chứng Quyển tứ Tống Đặng Danh Thế soạn) Dịch: Họ Cơ bắt nguồn từ Hoàng Đế, sinh ra ở Cơ Thủy và lấy Cơ làm họ. Hoàng Đế sinh Nguyên Hiêu, Hiêu sinh Kiểu, Cực Kiểu, Cực sinh Cao Tân, là người trở thành Đế Khốc. Phi tần của Khốc là Khương Nguyên cảm ứng dấu chân của người khổng lồ, sinh con trai, nhưng lại coi là điềm gở. Bà đã bỏ rơi đứa hài nhi tại một lối mòn tít trong hẻm núi, đến nỗi bò dê cũng không mò tới. May thay, sơn nhân đã nuôi nấng đứa trẻ bỏ rơi, khi trời đông băng giá, chim chóc phủ cánh ủ ấm. Quá đỗi kinh ngạc, Khương Phi nhận ra hài nhi ấy chính là Thiên tử bèn đòi lại nuôi lớn, đặt tên là Khí Nghiêu, biết rõ là kẻ hiền tài, đã bổ nhậm ông làm quan Đại Nông, ban tước hiệu Hậu Tắc, họ Cơ. Cơ là họ vậy, hàm nghĩa kẻ có tổ tiên gốc gác. Hoàng Đế lấy họ Cơ, còn Khí thì kế thừa nó, vậy là nguồn gốc đó. Khí với tư cách Hậu Tắc có công lớn, nên Nghiêu ban cho ông tước hiệu. Cung Lưu, cháu trai của Hậu Tắc, dời đô đến đất Bân. Cổ Công Đản Phụ chạy trốn người Địch, di cư đến Kỳ Hạ. Đản Phụ sinh ra Vương Quý, và Kiến Kiến sinh ra Văn Vương Xương, là người cũng xây dựng thành ấp ở đất Phong và xưng là Tây Bá. Con trai của ông, Phát Cách, lập ra nhà Thương và trở thành Chu Vũ Vương của Nhà Chu. Từ Khí đến Vũ Vương gồm mười lăm đời. Từ Chu Vũ Vương đến Noãn Vương có ba mươi tám đời vua nữa. Khi Tần diệt Chu, họ Cơ bị biến thành thường dân, hoặc đôi khi mang họ Vương. Hán Vũ Đế tìm đến Chu Hoàng hậu, gặp được Cơ Gia, phong tước Chu Tử Nam Quân, để phụng thờ tổ tiên Văn Vương và Vũ Vương. Đến thời nhà Tấn Lưu Côn đã từng cử tướng Cơ Đạm dẫn một đội quân gồm 100.000 người để đẩy lùi Thạch Lặc. Nhà Hậu Chu có Cơ Nguyên, một trụ cột của quốc gia, và nhà Tùy có Cơ Uy, một vị quan được sủng ái của Đông Cung. HHN]

Theo Sử ký của Thái Sử Công, hai đối thủ là Viêm Đế và Xi Vưu mà Hoàng Đế phải đối đầu riêng biệt, hợp lại thành một câu chuyện duy nhất được lưu giữ trong nghi lễ “Thường Mạch” [嘗麥: Nếm Lúa mì là một nghi lễ tế tự hàng năm thời cổ được ghi lại trong từ vựng Hán ngữ. Nó đề cập đến nghi lễ dâng và nếm lúa mì mới thu hoạch vào tháng đầu tiên của mùa hè trong thời nhà Chu. Thuật ngữ này lần đầu tiên thấy trong Chương thứ năm mươi sáu của tác phẩm kinh điển thời tiên Tần là Dật Chu Thư. Nếm Lúa mì, ghi lại lễ thức dâng lúa mì mới trong đền thờ tổ tiên vào năm thứ tư của Chu Thành Vương. Nghi lễ cốt lõi bao gồm hai phần: đầu tiên, dâng lúa mì mới của năm cho tổ tiên để tỏ lòng biết ơn, sau đó Hoàng đế đích thân nếm lúa mì mới để hoàn thành nghi lễ, phản ánh cách thức tế tự cụ thể thời cổ đại trong một hệ thống nghi lễ chung. HHN] Nghi lễ 嘗麥 Thường Mạch được sách Dật Chu Thư mô tả như sau: 維四年孟夏,王初祈禱于宗廟,乃嘗麥于大祖。是月,王命大正正刑書,爽明,僕告既駕,少祝導王,亞祝迎王,降階,即假于大宗少宗少祕于社,各牡羊一,牡豕三,史導王于北階,王陟階,在東序,乃命大史尚,大正即居于西,南向,九州牧伯咸進在中,西向,宰乃承王中升自客階,作筴,執筴從中,宰坐,尊中于大正之前,大祝以王命作筴,告大宗,王命□□祕作筴,許諾,乃北向繇書于兩楹之閒。Phiên âm: Duy tứ niên mạnh hạ, vương sơ kì đảo vu tông miếu, nãi thường mạch vu đại tổ. Thị nguyệt, Vương mệnh Đại chính chính hình thư, sảng minh, bộc cáo kí giá, thiểu chúc đạo vương, á chúc nghênh vương, hàng giai, tức giả vu đại tông thiểu tông thiểu bí vu xã, các mẫu dương nhất, mẫu thỉ tam, sử đạo vương vu bắc giai, vương trắc giai, tại đông tự, nãi mệnh đại sử thượng, Đại chính tức cư vu hộ tây, nam hướng, cửu châu mục bá hàm tiến tại trung, tây hướng, tể nãi thừa vương trung thăng tự khách giai, tác sách, chấp sách tòng trung, tể tọa, tôn trung vu Đại chính chi tiền, đại chúc dĩ vương mệnh tác sách, cáo đại tông, vương mệnh □□ bí tác sách, hứa nặc, nãi bắc hướng dao thư vu lưỡng doanh chi nhàn. Dịch: Nếm Lúa Mì: Vào tháng Tư (Âm lịch) năm thứ tư Vương triều, nhà vua bắt đầu tế lễ tại đền thờ tổ tiên và sau đó nếm thử lúa mì với Đại Tổ. Trong tháng đó, nhà vua ra lệnh cho Đại Chính quan [Quan phụ trách Hình luật] tu chính Hình thư. Vào lúc dạng sáng, người hầu báo tin Vua [Thành Vương] đã đến. Thiếu chúc [Bồi tế] dìu nhà vua ra, và Á chúc [Phó tế] nghênh đón ông. Họ xuống các bậc thềm Cung điện và sau đó đi đến Tổ miếu. Đại Tông bá, Tiểu Tông bá [Tông bá là một chức quan danh chính thức cổ xưa của Trung Quốc, được lập ra ở thời Tây Chu, chức danh này được xếp dưới Tam Công và là một trong Lục Bộ, chịu trách nhiệm về các nghi lễ của Quốc gia. Nước Lỗ cũng lập ra chế độ Tông bá vào thời Xuân Thu, giám quản các nghi lễ như tế lễ tại Tổ miếu; sau đó người ta sử dụng danh hiệu “Đại Tông bá” để thay thế cho chức danh Lễ Bộ Thượng thư, trong khi “Tiểu Tông bá” thay thế cho chức danh Lễ Bộ Thị lang. HHN] Đại Tông bá, Tiểu Tông bá và quan Nội sử đến Xã miếu tế tự, dâng một con cừu đực và ba con lợn rừng. Quan Thái sử dẫn Nhà vua đến bậc thềm phía đông trước chính điện. Ngài bước lên bậc thềm và đứng trước bức tường phía đông của chính điện, lệnh cho Thái Sử quan đứng bên phải và Đại Chính quan đứng ở cửa hông phía tây, cả hai đều quay mặt về phía nam. Đại Tể bước lên bậc thềm dành cho khách vào chính điện, tay cầm quyển “Trung” giản sách - sách thẻ tre. Tác sách (người làm sách/sử quan) đi theo sau Đại Tể quan, tay cầm thẻ tre. Đại Tể ngồi xuống, cung kính đặt giản sách “Trung” trước mặt Đại Chính quan. Đại Chúc quan sai Tác sách cáo với Đại Tông bá, thừa lệnh Thành Vương khiến Nội sử. Tác sách quan vâng mệnh quay mặt về hướng bắc, tuyên đọc giản sách “Trung” giữa hai thềm điện.

[Chú: Đại Tể là tên của một chức quan thời cổ đại, lần đầu tiên thấy ở “Tả truyện - Ẩn Công Phụ thập nhất niên” trong truyện “Vũ thỉnh sát Hoàn Công, giới thì cầu Đại Tể”. Đại tể có địa vị lớn, chỉ đứng sau Hoàng đế. Trong thời Tây Chu, Đại Tể là quan chức cao nhất trong hệ thống Thiên Quan Trủng Tể. Thiên quan Trủng tể, là một trong sáu phần của Chu Lễ. Chu Lễ được chia thành sáu phần theo sáu loại quan, một trong số đó có Thiên quan. Thiên quan được tổ chức từ Đại Tể và Tiểu Tể đến Lũ Nhân [Quan phụ trách làm giày dép cho Hoàng gia] và Hạ Thải, bao gồm 62 loại quan lại. Trong số đó, Trủng Tể là người đứng đầu sáu vị quan và đứng đầu trăm cung. Nhiệm vụ của ông là quản lý các công việc chính phủ của thế giới và giúp vua cai trị thế giới. Hai người được gọi chung là Chu lễ - Thiên quan Trủng tể, Phần I. Trủng Tể, là một chức danh chính thức, là một tên gọi khác của Thái Tể. Thái Tể ban đầu là một quan phụ trách tài chính của hoàng gia và các công việc trong cung điện. Khi Chu Vũ Vương băng hà, Chu Thành Vương còn trẻ, và Chu Công đã từng giữ chức nhiếp chính với tư cách là Trủng tể. Sách “Luận ngữ Hiến vấn” của Khổng Tử có viết: 「君薨,百官總己,以聽於塚宰三年。“Quân hoăng, bách quan tổng kỉ, dĩ thính vu Trủng tể tam niên.” “Khi vua băng hà, tất cả các quan tụ họp lại và nghe theo Trủng tể trong ba năm”. Trủng tể là người cai quản Nội triều. Theo sách Chu Lễ, với tư cách Thiên quan, ông trở thành người đứng đầu trong sáu vị đại thần và nắm giữ quốc sự. Trịnh Huyền chú giải: 「變塚言大,進退異名也。百官總焉,則謂之塚言大,則稱大。塚者,大之上也。山頂曰塚。 Biến trủng ngôn đại, tiến thoái dị danh dã. Bách quan tổng yên, tắc vị chi trủng ngôn đại, tắc xưng đại. Trủng giả, đại chi thượng dã. Sơn đính viết Trủng.” “Biên Trủng nghĩa là “lớn”, và tên gọi khác nhau tùy theo tình huống. Nơi nào các quan tụ họp, nơi đó gọi là Trủng. Khi nói “Trủng”, thì đó tất là “Đại” vậy. Trủng nghĩa là ở trên Đại vậy. Đỉnh núi gọi là Trủng.” HHN]

[Chú: Lũ Nhân, 疏〈「屨人」者:《·履部》雲「屨,履也」。賈疏雲「案:其職雲『掌王及後之服屨』,故從官衣服,亦連類在此。若然,追師專掌婦人首服,此屨人兼男子,屨舄在下體,賤,故男子婦人同在此官也」。雲「工八人」者:蓋以韋氏之工為之。《呂氏春秋·召類篇》「子罕曰南家工人也,為者也」,高注云「,履也,作履之工也」,亦此工之類。〉Phiên âm: Sớ [‘Lũ nhân’ giả: “Thuyết văn • Lí bộ” vân ‘lũ, lí dã’. Giả [Công Ngạn?] sớ vân ‘Án: kì chức vân “Chưởng vương cập hậu chi phục lũ”, cố tòng nội quan y phục, diệc liên loại tại thử. Nhược nhiên, truy sư chuyên chưởng phụ nhân thủ phục, thử lũ nhân kiêm nam tử, lũ tích tại hạ thể, tiện, cố nam tử phụ nhân đồng tại thử quan dã’. Vân ‘công bát nhân’ giả: cái dĩ vi thị chi công vi chi. “Lữ Thị Xuân Thu • Triệu loại Thiên” ‘Tử Hãn viết Nam gia công nhân dã, vi man giả dã’, Cao chú vân ‘man, lí dã, tác lí chi công dã’, diệc thử công chi loại.] Dịch: Chú thích: “Sách Thuyết văn: Lý bộ” chép “lũ” là “lý” vậy. Chú thích của Giả [Công Ngạn]: “Ghi chú: Nhiệm vụ của [Lũ nhân] là “chăm sóc y phục [quần áo giày dép] của vua và hoàng hậu”, nên ông ta cũng chăm lo y phục cho toàn bộ nội triều. Thế có nghĩa là, vị Truy sư [追師] này phụ trách vương miện, mũ áo của phụ nữ, và vị đó là nam giới. Giày dép được mang dưới thân và có vị thế thấp, nên cả nam lẫn nữ đều có thể giữ chức vụ này”. Việc nói “Tám người làm" công việc này, có lẽ ám chỉ những người này là họ Thuộc da. Sách “Lã Thị Xuân Thu: Triệu loại Thiên” chép “Tử Hãn nói rằng thợ thủ công nhà họ Nam đều là những người làm giày”, và ghi chú của Cao chép “Thuộc da là để làm giày dép vậy”, cũng tương tự như những người ấy vậy.

[Chú giải “hạ thải”: 疏「夏采」者:《釋文》雲「采,或作菜」。案:采、菜字通。賈疏雲「在此者,其職雲『掌大喪,以冕服復於大祖,以乘車建緌復於四郊』,喪事是終,故在末職也」。求之王平生常所有事之處也。乘車,玉輅。Phiên âm: Sớ [hạ thải] giả: “Thích văn” vân ‘thải, hoặc tác thái’. Án: thải, thái tự thông. Cổ sơ vân ‘tại thử giả, kì chức vân [chưởng đại tang, dĩ miện phục phục ư đại tổ, dĩ thừa xa kiến nhuy phục ư tứ giao], tang sự thị chung, cố tại mạt chức dã’. Cầu chi vương bình sanh thường sở hữu sự chi xứ dã. Thừa xa, ngọc lộ. Dịch: “Thích văn” nói “thải, hoặc thái”. Chú thích: ‘thải’ và ‘thái’ là cùng một từ. Chú giải của Giả Ngạn nói: “Ở đây, nhiệm vụ của Hạ thải là ‘chủ trì tang lễ lớn, dâng vương miện, mũ áo, phục sức cho Tổ tiên, và đưa xe ngựa và tinh kỳ ra bốn ngoại ô'. Đó là nơi nhà vua thường hành lễ. Còn cỗ xe thì to lớn và trang hoàng lộng lẫy.” HHN chú]

Một phần liên quan đến việc viết Hình thư [刑書 là một thuật ngữ Hán ngữ chuyên dùng để chỉ các điều luật hình sự thành văn. Thuật ngữ này lần đầu tiên được thấy trong chương “Thượng thư - Lữ hình”, ghi lại 3.000 điều luật hình sự do Lữ Hầu soạn thảo dưới thời vua Chu Mục Vương nhà Chu. Vào thời Xuân Thu, nước Trịnh đã khắc các điều hình luật lên một chiếc đỉnh ba chân (năm 536 TCN), tạo tiền lệ cho việc phổ biến hình luật thành văn. Thuật ngữ này phản ánh quan niệm cổ xưa về việc sử dụng hình luật để hỗ trợ giáo dục trong các tác phẩm kinh điển như “Thượng Thư - Đại Vũ Mô” và “Tả Truyện – Chiêu Công Lục niên”. “Cửu hình” và “Lã hình” thời Tây Chu đều là những hình thức sơ khai của Hình thư. HHN] — trong逸週Dật Chu Thư. [Dật Chu Thư, còn được gọi là Chu thư và Chu chí, sau thời nhà Tùy và nhà Đường được gọi là “Lậu trủng Chu thư”. Đây là một cuốn sách lịch sử thời tiên Tần ở Trung Quốc. Cuốn sách bao gồm mười tập. “Hán thư - Nghệ văn chí” liệt vào “lục nghệ” sáu nghề tinh, còn Tứ Khố Toàn thư thì phân loại là một bộ sử riêng biệt. Tương truyền, Dật Chu Thư là những gì còn lại () sau khi Khổng Tử san định Thượng Thư, và đó là một chương bị thất lạc của Thượng Thư (尚書·周書·逸篇 Thượng thư-Chu thư-Dật thiên) do đó có tên như vậy. Thái Ung triều Đông Hán tin rằng tác giả của Dật Chu Thư là Chu Công.]

Một giả thuyết cho rằng Dật Chu Thư được phát quật ở Cấp Trủng vào năm Hàm Ninh ngũ niên thời Tấn Vũ đế (năm 279 sau Công nguyên), [“Cấp Trủng” 汲塚 - nghĩa đen: Gò mộ huyện Cấp - là một cái tên quan trọng trong lịch sử Trung Quốc, gắn liền với việc phát hiện ra những thẻ tre từ thời Chiến Quốc. Nói đến cái tên này chủ yếu ám chỉ “Thẻ tre Cấp Trủng” được phát quật từ một ngôi mộ cổ ở huyện Cấp vào thời Tây Tấn. Vào năm Hàm Ninh thứ năm (279) hoặc năm Thái Khang thứ hai (281) thời Tây Tấn, bọn trộm mộ ở huyện Cấp đã khai quật lăng mộ của vua Ngụy cuối thời Chiến Quốc và phát hiện hàng chục xe đẩy thẻ tre khắc chữ hình nòng nọc, được gọi là “Thẻ tre Cấp Trủng”. Những thẻ tre này thuộc thời Chiến Quốc quy mô lớn đầu tiên được khai quật trong lịch sử Trung Quốc, và được coi là một trong ba phát hiện vĩ đại trong lịch sử văn hóa Trung Quốc, cùng với Cổ thư và Giáp cốt văn. Sau khi bị triều đình tịch thu, những thẻ tre này đã bị bọn trộm mộ đốt làm đuốc, khiến chúng không còn nguyên vẹn. Tấn Vũ Đế đã giao cho Tuân Úc, Hòa Kiệu, Thúc Tích và những người khác chỉnh lý. Trong hơn hai mươi năm, họ đã biên soạn 《竹書紀年》 “Trúc thư Kỉ niên” và 《穆天子傳》“Mục Thiên tử truyện”, mỗi cuốn chứa hơn bảy mươi văn bản lịch sử, lấp đầy những khoảng trống trong biên niên sử của nhà Hạ và nhà Thương. Nhưng Dật Chu Thư đã được đề cập đến trong “Hán thư - Nghệ văn chí”, cho thấy rằng trên thế giới này, cho đến thời nhà Tấn người ta không hề biết đến Dật Chu Thư. Các học giả hiện đại suy đoán rằng phiên bản hiện tại của Dật Chu Thư được người Tấn biên soạn bằng cách kết hợp Dật Chu Thư lưu hành thời nhà Hán với Chu Thư phát quật ở Cấp Trủng. Phiên bản hiện tại có 10 tập, 70 chương chính văn và 11 chương có tiêu đề nhưng không có văn bản. Vương Sỹ Hán (1669) là người đầu tiên mô tả tình trạng này. Trước đó, việc lưu hành các chương vẫn là vấn đề tranh luận trong giới học thuật. Cuốn sách ghi lại các sự kiện lịch sử dưới thời các vua Chu Văn Vương, Chu Vũ Vương, Chu Công, Thành Vương, Khang Vương, Mục Vương, và Lệ Vương. HHN]

Câu chuyện này là một phần trong huấn ngôn của vua Chu với Đại Chính quan [大正 vị quan phụ trách hình phạt] như sau: 王若曰:「昔天之初,誕作二後,乃設建典,命赤帝分正二卿,命蚩尤宇於少昊,以臨四方,司□□上天未成之慶,蚩尤乃逐帝,爭於涿鹿之河,九隅無遺,赤帝大懾,乃於黃帝,執蚩尤殺之於中冀,以甲兵釋怒,用大正,順天思序,紀於大帝,用名之曰轡之野,乃命少昊清司馬鳥師,以正五帝之官,故名曰質,天用大成Phiên âm: Vương nhược viết: ‘Tích thiên chi sơ, đản tác nhị hậu, nãi thiết kiến điển, mệnh Xích Đế phân chính nhị khanh, mệnh Xi Vưu vũ ư Thiếu Hạo, dĩ lâm tứ phương, ti □□ thượng thiên vị thành chi khánh, Xi Vưu nãi trục đế, tranh ư Trác Lộc chi hà, cửu ngung vô di, Xích Đế đại nhiếp, nãi thuyết ư Hoàng Đế, chấp Xi Vưu sát chi ư Trung Kí, dĩ giáp binh thích nộ, dụng Đại chính, thuận thiên tư tự, kỉ ư đại đế, dụng danh chi viết ‘tuyệt bí chi dã’, nãi mệnh Thiếu Hạo thanh Tư Mã Điểu Sư, dĩ chính ngũ đế chi quan, cố danh viết Chí, thiên dụng đại thành. Dịch: Vương Nhược nói: Thuở sơ khai, sinh ra hai Đế, lập nên điển sách, sai Xích Đế bổ nhậm hai vị khanh tướng, khiến Xi Vưu đến ngụ ở chỗ Thiếu Hạo trông coi bốn phương, chưởng quản…việc khánh chúc Thiên thượng chưa trọn. Xi Vưu bèn xua đuổi Hoàng Đế, đánh nhau ở sông Trác Lộc, chín khúc không chừa chỗ nào. Xích Đế vô cùng sợ hãi, bèn khuyên giải Hoàng Đế, bắt Xi Vưu giết chết tại Trung Ký, lấy quân binh để xoa dịu cơn giận. Ngài dùng Đại chính quan [Quan phụ trách hình luật], thuận theo ý trời, suy nghĩ về mệnh lệnh, ghi chép vào Đại Đế [Luật Trời], đặt tên là “Cánh đồng dứt cương”. Ngài sai Thiếu Hạo thanh lý hệ thống Tư mã Điểu sư, chỉnh đốn các quan lại của Ngũ Đế, nên gọi là Chí. Trời dùng kẻ Đại Thành.

Ghi chú về王若曰: “Vương nhược viết” điển hình là trong sách Thượng thư còn gọi là Kinh thư. Theo Lôi Gia Thánh trong bài viết《尚書》中「王若一詞之探討:兼論古代歷史教育的作用,“Thượng thư” trung ‘Vương nhược viết’ nhất từ chi tham thảo: Kiêm luận Cổ đại Lịch sử Giáo dục đích tác dụng thì [Nghiên cứu về từ “Vương nhược viết” trong Thương Thư: và thảo luận về vai trò của giáo dục lịch sử cổ đại.] thì Kinh Thư là một trong những bộ kinh điển lâu đời nhất của Trung Quốc, và nó chủ yếu ghi chép lời các Đế vương xưa. Vì vậy 劉知幾Lưu Trí Cơ [năm 661-721, tự Tử Huyền, người huyện Bành Thành, Từ Châu, là quan lại, sử gia thời Đường, xuất thân từ họ Lưu Bành Thành, con trai Lưu Tàng K, em trai Lưu Chí Nhu. HHN] trong tác phẩm《史通.六家篇》Sử thông - Lục gia thiên cho rằng:「古往今來,質文遞變。諸史之作,不恆厥體。而為論其流有六:一日尚書家,二日春秋家,三曰左傳家,四日國語家,五日史記家,六日漢書家。蓋《書》之所主,本於號令,所以宣工道之正義,發話言於臣下,故其所載,皆典,謨,訓,誥,誓,命之文。至如堯舜二典,直序人事:〈禹貢〉一篇,唯言地理;〈洪範〉總述災祥。〈顧命〉都陳喪禮,茲亦為例不純者也。既然《尚書》的體裁是以記言為主,則其文章的容即應為古代人物所的話,其形式則是以「王曰」,「周公曰」為開頭,然後帶出話者所的言論。Phiên âm ‘Cổ vãng kim lai, chất văn đệ biến. Chư sử chi tác, bất hằng quyết thể. Nhi vi luận kì lưu hữu lục: nhất nhật Thượng Thư gia, nhị nhật Xuân Thu gia, tam viết Tả Truyện gia, tứ nhật Quốc Ngữ gia, ngũ nhật Sử Kí gia, lục nhật Hán Thư gia…Cái “Thư” chi sở chủ, bản ư hào lệnh, sở dĩ tuyên công đạo chi chánh nghĩa, phát thoại ngôn ư thần hạ, cố kì sở tái, giai điển, mô, huấn, cáo, thệ, mệnh chi văn. Chí như Nghiêu Thuấn nhị điển, trực tự nhân sự; “Vũ cống” nhất thiên, duy ngôn địa lí; “Hồng phạm” tổng thuật tai tường. “Cố mệnh” đô trần tang lễ, tư diệc vi lệ bất thuần giả dã.’ Kí nhiên “Thượng thư” đích thể tài thị dĩ kí ngôn vi chủ, tắc kì văn chương đích nội dung tức ứng vi cổ đại nhân vật sở thuyết đích thoại , kì hình thức tắc thị dĩ ‘vương viết’, ‘Chu Công viết’ vi khai đầu, nhiên hậu đái xuất thuyết thoại giả sở thuyết đích ngôn luận. Dịch: “Từ xưa đến nay, chất lượng và phong cách viết đã thay đổi. Cách viết của các bộ sử không phải lúc nào cũng giống nhau. Tuy nhiên, có sáu lưu phái: thứ nhất là Thượng Thư, thứ hai là Xuân Thu, thứ ba là Tả Truyện, thứ tư là Quốc Ngữ, thứ năm là Sử Ký, thứ sáu là Hán ThưKinh Thư chủ yếu dựa trên các mệnh lệnh và chỉ thị, dùng để truyền bá chính đạo và hướng dẫn thần dân. Do đó, nội dung của nó đều là các văn bản kinh điển, chỉ thị, lời răn, tuyên thệ và sắc lệnh”. Còn hai Kinh điển của Nghiêu và Thuấn, thì trực tiếp bày tỏ các vấn đề con người; chương “Vũ cống”  chỉ bàn về địa lý; “Hồng phạm” tóm tắt về lành dữ; “Cố mệnh” trình bày nghi lễ tang ma. Đây cũng là những ví dụ không thuần túy.” Vì Kinh Thư chủ yếu ghi chép lời nói, nên nội dung của nó phải là lời nói của các Đế vương xưa, và hình thức của nó cần phải bắt đầu bằng “Vua nói” hoặc “Chu Công nói”, sau đó giới thiệu lời của người nói…Tuy nhiên, nhìn vào toàn bộ Kinh Thư, chúng ta có thể thấy rằng王若曰 ‘Vương nhược viết’ và 周公若曰 ‘Chu Công nhược viết’ được sử dụng ở nhiều nơi. Chúng có thể được tìm thấy trong các chương như “Bàn Canh thượng”, “Vi tử”, “Vũ thành”, “Đại cáo”, “Vi tử chi mệnh”, “Khang cáo”, “Tửu cáo”, “Lạc cáo”, “Đa sĩ”, “Thái trọng chi mệnh”, “Đa phương”, “Lập chánh”, “Quân trần”, “Khang Vương chi cáo”, “Tất mệnh”, “Quân nha”, “Quýnh mệnh”, và “Văn Hầu chi mệnh”. Dựa trên các ghi chép trên, chúng ta biết rằng chữ ‘nhược’ trong 王若曰 ‘Vương nhược viết’ [Thượng thư Khổng truyện] được giải nghĩa là ‘thuận’. “Thuyết văn Giải tự chú” của Đoàn Ngọc Tài giải thích chữ như sau: Mao Truyện nói: ‘nhược’ nghĩa là ‘thuận’. Nó cũng được dùng như một phép ẩn dụ cho ‘như’, ‘nhiên’, ‘nãi’, ‘nhữ’, và cũng là một thuật ngữ bao hàm.” Điều này cho thấy chữ ‘nhược’ có thể được giải nghĩa là ‘thuận’. Tuy nhiên, việc giải nghĩa ‘nhược’ là ‘thuận’ và 王若曰 ‘Vương nhược viết’ là ‘thuận theo hoàn cảnh’ 順其事而言之thuận kì sự nhi ngôn chi’ nghe có vẻ xa vời. Hơn nữa, trong các chương của “Đại cáo”, “Khang cáo”, “Tửu cáo”, “Lạc cáo”, “Đa sĩ”, “Đa phương”, “Tất mệnh”, “Văn hầu chi mệnh”, ngoài việc sử dụng ‘vương nhược viết’, các đoạn khác cũng sử dụng ‘vương viết’. Trong chương “Lập chính”, xuất hiện ‘Chu  Công nhược viết’, và các đoạn sau cũng sử dụng  ‘Chu Công viết’. Cùng một sắc lệnh, với một số đoạn thể hiện ‘thuận kì sự nhi ngôn chi’ [順其事而言之] và một số khác thì không, lại có vẻ phi logic-.] Dẫn theo 雷家聖:《尚書》中「王若日」一詞之探討:兼論古代歷史教育的作用.歷文教育.第八期,二一早十二月. Lôi Gia Thánh: ‘“Thượng thư” trung ‘Vương nhược viết’ nhất từ chi tham thảo: Kiêm luận Cổ đại Lịch sử Giáo dục đích tác dụng thì.” Vấn đề này sẽ còn được thảo luận tiếp - HHN]

[Ghi chú về 轡之野: “Tuyệt bí chi dã” [Cánh đồng ngựa bứt cương lao vút đi] trong đó tuyệt bí’ là một từ đôi tiếng Hán, có nghĩa đen là dứt dây cương, mô tả trạng thái của một con ngựa bứt cương lao vút đi. Trong các sách cổ, từ này thường được dùng để mô tả sức mạnh bùng nổ của một con ngựa chiến khi nó thoát khỏi sự trói buộc. Vào thời nhà Đường, ‘Mao Thi chính nghĩa tự’  của Khổng Anh Đạt đã mang đến cho nó hình ảnh thanh nhã bằng cách nói 騁轡於千里 sính tuyệt bí vu thiên lý ‘bứt cương phóng ngàn dặm’, mang ý nghĩa mở rộng là ẩn dụ cho tài năng xuất chúng.] 

[Ghi chú về司馬鳥師Tư Mã Điểu Sư: Thuật ngữ “Điểu sư” là một danh hiệu của hệ thống chức vụ chính thức có nguồn gốc từ bộ tộc Thiếu Hạo cổ đại. Đặc điểm cốt lõi của nó là thiết lập một hệ thống chức vụ chính thức dựa trên tên của các loài chim. Theo ghi chép trong Tả Truyện và Hán Thư, khi bộ tộc Thiếu Hạo lập quốc, chim Phượng hoàng liền bay đến. Do đó, các ban bệ quan trọng như lịch pháp, khí tượng và thời tiết được đặt theo tên của các loài chim như “Phượng hoàng” và “Huyền điểu”, tạo thành một hệ thống quan danh chính thức độc đáo. Hệ thống này hình thành mối quan hệ liên văn bản với các thuật ngữ như “Điểu ti”, “Điểu quan” trong văn liệu Trung Quốc cổ đại, phần nào gợi lại quan niệm vật tổ của các bộ tộc xưa. Thể chế Điểu sư gợi lên mối liên tưởng đến hệ thống văn bản hình chim chạm khắc trên trống đồng Đông Sơn của ta, và có thể phát triển thành một lĩnh vực nghiên cứu thú vị. HHN]

_________________________________

(Còn nữa…)

Nguồn: Trương Hãn Mặc (張瀚墨 Zhang Hanmo). From Myth to History: Historicizing a Sage for the Sake of Persuasion in the Yellow Emperor Narratives, In Journal of Chinese Humanities, No. 3 (2017) 91- 116.

Tác giả: Trương Hãn Mặc (張瀚墨), nam, sinh năm 1971, là Phó Giáo sư tại Khoa Nghiên cứu Trung Quốc, Đại học Nhân dân Trung Quốc. Tốt nghiệp Đại học Nhân dân Trung Quốc, chuyên ngành nhân khẩu học năm 1994; nhận bằng Thạc sĩ, Đại học Nhân dân Trung Quốc, chuyên ngành văn học hiện đại và đương đại năm 1997; nhận bằng Thạc sĩ, Đại học Western Michigan năm 2005 chuyên ngành lịch sử Trung Quốc cổ đại; nhận bằng Tiến sĩ Đại học California, Los Angeles, chuyên ngành lịch sử, văn học và triết học Trung Quốc Sơ kỳ, năm 2012. Ông chuyên nghiên cứu về Trung Quốc cổ đại; từng là thỉnh giảng Khoa Ngôn ngữ và Văn học Châu Á tại Đại học California, Los Angeles và là Trợ lý Giáo sư tại Đại học Bang New York ở Newcastle.

Chú thích

39 Some commentators suggest is a mistaken rendering of , denoting Mount Zhuolu instead of a river. See Huang Huaixin 黃懷信 et al., Yi Zhoushu huijiao jizhu 逸周書彙校 集注 (Shanghai: Shanghai guji chubanshe, 2007), 732-733.

40 Most commentators tend to think that is , meaning Shao Hao. See ibid., 734-736.

41 The term wudi 五帝 is interpreted as the five elements with the reference from Shanzi’s 剡子 speech recorded in the Zuozhuan [Zuo Commentaries]. See “Zhao,” in Yang Bojun 楊伯峻, Chunqiu Zuozhuan zhu 春秋左傳注 (Beijing: Zhonghua shuju, 1990), 17.3:
1386-1388.

42 昔天之初,[character missing] 作二后,乃設建典,命赤帝分正二卿,命蚩尤宇于少昊,以臨四方,司 [two characters missing] 上天未成之慶。蚩尤乃逐帝,爭于涿鹿之河,九隅無遺。赤帝大懾,乃說于黃帝,執蚩尤殺之于中冀。以甲兵釋怒,用大正。順天思序,紀于大帝,用名之曰絕轡之野。乃命少昊請司馬鳥師,以正五帝之官,故名曰質。天用大成,至于今不亂Huang et al., Yi Zhoushu huijiao jizhu, 730-736.

43 Huang et al., Yi Zhoushu huijiao jizhu, 731.

44 Li Xueqin 李學勤, “‘Changmai’ pian yanjiu《嘗麥》篇研究,” in Dangdai xuezhe zixuan wenku: Li Xueqin juan 當代學者自選文庫:李學勤卷 (Hefei: Anhui jiaoyu chubanshe,1999), 575. For related information in the postscript of the Yi Zhoushu, see Huang et al.,Yi Zhoushu huijiao jizhu, 1133.

45 Li, “ ‘Changmai’ pian yanjiu,” 575.

46 “Zhao,” in Yang, Chunqiu Zuozhuan zhu, 6.3: 1274-1277. The strong disagreement expressed in Shu Xiang’s 叔向 letter to Zichan for the latter’s drafting of legal writings seems to suggest that at that time legal writings were rather innovative. Those earlier legal writings mentioned by Shu Xiang in his letter, such as the “Punishment of Yu [Yu xing 禹刑],” the “Punishment of Tang [Tang xing 唐刑],” and the “Nine Punishment (Writings)” that Li Xueqin tends to believe as the Western Zhou legal writings, make more sense to the over- all debate in the Zuozhuan context if we understand them as rhetorical devices, rather than historical documents.

47 Wang, Gushi chuanshuo shidai xintan, xi-xvii; for Shao Hao’s naming of his officials, see “Zhao,” in Yang, Chunqiu Zuozhuan zhu, 17.3: 1386-1388; for the “Baoxun” bamboo strips and text, see Li Xueqin, ed., Qinghua daxue cang Zhanguo zhujian 清華大學藏戰國 竹簡 (Shanghai: Zhongxi shuju, 2010), 1: 8-9, 55-62, 142-148.

48 Wang, Gushi chuanshuo shidai xintan, 8-9. Here Wang Hui refers to the contents of the bronze inscriptions on the “Chenhou Yin Qi dui.” Cf. Xu, ‘Chenhou siqi kaoshi”; Ding Shan, 丁山, Gudai shenhua yu minzu 古代神話與民族 (Beijing: Shangwu yinshuguan, 2006), 154-178; Guo, “Liang Zhou jinwenci daxi kaoshi,” 464-466; Wang, Gushi chuanshuo shidai xintan, 7-9; Mori, Kōtei densetsu, 149-174; Lewis, Sanctioned Violence in Early China, 165-212.

49 “Zhao,” in Yang, Chunqiu Zuozhuan zhu, 15.1: 1369; see both the main text of the Zuo Commentaries and the notes by Yang Bojun.

50 “Min,” in ibid., 2; “Zhao,” in ibid., 15; “Zhao,” in ibid., 25; “Ding,” in ibid., 8.

51 “Shengmin,” 17: 1055-1078.

52 Huang et al., Yi Zhoushu huijiao jizhu, 965-966.

53 Yang Shoujing 楊守敬 and Xiong Huizhen 熊會貞, Shuijingzhu shu 水經註疏 (Nanjing: Jiangsu guji chubanshe, 1989), 1184-1186.

54 “Wudi benji,” 1: 5.

55 Qian Mu, Guoshi dagang 國史大綱 (Beijing: Shangwu yinshuguan, 1991), 10; Liang Yusheng 梁玉繩, Shiji zhiyi 史記志疑 (Beijing: Zhonghua shuju, 1981), 3-4.

56 Some scholars attempt to solve this problem with the support of archaeological data. For example, Han Jianye and Yang Xin’gai believe that the Miaodigou 廟底溝 and Hougang 後崗 archaeological cultures in the present-day area of Zhuolu correspond to the Huangdi and Chi You groups, respectively. The conflicts between the Huangdi and Yandi clans are archaeologically reflected in the interaction between the Zaoyuan 棗園 culture in Shanxi and the Banpo 半坡 culture in Guanzhong 關中. This kind of match obviously accepts the interpretation on the locations of the three ancient groups provided by textual information as preknowledge. Archaeological cultures do not explain specific historical events or heroical biographies. For this reason, K. C. Chang laments that most of the pre-Shang legendary history cannot be proved by archaeological data (“Shang Zhou shenhua zhi fenlei,” 287; see also Han and Yang, Wudi shidai, 154-156.

Tài liệu dẫn

Ban Gu 班固. Hanshu 漢書 [History of the Han]. Beijing: Zhonghua shuju, 1962.

Boltz, William G. “Kung Kung and the Flood: Reverse Euhemerism in the Yao Tian.” T’oung Pao 67, nos. 3-5 (1981): 141-153.

Bulfinch, Thomas. Bulfinch’s Mythology. Whitefish: Kessinger, 2004.

Chang, K. C. (Zhang Guangzhi) 張光直. “Shang Zhou shenhua zhi fenlei 商周神話之分類.” In his Zhongguo qingong shidai 中國青銅時代, 285-326. Taibei: Lianjing Chuban Shiye gufen you xian gong si, 2005.

Chen Guying 陳鼓應. Huangdi sijing jinzhu jinyi: Mawangdui Hanmu chutu boshu 帝四經今注今譯. Beijing: Shangwu yinshuguan, 2011.

Chen Mengjia 陳夢家. “Shangdai de shenhua yu wushu 商代的神話與巫術.” Yanjing xuebao 20 (1936): 532-576.

Chen Ping 陳平. “Lüelun Banquan Zhuolu Dazhan qianhou Huangdi zu de lailongqumai 略論阪泉、涿鹿大戰前後黃帝族的來龍去脈.” In Yan Qin wenhua yanjiu: Chenping xueshu wenji 燕秦文化研究:陳平學術文集, 352-360. Beijing: Beijing yanshan chubanshe, 2003.

Chen Qiyou 陳奇猷. Lüshi chunqiu jiaoshi 呂氏春秋校釋. Shanghai: Xuelin chubanshe, 1995.

Csikszentmihalyi, Mark. “Reimagining the Yellow Emperor’s Four Faces.” In Text and Ritual in Early China, ed. Martin Kern, 226-248. Seattle: University of Washington Press, 2005.

Ding Shan 丁山. Gudai shenhua yu minzu 古代神話與民族. Beijing: Shangwu yinshuguan, 2006.

Fang Xiangdong 方向東, ed. Da Dai liji huizhu jijie 大戴禮記匯注集解. Beijing: Zhonghua shuju, 2008.

Guo Moruo 郭沫若. “Yin qi cuibian 殷契粹編.” In Guo Moruo qianji 郭沫若全集 (Kaogubian 考古編), vol. 4. Beijing: Kexue chubanshe, 2002a.

Guo Moruo 郭沫若. “Yin Zhou qingtongqi mingwen yanjiu 殷周青銅器銘文研究.” In Guo Moruo qianji 郭沫若全集 (Kaogu bian 考古編), vol. 5. Beijing: Kexue chubanshe, 2002b.

Guo Moruo 郭沫若. “Liang Zhou jinwenci daxi kaoshi 兩周金文辭大系考釋.” In Guo Moruo qianji 郭沫若全集, vol. 8. Beijing: Kexue chubanshe, 2002c.

Han Jianye 韓建業 and Yang Xin’gai 楊新改. Wudi shidai: Yi Huaxia wei hexin de gushitixi de kaogu guan cha 五帝時代:以華夏為核心的古史體系的考古觀察. Beijing: Xueyuan chubanshe, 2006.

Honko, Lauri. “The Problem of Defining Myth.” In Sacred Narrative: Readings in the Theory of Myth, ed. Alan Dundes, 41-52. Berkeley: University of California Press, 1984.

Hsu, Cho-yun, and Katheryn Linduff. Western Zhou Civilization. New Haven: Yale University Press, 1988.

Huang Huaixin 懷信 et al. Yi Zhoushu huijiao jizhu 逸周書彙校集注. Shanghai: Shanghai guji chubanshe, 2007.

Huangdiling jijinhui 帝陵基金會. Huangdi wenhua zhi 帝文化志. Xi’an: Shanxi renmin chubanshe, 2008.

Huangfu Mi 皇甫謐. Di wang shi ji 帝王世紀. Shenyang: Liaoning jiaoyu chubanshe, 1997.

Jan, Yün-hua. “The Change of Images: The Yellow Emperor in Ancient Chinese Literature.” Journal of Oriental Studies 19, no. 2 (1981): 117-137.

Jiang Linchang 江林昌. “Zhongguo shoujie Huangdi wenhua xueshu yantaohui zongshu 中國首屆黃帝文化學術研討會綜述.” Xueshu yuekan 4 (2001): 83-85.

LeBlanc, Charles. “A Re-Examination of the Myth of Huang-ti.” Journal of Chinese Religions 13-14 (1985-1986): 45-63.

Lewis, Mark. Sanctioned Violence in Early China. Albany: State of University of New York Press, 1990.

Li Shoukui 李守奎 and Li Yi 李軼. Shizi yizhu 尸子譯註. Harbin: Heilongjiang renmin chubanshe, 2003.

Li Xueqin 李學勤. “ ‘Changmai’ pian yanjiu《嘗麥》篇研究.” In Dangdai xuezhe zixuan wenku: Li Xueqin juan 當代學者自選文庫:李學勤卷, 568-577. Hefei: Anhui jiaoyu chubanshe, 1999.

Li Xueqin 李學勤, ed. Qinghua daxue cang Zhanguo zhujian 清華大學藏戰國竹簡, vol. 1. Shanghai: Zhongxi shuju, 2010.

Liang Yusheng 梁玉繩. Shiji zhiyi 史記志疑. Beijing: Zhonghua shuju, 1981.

Liji zhengyi 禮記正義. Shisanjing zhushu (biaodian ben) 十三經注疏 (標點本). Beijing: Beijing daxue chubanshe, 1999.

Liu Qiyu 劉起. Gushi xukao 古史續考. Beijing: Zhongguo shehui kexue chubanshe, 1991.

Mori Yasutarō 森安太郎. Kōtei densetsu: kodai Chūgoku shinwa no kenkyū 帝傳說:古代中國神話の研究. Kyoto: Kyōto joshi daigaku jinbun gakkai, 1970.

Nakajima Toshio 中島敏夫. Sankō gotei ka u senshin shiryō shūsei 三皇五帝夏禹先秦資料集成. Tokyo: Kyūko shoin, 2001.

Puett, Michael. The Ambivalence of Creation: Debates Concerning Innovation and Artifice in Early China. Stanford: Stanford University Press, 2001.

Qi Sihe 齊思和. “Lun Huangdi zhi zhiqi gushi 論黃帝之制器故事.” In Gushi bian 古史辨 [Debates on Ancient History], 7 (2), ed. Lü Simian 呂思勉 and Tong Shuye 童書業, 381-415. Repr. 1941, Kaiming shudian. Shanghai: Shanghai guji chubanshe, 1982.

Qian Mu 錢穆. Guoshi dagang 國史大綱. 2 vols. Beijing: Shangwu yinshuguan, 1991.

Shanghai shifan daxue guji zhenglizu 上海師范大學古籍整理組, ed. Guoyu 國語 [Discourses of the States]. Shanghai: Shanghai guji chubanshe, 1978.

Shisanjing zhushu 十三經注疏, ed. Maoshi zhengyi 毛詩正義. Beijing: Beijing daxuechubanshe, 1999.

Sima Qian 司馬遷. Shiji 史記 [Records of the Grand Historian]. Beijing: Zhonghuashuju, 1982.

Sun Zuoyun 孫作雲. “Huangdi yu Yao zhi chuanshuo jiqi diwang 帝與堯之傳說及其地望.” In Sun Zuoyun wenji: Zhongguo gudai shenhua chuanshuo yanjiu 孫作雲文集:中國古代神話傳研究 1: 127-139. Zhengzhou: Henan daxue chubanshe, 2003.

Wang Hui 王暉. Gushi chuanshuo shidai xintan 古史傳說時代新探. Beijing: Kexue chubanshe, 2009.

Xu Bingchang 徐炳昶 [Xu Xusheng 徐旭生]. Zhongguo gushi de chuanshuo shidai 中國古史的傳時代. Minguo congshu series 2, vol. 73. [Photocopy of 1946 edition.] Xu Shunzhan 許順湛. Wudi shidai yanjiu 五帝時代研究. Zhengzhou: Zhongzhou gujichubanshe, 2005.

Xu Yuangao 徐元誥. Guoyu jijie 國語集解. Beijing: Zhonghua shuju, 2002.

Xu Zhongshu 徐仲舒. “Chenhou siqi kaoshi 陳侯四器考釋.” In Xu Zhongshu lishi lunwen xuanji 徐仲舒歷史論文選輯, 1: 405-446. Beijing: Zhonghua shuju, 1998.

Yang Bojun 楊伯峻. Chunqiu Zuozhuan zhu 春秋左傳注. Beijing: Zhonghua shuju, 1990.

Yang Kuan 楊寬. “Zhongguo shanggushi daolun 中國上古史導論.” In Gushi bian 古史辨 [Debates on Ancient History], ed. Lü Simian 呂思勉 and Tong Shuye 童書業, 7(1): 65-404. Repr. Kaiming shudian, 1941. Shanghai: Shanghai guji chubanshe, 1982.

Yang Shoujing 楊守敬 and Xiong Huizhen 熊會貞. Shuijingzhu shu 水經註疏. Nanjing: Jiangsu guji chubanshe, 1989.

Yang Xiangkui 楊向奎. Zong Zhou shehui yu liyue wenming 宗周社會與禮樂文明. Beijing: Renmin chubanshe, 1992.

Yin Shengpin 尹盛平. Zhouyuan wenhua yu Xi Zhou wenming 周原文化與西周文明. Nanjing: Jiangsu jiaoyu chubanshe, 2005.

Zhang Hanmo. “Authorship and Text Making in Early China.” PhD dissertation, University of California at Los Angeles, 2012.

Zou Heng 鄒衡. Xia Shang Zhou kaoguxue lunwenji 夏商周考古學論文集. 2d ed. Beijing: Kexue chubanshe, 2001.

Zou Heng 鄒衡. Xia Shang Zhou kaoguxue lunwenji 夏商周考古學論文集. Beijing: Wenwu chubanshe, 1980.

 

 

 

 

 

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét