Powered By Blogger

Thứ Sáu, 17 tháng 10, 2025

Quan hệ văn hóa Trung-Việt từ hai bi ký lăng mộ nhà Lý ở Việt Nam (I)

Thang Bội Tân

Người dịch: Hà Hữu Nga

Tóm tắt

Việt Nam trải qua hàng ngàn năm Bắc Thuộc từ thời nhà Tần và nhà Hán cho đến cuối thời nhà Đường và đầu thời nhà Tống, giành được độc lập. Mặc dù vẫn giữ được nền văn hóa độc đáo của riêng mình trong giai đoạn này, nhưng Việt Nam không thể tránh khỏi ảnh hưởng của Trung Quốc về chính trị, kinh tế, tôn giáo và phong tục tập quán. Bài viết này áp dụng phương pháp nghiên cứu lịch sử và sử dụng các tài liệu nghiên cứu do các bậc tiền bối biên soạn để thực hiện việc diễn giải. Bài viết phân tích quá trình tiếp nhận văn hóa Trung Hoa của Việt Nam từ góc độ chủ nhân lăng mộ, văn phong và nội dung của hai văn bia Hoàng Việt Thái phó Lưu Quân, và Phụng Thánh Phu nhân Lê thị. Việc mai táng có bia mộ ở Việt Nam trong thời kỳ Bắc thuộc là không phổ biến, chủ yếu do mức độ ảnh hưởng khác nhau của Trung Quốc đối với vùng văn hóa Lĩnh Nam và do tập tục, quan điểm của các sĩ nhân [Thời xưa, từ 士人 ‘sĩ nhân’ dùng để chỉ các học giả, đồng thời cũng là một thuật ngữ chung để chỉ tầng lớp trí thức và văn nhân Trung Hoa cổ đại. Họ tìm tòi sáng tạo tri ​​thức, truyền bá văn hóa, tôn kính vương chế trong chính trị, noi theo Đạo trong học thuật, và điều hướng sự cân bằng giữa Đạo và vương chế. Họ tham gia chính trị quốc gia, vừa là người sáng tạo vừa là người kế thừa văn hóa truyền thống Trung Hoa. Sĩ nhân là tinh hoa của xã hội Trung Hoa cổ đại, đặc trưng của nền văn minh Trung Hoa. HHN] Trung Nguyên về việc đưa về quê hương để chôn cất. Lý do chính cho sự xuất hiện của bi ký chữ Hán trong thời nhà Lý của Việt Nam liên quan đến ảnh hưởng lâu dài của phong tục Trung Quốc đối với giai cấp thống trị trong thời gian Việt Nam chịu ách Bắc thuộc, và thời kỳ đầu cai trị của triều đại nhà Lý, vẫn mô phỏng các hệ thống của Trung Quốc. Sự hòa nhập lâu dài của tầng lớp thống trị và giới sĩ nhân vào văn hóa Trung Hoa đã ảnh hưởng đến phong tục tang lễ của họ, dẫn đến việc khắc bia mộ của Thái úy Lý Khánh Đàm và phi tần của Hoàng đế Thần Tông, Phụng Thánh Phu nhân. Mặc dù cả hai bia mộ đều được viết bằng chữ Hán, nhưng đôi khi có xen kẽ chữ Nôm. Nội dung của những bia mộ này cho thấy rằng mặc dù bia mộ Việt Nam phát triển dưới ảnh hưởng của Trung Quốc, nhưng quá trình này cũng tạo nên một phong cách Việt Nam độc đáo. Việc phát hiện và nội dung của hai bia mộ này đã làm sáng tỏ sự tiếp nhận văn hóa Trung Hoa của Việt Nam.

Từ khóa: Bia mộ, Nhà Lý của Việt Nam, Nhà Bắc Tống, Văn hóa Trung-Việt.

I. Giới thiệu

[Tr.] Bia mộ là một vật phẩm tang lễ xuất hiện vào thời nhà Hán, nhà Ngụy và Nam Bắc triều. Được đặt trong lăng mộ, ghi lại danh tính và sự kiện cuộc đời của người đã khuất. Bia mộ trở nên cực kỳ phổ biến vào thời nhà Tùy và nhà Đường, đạt đến đỉnh cao về thư pháp, phong cách và điêu khắc. Trong các triều đại Tống, Nguyên, Minh và Thanh, tất cả mọi người, từ các quan lại danh giá đến thường dân, thường chôn kèm bia mộ, ghi lại lịch sử gia đình và cuộc đời của người đã khuất. Chữ viết trên bia mộ rất đa dạng, bao gồm cả chữ Hán và chữ viết dân tộc như Khiết Đan và Nữ Chân. Hơn nữa, các bia ký cũng được phát hiện ở các quốc gia trong vùng văn hóa Trung-Hoa, chẳng hạn như Nhật Bản, Hàn Quốc và Việt Nam, chứng minh rằng các dân tộc thiểu số và các quốc gia xung quanh Trung Quốc, chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc, đã phát triển phong tục chôn bia mộ.

Việt Nam, dưới sự cai trị của Trung Quốc từ thời nhà Hán đến cuối thời nhà Đường, đã tiếp nhận chữ Hán dưới ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc. Ngay cả sau khi giành độc lập, chữ Hán vẫn tiếp tục là một công cụ quan trọng để truyền bá văn hóa. Vào khoảng thế kỷ 12, một loại chữ viết mới, chữ Nôm, đã xuất hiện ở Việt Nam, vay mượn và mô phỏng theo chữ Hán. Ban đầu, chữ Nôm được sử dụng để viết tên người và địa danh, sau đó được sử dụng như một công cụ hành chính và văn học, và do đó xuất hiện trong các văn bản lịch sử Việt Nam. Vào thế kỷ 19, chế độ thực dân Pháp đã góp phần thúc đẩy phát triển một loại chữ viết tiếng Việt mới sử dụng bảng chữ cái Latinh, dẫn đến việc mất đi một lượng lớn văn học cổ Việt Nam, khiến cho các bản khắc bia đá và bia ký trở nên cực kỳ có giá trị. Các bản khắc bia đá của Việt Nam bao gồm bia mộ, hồ sơ đình, đền, miếu, chùa chiền, hồ sơ hôn nhân, hồ sơ gia đình và hồ sơ xã hội. Trường Viễn Đông Bác cổ của Pháp đã thu thập một số lượng lớn các bản khắc trong thời kỳ thuộc địa Pháp. Sau khi Việt Nam thoát khỏi ách thống trị của thực dân, họ cũng đã thu thập và sao chép một số lượng lớn các bản khắc. Nhờ đó, Viện Nghiên cứu Hán Nôm Việt Nam đã thu thập và bảo quản một bộ sưu tập đồ sộ các bản khắc bia ký. Năm 1997, Viện Nghiên cứu Hán Nôm Việt Nam đã hợp tác với Đại học Quốc gia Trung Chính và Trường Viễn Đông Bác cổ Pháp tiến hành nghiên cứu theo từng giai đoạn các bản khắc này, và phân loại, sắp xếp để xuất bản. Dựa trên các kết quả nghiên cứu đã có, bài viết giới thiệu hai văn bia là “Hoàng Việt Thái phó Lưu Quân mộ chí” (1161), và “Phụng Thánh Phu nhân Lê thị mộ chí” (1174), được thực hiện dưới thời Lý (1010-1224), công bố trong Tập 1 “Văn bia Hán-Nôm Việt Nam - Từ thời Bắc thuộc đến thời Lý”, nhằm xem xét vô số vấn đề liên quan đến quan hệ văn hóa Trung-Việt.

“Hoàng Việt Thái phó Lưu quân Mộ chí” mộ chủ là Lưu Khánh Đàm, sinh năm Long Chương Thiên Tự thứ ba (năm Thiên Huống Bảo Tượng thứ nhất) dưới triều vua Thánh Tông (Lý Nhật Tông) nhà Lý và mất năm Thiên Chương Bảo Tự thứ tư (1136) dưới triều vua Thần Tông (Lý Dương Hoán)1. Theo bia mộ, Lưu Khánh Đàm nguyên là người xã An Lãng, quận Cửu Chân (nay thuộc huyện Thiệu Yên, tỉnh Thanh Hóa). Sau đó, ông chuyển đến xã Lưu Xá, châu Long Hưng (nay là huyện Thanh Hà, tỉnh Thái Bình). Ông chỉ huy quân binh lập nhiều chiến công, và được phong thưởng Quang Lộc Đại phu, Thôi thành [Chân thành] Tá lý Công thần, Nhập nội Nội thị tỉnh Đô đô tri, Tiết độ sứ, Đồng tam ti Bình Chương sự, Thượng Trụ quốc Khai Quốc công.2

[Ghi chú về Quang lộc Đại Phu: Là một quan danh cổ ở Trung Quốc, Việt Nam và một số nước khác ở Đông Á. Về lịch sử, vào đầu thời nhà Hán, phân cấp thành Trung Đại phu, Thái Trung Đại phu, Gián Đại phu. Thời Hán Vũ Đế đổi Trung Đại phu thành Quang Lộc Đại phu, ăn lộc hai ngàn thạch [1 thạch = khoảng 70 kg] thóc, làm Chưởng quan Nghị luận. Trong hàng Đại phu thì Quang lộc Đại phu có địa vị nổi bật. Thời Tây Hán hậu kì, hàng quan danh cao nhất là Cửu Khanh hầu hết do Quang lộc Đại phu thăng tiến mà thành. Tùy Dượng Đế đã kết hợp Cửu Đại phu với “Bát úy” để tạo thành hệ thống quan khanh thời đó. Chín cấp Đại Phu bao gồm: Quang lộc Đại phu, Tòng Nhất phẩm; Tả Quang lộc Đại phu, Chánh Nhị phẩm; Hữu Quang lộc Đại phu, Tòng Nhị phẩm; Kim tử Quang lộc Đại phu, Chánh Tam phẩm; Ngân thanh Quang lộc Đại phu, Tòng Tam phẩm; Chánh nghị Đại phu, Chánh Tứ phẩm; Thông nghị Đại phu, Tòng Tứ phẩm; Triêu thỉnh Đại phu, chánh ngũ phẩm. Thời Đường, Tống đây là hệ thống quan danh Tòng Nhị phẩm. Đến thời nhà Nguyên lại thăng lên Tòng Nhất phẩm; thời Minh lấy Đặc tiến Quang lộc Đại phu làm Quan văn, Tán quan Tối cao. Thời nhà Thanh Quan văn Chánh tòng Nhất phẩm đều gọi là Quang lộc Đại phu. Việc thêm hai chữ Đặc tiến trước Quang lộc Đại phu, nâng hàng ngũ này lên thành Chánh Nhất phẩm, là cấp bậc quan văn tối cao.HHN].

Công lao quan trọng nhất của ông là ủng hộ Hoàng đế Thần Tông lên ngôi, theo chỉ dụ của Hoàng đế Nhân Tông (Lý Thiên Đức). Hoàng đế Nhân Tông không có con trai, vì vậy ông đã chỉ định Hoàng đế Thần Tông, con trai của em trai mình, Sùng Hiến Hầu, làm thái tử để kế thừa ngai vàng. Vào cuối triều đại của Hoàng đế Nhân Tông (1127), Lưu Khánh Đàm đã hỗ trợ Hoàng đế Thần Tông cai trị đất nước. Ông mất năm 1136, năm thứ tư triều đại Thiên Chương Bảo Tự của Hoàng đế Thần Tông.5

[Ghi chú 都都知 ‘Đô Đô tri’: Ở Trung Quốc thời Tống, là chức quan cao nhất dành cho hoạn quan, đứng đầu các quan chức Nội Thị tỉnh và Nhập nội Nội Thị tỉnh, và là chức vụ cao nhất trong hệ thống cấp bậc hoạn quan. Chức vụ này yêu cầu sự chấp thuận chung của Tam tỉnh và Hội đồng Cơ mật viện. Sau cải cách Nguyên Phong, chức vụ này thuộc thẩm quyền độc quyền của Hội đồng Cơ mật viện. Vào cuối thời kỳ Tống Nhân Tông quy định các ứng viên Đô Đô tri ít nhất từ 50 tuổi và có kinh nghiệm phục vụ biên giới và không có khuyết điểm trước khi họ có thể đảm nhận chức vụ này. Các hoạn quan phải bắt đầu là Tiểu Hoàng môn, sau đó được thăng chức từng bước qua các chức vụ như Đương Ngự Dược viện, và cuối cùng là Đô tri và Đô Đô tri. Chức vụ này thường đóng vai trò là giám đốc của Quốc Tín sở, [Quốc Tín Sở, còn gọi là Quốc tín Sở Quảng câu Vãng lai, được thành lập vào thời Bắc Tống. Vào năm Cảnh Đức thứ tư (1007), Hoàng đế Tống Chân Tông đã thành lập cơ quan này, có trách nhiệm chính là tiếp đón sứ thần nước Liêu và xử lý các vấn đề liên quan đến việc cử sứ thần đến nước Liêu. Vào thời Nam Tống, để tránh kỵ húy của tên của Đường Cao Tông Triệu Cấu, cơ quan này được đổi tên thành Chủ quản Vãng lai Quốc Tín sở, và chức năng của nó được điều chỉnh để chịu trách nhiệm tiếp đón sứ thần từ nước Kim và xử lý các vấn đề liên quan đến việc cử sứ thần đến nước Kim.] phụ trách các vấn đề ngoại giao với Khiết Đan.

[Trong thời Tống Thần Tông, một hệ thống đã được thiết lập trong đó Đô tri và Áp ban phải được Ngoại triều xem xét để ngăn chặn Nội triều độc quyền quyền lực. Vào cuối thời Nguyên Phong, hoạn quan Trương Mậu Tắc được thăng làm Đô đô tri của Lưỡng tỉnh, Nội Thị tỉnh và Nhập nội Nội Thị tỉnh, trở thành quan chức cao nhất trong hệ thống nội vụ. V押班Áp ban: đây là một quan danh chịu trách nhiệm dẫn dắt đoàn tùy tùng và quản lý vị trí của các quan chức trong các phiên thiết triều. Vào thời nhà Tống, Tham tri Chánh sự, Phó Tể tướng và Tể tướng thay phiên nhau đảm nhiệm làm Áp ban vào những ngày khác nhau, trong khi vào thời nhà Đường, 監察禦史Giám sát Ngự sử đảm nhiệm chức vụ này. Trách nhiệm chính của ông là giám sát hàng ngũ quan chức, duy trì trật tự các nghi lễ triều đình. HHN]

[Nội Triều 内朝là nơi Hoàng đế và các Hoàng tử sinh sống và làm việc triều chính. Nội Triều lại được chia thành hai loại: Trị Triều bên ngoài cửa Lộ Môn và Yến Triều bên trong cửa Lộ Môn. Nội triều nằm đối diện với Ngoại Triều và được phân chia bởi Cung điện của Hoàng đế. Các quan lại Nội Triều có thể tự do ra vào Cung điện và phục vụ Hoàng đế, trong khi các quan lại Ngoại Triều không có đặc quyền này. Vào thời Bắc Tống, Văn Đức điện là Ngoại Triều còn 垂拱Thùy Củng điện là Nội Triều. Thuật ngữ này cũng có nghĩa mở rộng của Triều đình Trung Nguyên, có thể thấy trong 老學庵筆記Lão Học Am bút kí’ của Lục Du. Hệ thống quan lại Nội Triều được hình thành dưới thời Hán Vũ Đế. Bằng cách bổ nhiệm các quan lại không chính thức như Thị trung và Thường thị để thành lập một cơ cấu quyền lực cạnh tranh với hệ thống Tể tướng Ngoại Triều. Bên cạnh đó các Đại Tư mã, các Tướng lĩnh và các cận thần khác thuộc về hệ thống quan lại Nội Triều, trong khi các quan lại hưởng bổng lộc dưới 600 thạch thuộc về Ngoại Triều. Hệ thống này nhằm mục đích củng cố quyền lực của Hoàng đế và làm suy yếu quyền lực của Tể tướng. Còn Ngoại Triều 外朝 là nơi Hoàng đế và các Hoàng tử xử lý các công việc nhà nước trong hệ thống chính trị nhà Chu, tạo thành sự tương ứng về không gian và chức năng với Nội triều. Ngoại Triều đề cập đến khu điện các có bài trí 九棘Cửu cức – Chín Cây gai bên ngoài 路寢門 Lộ Tẩm Môn [Lối vào Điện nghỉ], và Ngoại Triều cũng bao gồm nhóm các quan khanh tham gia vào chính trị, chủ yếu là hệ thống Tể tướng. HHN]

[Ghi chú 九棘 Cửu Cức (Chín cây Gai) là một hệ thống phân biệt cấp bậc trong hệ thống quan lại thời cổ đại. Theo Chu Lễ -Thu Lễ - Triều Sĩ’, thời nhà Chu Ngoại Triều sử dụng biểu tượng chín cây gai để định phương vị: Tả Cửu cức - chín cây gai bên trái tượng trưng cho các Cô khanh, Đại phu, chức vụ và thuộc hạ của họ; còn Hữu Cửu cức - chín cây gai bên phải tượng trưng cho năm cấp bậc Tước vị, bao gồm Công, Hầu, Bá, Tử, Nam và thuộc hạ của họ. Hệ thống này cấu thành thành phần cốt lõi của ẩn dụ “Tam hòe Cửu cức”: Khi hội kiến với thiên tử, các quan Tam Công đứng đối diện với ba cây hòe, tả hữu quần thần với chín cây gai. Cho nên gọi “Tam công Cửu khanh”  ba Tước công chín Quan khanh là “tam hòe cửu cức”. Đời sau gọi các quan to là “cức” như: “cức khanh”, “cức thự”. Trong các tác phẩm văn học như Thiến nữ li hồn – ‘Mỹ nữ lìa hồn’ của Trịnh Quang Tổ thời nhà Nguyên, Cửu cức’ được sử dụng làm biểu tượng cho chức vụ quan lại. Sách “Bão Phác tử Tạp ứng” của Cát Hồng thời nhà Tấn còn ghi rằng ‘Cửu cức’ là tên một loại thuốc cổ truyền Trung Quốc. HHN]

[Ghi chú về 路門 Lộ môn là cổng chính trong cung được cố tình thu nhỏ kích thước vì nó là 路寢 ‘Lộ tẩm’, nơi Vua nghỉ ngơi. Trong sách “Chu lễ - Khảo công kí - Tượng nhân”, có chép 路門不容乘車之五個 Lộ môn bất dung thừa xa chi ngũ cá – ‘Lộ tẩm không cho phép xe năm người cưỡi đi qua’. Trịnh Huyền chú thích nó là 大寢之門 “Đại Tẩm chi môn” ‘Cổng Đại Tẩm’. Giả Công Ngạn giải thích thêm lý do về cấu trúc đặc biệt của nó. Theo các phát hiện khảo cổ học ngày nay, Lộ Môn trong tàn tích của Cung điện Ngõa Diêu Đầu của nước Tần là cổng cung thứ năm, còn được gọi là 畢門 ‘Tất môn’ và 虎門 ‘Hổ môn’. Trong hệ thống Ngũ môn Tam triều, thì Yến Triều bên trong Lộ Môn là nơi vua nghe bẩm về chính sự và thực hiện nghi lễ hàng ngày. HHN]

[Ghi chú về Thùy củng 垂拱, nguyên nghĩa là rủ áo và cung kính cúi đầu, bắt nguồn từ Sách 書·武成 Thư – Vũ Thành. Sau đó, nó thường được dùng để chỉ cách hoàng đế cai trị đất nước bằng cách 無為而治 vô vi nhi trị không làm gì cả mà vẫn yên bình. Nghĩa gốc của từ này nhấn mạnh rằng người cai trị có thể đạt được kết quả cai trị mà không cần đích thân xử lý các công việc chính sự. Nó thường được liên kết với ẩn dụ 垂衣裳而天下治‘Thùy y thường nhi thiên hạ trị’ ‘Rủ áo mà thiên hạ vẫn thái bình’. Hàm ý của nó đã trải qua ba giai đoạn phát triển: từ hình thức vận động được mô tả trong 禮記 Lễ ký, nó đã phát triển thành khái niệm chính trị ‘Thùy y thường nhi thiên hạ trị’ được ghi lại trong 尚書Thượng thư, và cuối cùng hình thành nên hình ảnh cốt lõi của việc đơn giản hóa chính trị và đảm bảo phúc lợi của người dân. Về phương diện Lễ quy, Sách Lễ ký, thiên Ngọc tảo 禮記.玉藻 chép: 凡侍於君,紳垂,足如履齊,頤溜垂拱,視下而聽上,視帶以及袷,聽任左. Phàm thị ư quân, thân thùy, túc như lí tề, di lựu thùy củng, thị hạ nhi thính thượng, thị đái dĩ cập giáp, thính hương nhậm tả. "Khi hầu hạ hoàng đế, dải áo phải buông rủ, chân tề chỉnh như mang giày, má xệ, mắt nhìn xuống mà tai vểnh lên, chỉnh sửa đai lưng và áo kép cho ngay ngắn, tai nghiêng về bên trái." Về phương diện chính trị, thời nhà Hán Đạo giáo phát triển nên 垂拱無為 Thùy củng vô vi ‘Rủ áo, không làm gì cả’ của Ngu Thuấn trở thành một phương châm cai trị, nó đã mang lại hòa bình, và Vũ Vương của nhà Chu đã sử dụng nó để 天下大定 Thiên hạ Đại định - Thế giới thái bình. Quan niệm này đã hình thành ba loại trong thực tiễn của các triều đại kế tiếp: Hiếu Huệ Đế và Văn Đế nhà Tây Hán đã đạt được sự ổn định chính trị và nới lỏng hình phạt thông qua 垂拱Thùy củng; Hoàng đế Cao Tông và Hoàng đế Đại Tông của nhà Đường đã sử dụng 垂拱 Thùy củng để biểu thị các dấu hiệu tốt lành và kèm theo sự cải thiện trong cuộc sống của người dân. Ngoài ra, 垂拱 Thùy củng cũng được sử dụng làm niên hiệu trong thời trị vì của Võ Tắc Thiên từ năm 685 đến năm 688 sau Công nguyên. HHN]

[Ghi chú về 老學庵筆記 ‘Lão Học am ký’ do Lữ Du thời Nam Tống viết. Sách gồm mười tập. Tác giả viết sách này khi về hưu, về quê. Sách được hoàn thành vào khoảng cuối thời Thuần Hy, Tống Hiếu Tông đến đầu thời Thiệu Hy, Tống Quang Tông. Có học giả Trung Quốc giải nghĩa 老學庵 ‘Lão học ký’ là tên thư phòng của Lữ Du, ‘lấy từ câu của Nhan Chi Thôi’ (531-591) 老而學如秉燭夜行 “Lão nhi học như bỉnh chúc dạ hành” ‘Người già học như cầm nến đi đêm’. Nhưng thật ra ai đã từng đọc ‘Tam quốc chí’ đều biết câu này có nguồn gốc từ 與質書 Dữ Ngô Chất thư, Thư gửi Ngô Chất của Tào Phi (187-226), trong đó có câu 古人思秉燭夜遊,良有以也 Cổ nhân tư bỉnh chúc dạ du, lương hữu dĩ dã’ “Người xưa nghĩ đến việc cầm nến đi dạo ban đêm, việc đó có duyên do nghĩa lý vậy”. HHN]  

[Ghi chú về Ngô Chất (178-230), tự là Quý Trọng, người Tế Âm (nay là huyện Định Đào, tỉnh Sơn Đông) vào thời Tam Quốc. Ông là một quan lại của nhà Tào Ngụy vào cuối thời nhà Hán và thời Tam Quốc. Ông lên đến hàm 振威將軍 Chấn uy Tướng quân, phụ trách quân sự ở tỉnh Hà Bắc. Ngô Chất xuất thân từ một gia đình bình thường, nhưng nhờ học thức uyên bác, ông kết thân với Tào Phi và các anh em của Tào Phi. Sau này, ông giữ chức Thái thú huyện Triều Ca và huyện Nguyên Thành. Sau khi nhà Tào Ngụy thành lập, Tào Phi triệu Ngô Chất đến, bổ nhiệm làm Bắc Trung Lang tướng, kiêm Trì tiết Đô đốc U Châu, Tịnh Châu. Sau đó, ông được thăng làm Chấn uy Tướng quân, phụ trách quân sự ở tỉnh Hà Bắc. Năm Thái Hòa thứ tư (230), Ngô Chất được chuyển sang làm Thị trung. Lúc bấy giờ, Ngụy Minh Đế, Tào Duệ, vừa mới lên ngôi, Tư Không Trần Quần phụ trách Nội các và là trợ thủ đắc lực của Hoàng đế. Tuy nhiên, Ngô Chất lại cho rằng các quan đại thần phò tá Hoàng đế có ảnh hưởng đến sự an nguy của đất nước nên đã hết lời khen ngợi Phiêu kị Tướng quân Tư Mã Ý với Minh Đế, nhưng lại hạ thấp Tư không Trần Quần, nói rằng ông này không đủ tư cách làm Tể tướng. Tào Phi đã từng bàn thảo chính trị với Ngô Chất, trong đó có “Thư gửi Ngô Chất”được viết vào năm Kiến An thứ 22 (năm 217 SCN). Đây là một bài luận xuất sắc và giàu cảm xúc, một kiệt tác phê bình văn học, một tác phẩm kinh điển vượt thời gian. Ngô Chất là người sáng lập ra ‘Cửu phẩm Quan nhân pháp’ và ‘Ngụy luật’. Trần Quần phục vụ ba đời dưới quyền Tào Tháo, Tào Phi và Tào Duệ. Với tài năng trị quốc xuất chúng và sự tận tụy với công việc, ông đã có những đóng góp to lớn cho việc xây dựng hệ thống lễ nghi và hệ thống chính trị của triều đình Tào Ngụy. Trần Quần đã viết một Thư tập gồm năm quyển, hiện đã thất lạc. Phần còn lại có thể tìm thấy trong “Toàn Tam Quốc văn”. HHN]

[Ghi chú Nhan Chi Thôi (531-khoảng 597), tự là Giới, người Lâm Nghi, Lang Nha (nay là Lâm Nghi, tỉnh Sơn Đông). Ông là một nhà văn và nhà giáo dục trong thời kỳ Nam Bắc Triều ở Trung Quốc cổ. Khi còn trẻ, Nhan Chi Thôi tự học “Nghi lễ” “Tả truyện” vì không thích nói suông. Vì đọc nhiều và  viết văn phong phú, ông được Tương Đông Vương Tiêu Dịch, nhà Lương của Nam Triều quý mến và được bổ nhiệm làm Tả Thường thị Quốc gia ở tuổi mười chín. Sau đó, ông suýt bị giết trong cuộc nổi loạn của Hậu Tĩnh, nhưng được Vương Tắc cứu sống. Sau khi cuộc nổi loạn bị dập tắt, ông được lệnh hiệu đính sách. Khi nhà Tây Ngụy chiếm được Giang Lăng, ông bị bắt và bị đày sang Tây Ngụy. Ông được Lý Hiển Khánh quý mến và có thể đến Hoằng Nông để phụ trách văn thư cho Lý Viễn lúc này đang là Trụ quốc Đại tướng quân nhà Bắc Chu, đóng tại Hoằng Nông. Sau khi biết Trần Bá Tiên phế truất Lương Cảnh Đế và tự xưng hoàng đế, ông ở lại Bắc Tề, phụng sự thêm hai mươi năm nữa, rồi được thăng làm Hoàng môn Thị lang. [Quan danh Hoàng Môn Thị lang, còn gọi là Hoàng Môn Lang, được lập ra lần đầu tiên vào thời nhà Tần, là người hầu cận, truyền đạt các sắc lệnh của Hoàng đế. Sau khi Bắc Tề diệt vong, ông được Bắc Chu chiêu mộ làm Ngự sử Thượng sĩ. Sau khi Bắc Chu bị thay thế, ông phụng sự nhà Tùy. Trong thời Khai Hoàng, ông được triệu làm 學士học sĩ. [Lưu ý: Sau thời Nam Bắc Triều, học sĩ dùng để chỉ các quan chức phụ trách việc sáng tác văn chương. Vào thời Đường, ban đầu học sĩ là những người hầu cận Hoàng đế về văn chương, và các mật sự do gần gũi với Hoàng đế]. Sau đó, ông lâm bệnh qua đời vào khoảng năm Khai Hoàng thứ mười bảy (597). Về học vấn, Nhan Chi Thôi là người uyên bác, viết nhiều sách. Hầu hết sách của ông đã bị thất lạc, nhưng còn lại hai cuốn ‘Nhan thị Gia huấn; và ‘Hoàn Oan chí’, và các tập bản ‘Cấp tựu chương chú’ ‘Chứng tục âm tự’ và ‘Tập linh kí’. HHN]

[Ghi chú về Ngự sử 御史 là quan danh phụ trách giám sát ở Trung Quốc cổ đại, tồn tại từ thời nhà Tần đến nhà Thanh. Tên gọi này bắt nguồn từ các sử gia thời nhà Chu, họ ghi chép các sự việc diễn ra trong thời Chiến Quốc. Từ thời nhà Tần trở đi, Ngự sử trở thành các quan chuyên trách giám sát công việc và các sai phạm của quan chức. Qua các triều đại, cơ cấu Ngự sử đã phát triển từ Ngự sử đài lên Đô sát viện, hình thành một hệ thốn以卑察尊 “dĩ ti sát tôn”, cấp dưới giám sát cấp trên, bao gồm các chức vụ như Thị Ngự sử và Giám sát Ngự sử. Nhà Tần lập Ngự sử Đại phu làm Phó Thừa tướng, dưới thời nhà Hán toàn bộ hệ thống giám sát được đặt dưới quyền Ngự Sử đài. Thời Tùy Đường hình thành thể chế Tam viện gồm Đài viện, Điện viện, Sát viện, lần lượt chịu trách nhiệm giám sát cả Trung ương và địa phương. Đến thời nhà Tống, công việc giám sát được mở rộng, bao gồm cả 可風聞彈事khả phong văn đạn sự’ (tấu trình cả việc nghe nói có ý chê bai ái/cái gì đó). Nhà Nguyên thành lập Hành Ngự sử đài [Hành Ngự Sử đài là một các chi nhánh của Ngự Sử đài Trung ương, chủ yếu chịu trách nhiệm giám sát các tỉnh và quan chức địa phương] và hai mươi hai đạo 肅政廉訪司 Túc chính Liêm phóng ti, ban đầu được gọi là 刑按察司 Hình án sát ti và sau đó được rút gọn thành 憲司 Hiến ti, trực thuộc Trung ương Ngự sử đài thời nhà Nguyên để tăng cường giám sát địa phương. Nhà Minh thành lập Đô Sát viện, vẫn giữ lại Giám sát Ngự sử và bổ sung Tả, Hữu Đô Ngự sử làm trưởng quan. Hệ thống này tiếp tục được duy trì dưới thời nhà Thanh, với các Tổng đốc, Tuần Phủ thường kiêm hàm Đô Ngự sử.]

[Cấp hàm của Ngự sử quan rất đa dạng, với các quan chức cấp cao như Ngự sử Đại phu đạt đến Tòng nhất phẩm, trong khi các quan chức cấp trung như Giám sát Ngự sử chủ yếu hàm Bát phẩm. Hàn Dũ giữ chức Giám sát Ngự sử; Nguyên Chẩn giữ Giám sát Ngự sử dưới thời nhà Đường đã luận tội Nghiêm Lệ vì tự tiện trưng thu thuế phú; Triệu Biện, khi giữ chức Điện trung Thị Ngự sử dưới thời Bắc Tống, được mệnh danh là 鐵面禦史 Thiết diện Ngự sử ‘Giám quan Mặt sắt’ vì thái độ ‘bất úy quyền quý’ không hề sợ kẻ quyền quý. Trần Tuấn Khánh, khi giữ chức Ngự Sử, đã tham gia vào việc luận tội vị Tể tướng đầy quyền lực Thang Tư Thoái. Ngự sử quan của nhà Đường được chia thành ba Viện gồm 台院 Đài viện, 殿院 Điện viện, 察院 Sát viện, trong đó Giám sát Ngự sử thuộc Sát viện, Chánh Bát phẩm. Nhà Tống và nhà Nguyên cũng theo sau. Vào thời nhà Minh, Ngự sử quan được đổi tên thành Đô Sát Viện, chịu trách nhiệm luận tội và biện hộ. Chức vụ này có một Ngự sử quan Tả và Hữu, một Phó Ngự sử quan Tả và Hữu, và hai Phó Ngự sử quan Tả và Hữu. Dưới quyền họ là 110 Ngự sử quan, được phân công đến các châu khác nhau. Về phẩm trật, ban đầu là Cửu phẩm, sau đó được thăng lên Thất phẩm vào năm thứ 17 đời Hồng Vũ (năm 1384). Chế độ này được duy trì trong thời nhà Thanh, thăng thưởng lên trật Ngũ phẩm vào năm Càn Long thứ 17 (1752 SCN). Trong thời nhà Minh và nhà Thanh, các vị Ngự sử có nhiều chức danh khác nhau tùy theo nhiệm vụ. Mỗi châu có từ bảy đến mười một vị Ngự sử, tổng cộng có 110 vị Ngự sử trên khắp mười ba châu, được gọi chung là Thập Tam Ngự sử. HHN]

[Ghi chú 五曹 Ngũ Tào nghĩa là năm cơ quan chính phủ trực thuộc Thượng Thư tỉnh chịu trách nhiệm xử lý công việc. Nhà Hán lập ra năm quan Thượng Thư, một trong số đó là Bộc xạ, và bốn người khác, chia ra phụ trách bốn Tào. Thường thị Tào giám sát công việc của Thừa tướng và Ngự sử; Nhị Thiên thạch Tào giám sát công việc của Thứ sử Nhị Thiên thạch sự; Dân Tào giám sát các kiến ​​nghị của thường dân; và Chủ khách Tào giám sát công việc đối ngoại. Dưới thời Thành Đế, năm quan được bổ nhiệm, với Tào Tam Công chịu trách nhiệm về các vấn đề tư pháp.

[Ghi chú  Bộc xạ: là một quan danh cổ. Sách “Hán Quan Nghi chú”  chép 漢官儀註曰:僕,主也。古者重武事,每官必有主射督課之,故名。“Bộc, chủ dã. Cổ giả trọng vũ sự, mỗi quan tất hữu chủ xạ đốc khóa chi, cố danh”. “Bộc nghĩa là chủ vậy. Thời xưa, việc quân sự rất được coi trọng, nên mỗi cơ quan đều có một ‘Cung thủ trưởng’ để giám sát, do đó mới có tên gọi này." Chức danh này dần bị bãi bỏ sau thời Tống Huy Tông. Trong thời nhà Thương và nhà Chu, hoàng tộc và quý tộc rất coi trọng nghi lễ bắn cung. Sách 周禮·夏官·射人:「若有國事,則掌其戒令,詔相其事。掌其治達;以射法治射儀。」朱子曰:「禮僕人師扶左,射人師扶右。」“Chu lễ - Hạ quan - Xạ nhân”: “Nhược hữu quốc sự, tắc chưởng kì giới lệnh, chiếu tương kì sự. Chưởng kì trị đạt; dĩ xạ pháp trị xạ nghi’. Chu Tử viết: “Lễ Bộc nhân sư phù tả, Xạ nhân sư phù hữu.” Sách “Chu lễ - Hạ quan - Xạ nhân” chép rằng: “Nếu có việc quốc sự, người này sẽ phụ trách việc triều chính, ban chiếu chỉ cho các quan. Người này sẽ phụ trách việc hành chính và nghi lễ bắn cung.” Chu Hy giải thích: “Theo nghi lễ này, Chủ xạ phù tá bên trái, Xạ nhân phù tá bên phải.” Chức danh này được lập ra vào thời nhà Tần, đóng vai trò Chủ xạ Tả Hữu chi thần hai vị Cung thủ trưởng là tả hữu cận thần thân tín phò tá Hoàng đế. Người xưa coi trọng các tướng lĩnh, và những người phụ trách thường được các cung thủ lão luyện hỗ trợ, do đó mới có tên gọi là ‘Bộc xạ’. Dưới thời nhà Tần, hầu hết các cơ quan chính phủ đều có ‘Bộc xạ’ làm phó quan. Sau thời nhà Hán, vị quan duy nhất có tước hiệu ‘Bộc xạ’ là Thượng thư Bộc xạ, làm phó cho Thượng Thư lệnh. Dưới thời vua Tống Huy Tông, Tả Hữu Bộc xạ lần lượt được thay thế bằng Thái tể và Tiểu tể, tước hiệu ‘Bộc xạ’ không còn tồn tại. Dưới thời Tùy, Đường, Ngũ Đại, Tống, Tấn và Liêu, Thượng thư Bộc xạ là chức Tể tướng.

[Ghi chú 三省 Tam tỉnh: là ba Cơ quan hành chính cốt lõi của chính quyền Trung ương Trung Quốc cổ, gồm Trung thư Tỉnh, Môn hạ Tỉnh, và Thượng Thư Tỉnh. Các cơ quan này chịu trách nhiệm soạn thảo, xem xét, thi hành, bác bỏ các chiếu chỉ của triều đình, hình thành một hệ thống kiểm tra, cân đối để ra quyết định và thi hành. Nguyên mẫu của hệ thống này được thiết lập vào thời Ngụy, Tấn, Nam Bắc triều. Nhà Tùy đã thiết lập khuôn khổ Tam tỉnh Lục bộ. Nhà Đường chi tiết hóa việc phân công chức năng: Trung thư Tỉnh soạn thảo chiếu chỉ, Môn hạ Tỉnh xem xét, thẩm định chiếu chỉ, Thượng thư Tỉnh giám sát việc thi hành của Lục bộ. Thời Tùy Đường đứng đầu Tam tỉnh là Tể tướng, Thượng thư Tỉnh quản lý Lục bộ: Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công để xử lí các sự vụ cụ thể. Thời nhà Tống quyền hạn Tam tỉnh dần dần bị khoét rỗng, đến nhà Nguyên chỉ còn lại Trung thư Tỉnh để quản lý công việc của Chính phủ. Sau một thời gian ngắn tiếp nối vào đầu thời nhà Minh, Chu Nguyên Chương đã bãi bỏ nốt Trung thư Tỉnh vào năm Hồng Vũ thứ 13 (1380), và hệ thống Tam tỉnh đã bị xóa bỏ hoàn toàn.HHN]

Bia mộ không ghi năm tháng, vì có đề cập đến việc 入茲墓穴 ‘nhập tư mộ huyệt’, nên có khả năng bia được dựng trong lần cải táng ‘nhập mộ’ vào năm 1161, năm Đại Định thứ 22 của Hoàng đế Anh Tông (Lý Thiên Tộ), sau khi ông qua đời vào năm Thiên Chương Bảo Tự thứ tư.6 Bia đá ban đầu được dựng tại xã Lưu Xá, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình, nhưng nay không còn bia và cũng không còn dấu tích (拓片) nữa. [Ghi chú 拓片 thác phiến: là một sản phẩm thủ công truyền thống sử dụng công nghệ khắc để sao chép văn bản và hoa văn trên bề mặt các di vật văn hóa như chữ khắc và đồ đồng lên giấy gạo. Tranh khắc sử dụng mực hoặc chu sa làm thuốc nhuộm, được tạo thành thông qua các bước như làm ẩm giấy dán lên bề mặt đá, xương, gỗ, kim loại và đóng búa khắc. Tranh khắc chủ yếu được sử dụng để lưu giữ thông tin của các di vật văn hóa như giáp cốt văn kim văn. Kỹ thuật của tranh khắc được chia thành phái Nam Tông (thư pháp mực) và phái Bắc Tông (thư pháp đá). Họa tiết Bắc Tông và thư pháp Nam Tông được hình thành vào thời nhà Tống. Các kỹ thuật truyền thống bao gồm các loại như chữ khắc trên xương, đá, và đồ đồng. Ngoài ra, tranh khắc màu Quế Lâm sử dụng công nghệ phân tách màu để thể hiện các đặc điểm phối màu của ngũ hành. HHN] Bia được xã trưởng Trần Văn Chuẩn và các hương thân địa phương sao chép vào đầu thế kỷ này. Bản sao, hiện đang được lưu giữ tại Viện Hán Nôm (số A.1027), gồm 385 chữ. Đây là bia đá cổ nhất được biết đến ở Việt Nam.7

‘Phụng Thánh Phu nhân Lê thị mộ chí’ chính là ‘Phụng Thánh Phu nhân họ Lê, người vợ thứ ba của Hoàng đế Lý Thần Tông, tên là Lê Lan Xuân. Bà sinh năm Ứng Thiên thứ mười bốn, 1109, thời Lê Long Đĩnh thời tiền Lê, bà mất ngày 17 tháng 11 năm 1171, tức ngày 18 tháng 10 năm Chánh Long Bảo Ứng thứ 9 triều đại Hoàng đế Lý Anh Tông, thọ 63 tuổi. Phụng Thánh Phu nhân là hậu duệ của Lê Hoàn (980-1005) triều Lê. Hoàng đế Lý Thần Tông, say mê nhan sắc của bà, đã đính hôn vào năm Thiên Chương Bảo Tự thứ hai, 1134, hai năm sau sách phong Phụng Thánh Phu nhân. Năm 1137, vua Lý Thần Tông băng hà, Anh Tông lên ngôi, Thái hậu nhiếp chính Hoàng đế trẻ tuổi trong việc cai trị. Bản sao bia mộ cho biết Phụng Thánh Phu nhân lâm bệnh vào tháng 9 năm Chánh Long Bảo Ứng thứ 9 triều đại Anh Tông, đích thân Hoàng đế đã chăm lo thuốc thang, bồi bổ cho Thái hậu. Bà qua đời vào sáng ngày 18 tháng 10, hưởng thọ 63 tuổi. Triều đình đã tổ chức tang lễ long trọng cho bà. 8

Ba năm sau khi mất (1174), bà được chôn cất riêng ở góc phía tây của chùa Phước Thịnh ở Diên Lăng, Bộc Sơn. Bia mộ này được viết vào thời điểm cải táng. Bia mộ, do một sử gia quốc gia ẩn danh viết, không ghi rõ ngày dựng. Bia mộ này sau đó đã được khắc lại, có thể là vào thời Lê hoặc Nguyễn, nên hoa văn viền bia không còn giữ được phong cách chạm khắc đá thời Lý, và bia mộ có nhiều lỗi. Bia cao 85 cm và rộng 63 cm. Mặt trước được khắc 24 dòng chữ khắc chìm, mỗi dòng khoảng 31 chữ, tổng cộng khoảng 703 chữ. Mặt sau được bổ sung 8 dòng ranh giới đất liền, tổng cộng 141 chữ, được cho là đã được thêm vào trong quá trình khắc lại. Năm 1977, bia mộ này vẫn còn tồn tại ở chùa Phước Thịnh, Yên Lăng. Một bản khắc bia mộ hiện đang được lưu giữ tại Viện Nghiên cứu Hàm Nôm. 9

Ba năm sau khi bà mất (1174), bà được chôn cất riêng ở góc phía tây chùa Diên Linh Phúc Thánh. Bia mộ này được viết vào thời điểm cải táng. Bia mộ, do một Sử gia Nhà nước ẩn danh viết, không ghi rõ ngày dựng. Sau đó bia mộ này đã được khắc lại, có thể là vào thời Lê hoặc Nguyễn, nên hoa văn viền bia không còn giữ được phong cách chạm khắc đá thời Lý, và có nhiều lỗi. Bia cao 85 cm và rộng 63 cm. Mặt trước được khắc 24 dòng chữ khắc chìm, mỗi dòng khoảng 31 chữ, tổng cộng khoảng 703 chữ. Mặt sau được bổ sung 8 dòng ở ranh giới bỏ trống, tổng cộng 141 chữ, được cho là đã được thêm vào trong quá trình khắc lại. Năm 1977, bia mộ này vẫn còn tồn tại ở chùa Diên Linh Phúc Thánh. Một bản khắc bia mộ hiện đang được lưu giữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm. 9

Triều Lý đánh dấu một thời kỳ cai trị tương đối ổn định ở Việt Nam, bắt đầu sau thời Đường và Ngũ Đại, khi Việt Nam thoát khỏi sự kiểm soát của Trung Quốc và trải qua các cuộc biến động quân sự dưới thời Đinh và Tiền Lê. Bài viết này tìm hiểu mối quan hệ văn hóa giữa Việt Nam và Trung Quốc, khi đất nước giành được độc lập và thiết lập chế độ quân chủ. Nội dung chính bao gồm: Bia mộ Việt Nam chịu ảnh hưởng của phong tục Trung Quốc như thế nào? So với bia mộ thời Tống, chịu ảnh hưởng của giao lưu văn hóa Trung-Việt, bia mộ Việt Nam có những đặc điểm gì độc đáo? Xem xét các đặc điểm của văn bia mộ Việt Nam dưới ảnh hưởng của Trung Quốc.

__________________________________

(Còn nữa…)

Nguồn: 湯佩津 (2009).從越南李朝二篇墓誌探討中越文化關係.崇仁學報,第三期.Thang Bội Tân (2009). Tòng Việt Nam Lý triều nhị thiên mộ chí tham thảo Trung Việt văn hóa quan hệ. Sùng Nhân Học báo Đệ tam kì, Dec. 2009.

Ghi chú

1.根據黃文樓,〈關於太傅劉慶譚墓誌〉,《漢喃學通報》(越南,河),1996,頁165~171:「劉慶譚生於李朝仁宗(李乾德)會豐二年(1093),死於英宗(李天祚)大定二十二年(1161)。」因此黃文樓在《越南漢喃銘文匯編第一集-北屬時期至李朝》第 202 頁的注中,也是如此考定李慶譚生卒年。但耿慧玲,〈越南李朝太傅劉氏兄弟墓誌考證及其歷史意義〉,頁3~63:「《大越史記全書》出現天彰寶嗣四年卒及大定二十二年記載上發生了錯誤,將二次葬日,都寫成「卒」;而《越史通鑑綱目》,僅有天彰寶嗣四年的記載,則是史家經過考證的功夫,因此作了校讎,將誤記為「卒」的大定二十二年刪去,以存其正。…考證中證明劉慶譚的生年是聖宗龍章天嗣三年(天貺寶象元年,1068),卒年為神宗天彰寶嗣四年(1136);證明李太宗時代進入廷任侍的劉慶譚的祖父。」

2.《越南漢喃銘文匯編第一集-北屬時期至李朝》,頁199。

3.士連,陳荊和編校,《太越史記全書》(東京:東京大學東洋文化研究所,1986,三版),本紀卷之三,〈李紀〉,頁267:「帝弗豫,召太尉劉慶譚,受遺詔曰:『朕聞生物之動,無有不死…而太子陽煥,年已周紀,多有大度,明允篤誠,忠肅恭懿,可依朕之舊典,皇帝位。肆爾童孺,誕受厥命,繼體傳業,多大前功,仍仰爾臣庶,一心弼亮,咨爾伯玉,實丈人器,飭爾戈矛,預備不虞,毋替厥命,朕之瞑目,無遺恨矣。』」

4.陳重金著,戴可來譯,《越南通史》(北京:商務印書館,1992,出版),頁76:「仁宗無子,立皇帝崇賢侯之子為太子繼承皇位,是為神宗,其時,有張伯玉,劉慶譚,楊英珥諸大臣輔佐神宗治理國家。」

5.《太越史記全書》,本紀卷之三,〈李紀〉,頁279。

6.耿慧玲,〈越南李朝太傅劉氏兄弟墓誌考證及其歷史意義〉,《越南史論-金石資料之歷史文化比較》,頁 3~63。

7.《越南漢喃銘文匯編第一集-北屬時期至李朝》,頁 199。

8.《越南漢喃銘文匯編第一集-北屬時期至李朝》,頁215。

9.同上。

Tài liệu tham khảo

一、史料(按作者姓名筆畫)

1.仇池石輯,《羊城古鈔》,台北:文海出版社,1969,出版。

2.毛漢光,《唐代墓誌銘彙編附考》,台北:中央研究院歷史語言研究所, 1985~1994,出版。

3.司馬光,《涑水記聞》,叢書集成初編,北京:中華書局,1985,出版。

4.司馬遷,《史記》,台北:鼎文出版社,1987,九版。

5.士連,陳荊和編校,《太越史記全書》,東京:東京大學東洋文化研究所,1986,三版。

6.李燾,《續資治通鑑長編》,台北:世界書局出版, 1983,四版。

7.范廷琥,《雨中隨筆》,陳慶浩,鄭阿財,陳義主編,《越南漢文小叢刊-第二輯》,台北:台灣學生書局,1992,出版。

8.范曄,《後漢書》,台北:鼎文出版社,1978,出版。

9.徐松纂輯,《宋會要輯稿》,台北:新文豐,1976,初版。

10.班固等,《漢書》,台北:鼎文書局,1986,六版。

11.梁廷枏,《南漢書》,台北:鼎文書局,1979,出版。

12.脫脫,《宋史》,台北:鼎文出版社,1991,七版。

13.陳文為等,《欽定越史通鑑綱目》,台北:中央圖書館影本,1969。

14.陳壽,《三國志》,台北:鼎文書局,1980,出版。

15.曾公亮,丁度等,《武經總要》,四庫全書,台北:台灣商務印書館,1983,出版。

16.漢喃研究院,遠東學院,《越南漢喃銘文匯編第一集-北屬時期至李朝》,巴黎,河內:1998,出版)。

17.劉恂,《嶺表錄異》,叢書集成初編,北京:中華書局,1985,出版。

18.樂史,《太平寰宇記》,台北:文海出版公司,1969,再版。

19.歐陽修,宋祁等,《新唐書》,台北:鼎文書局, 1981,出版。

20.黎崱,《安南志略》,武尚清點校,北京:中華書局, 1995,出版。

21.竇儀等撰,《宋刑統》,台北:文海出版社,1974,再版。

二、近人著作(按作者姓名筆畫)

(一)專書

1.伯希和著,馮承鈞譯,《交廣印度兩道考》,台北:臺灣商務印書館,民 59,台一版。

2.呂士朋,《北屬時期的越南》,香港:中文大學新亞研究所,1964,出版。

3.胡玄明,《漢字對越南文學之影響》,台灣師範大學國文研究所碩士論文,民 61,出版。

4.陳重金著,戴可來譯,《越南通史》,北京:商務印書館,1992,一版。

5.麥英豪,王文建,《嶺南之光-南越王墓考古大發現》,杭州:浙江文藝,2002,出版。

6.曾華滿,《唐代嶺南發展的核心性》,香港:香港中文大學,1973,出版。

7.賀聖達,《東南亞文化發展史》,雲南:雲南人民出版社,1996,出版。

8.葉學明,夢麟,黃景略,《喪葬陵墓誌》,上海:上海人民,1998,出版。

9.趙超,《古代墓誌通論》,北京:紫禁城出版社, 2003,出版。

10.鄭永常,《漢文文學在安南的興替》,台北:台灣商務,民 76,出版。

11.韓振華,《華僑史及古民族宗教研究》,香港:香港大學亞洲研究中心,2003,出版。

(二)論文

1.耿慧玲,〈李英宗朝婚姻關係與權力結構研究〉,《越南史論-金石資料之歷史文化比較》,頁74~80。

2.耿慧玲,〈越南李朝太傅劉氏兄弟墓誌考證及其歷史意義〉,《越南史論-金石資料之歷史文化比較》(台北:新文豐,民 93,出版),頁 3~63。

3.耿慧玲,〈越南官制初釋〉,《越南史論-金石資料之歷史文化比較》,頁225~270。

4.黃文樓,〈關於太傅劉慶譚墓誌〉,《漢喃學通報》(越南,河),1996,頁165~171。

5.劉靜貞,〈北宋前期墓誌書寫活動初探〉,《東歷史學報》,第十一期,頁 59~82。從越南李朝二篇墓誌探討中越文化關係附圖一:〈奉聖夫人黎氏墓誌〉,《越南漢喃銘文匯編第一集-北屬時期至李朝》,陽面崇仁學報 第三期 Dec.2009附圖二:〈奉聖夫人黎氏墓誌〉,《越南漢喃銘文匯編第一集-北屬時期至李朝》,陰面

 

 

 

 

 

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét