Powered By Blogger

Thứ Bảy, 11 tháng 10, 2025

Quan điểm của Học giả Tiền Mục về Nghiên cứu Lễ (I)

Bành Lâm

Người dịch: Hà Hữu Nga

Ghi chú đầu bản dịch:

1. Tiền Mục (30 tháng 7 năm 1895 - 30 tháng 8 năm 1990), tên thật là Tiền Ân Hoành, tự là Tân Tư, là một nhà sử học, triết gia và nhà văn người Vô Tích, tỉnh Giang Tô. Ông cũng là hậu duệ của dòng họ Ngô Việt Tiền. Họ Ngô Việt Tiền là tên gọi của 錢鏐 Tiền Lưu, người sáng lập ra nước Ngô Việt, và các hậu duệ của ông. [Ghi chú Tiền Lưu: Thái Tổ nước Ngô Việt (10 tháng 3 năm 852 – 6 tháng 5 năm 932), tên tự là Cụ Mỹ, còn gọi Cư Mỹ, người Lâm An, Hàng Châu, tỉnh Chiết Giang. Ông là vị vua khai quốc của Vương quốc Ngô Việt trong thời kỳ Ngũ Đại Thập Quốc. Vào cuối thời nhà Đường, ông theo tướng Đổng Xương của thị trấn Thạch Cảnh đàn áp các cuộc nổi loạn của nông dân và giữ chức Tiết độ sứ của Trấn Hải. Trong thời Càn Ninh, tháng 1 năm 894 - tháng 8 năm 898, là niên hiệu thứ tư của Đường Chiêu Tông Lý Diệp, ông đã đánh bại Đổng Xương và giành quyền kiểm soát mười ba châu vùng Lưỡng Chiết [Lộ Lưỡng Chiết là một khu vực hành chính địa phương dưới thời Bắc Tống. Được thành lập vào năm 997, Lộ này bao gồm 14 châu và 2 quận: Thường Châu, Tô Châu, Nhuận Châu (thành phố Trấn Giang), Hàng Châu, Hồ Châu, Tú Châu (thành phố Gia Hưng), Việt Châu (thành phố Thiệu Hưng), Minh Châu (thành phố Ninh Ba), Đài Châu, Vụ Châu (thành phố Kim Hoa), Cù Châu, Mục Châu (thành phố Kiến Đức), Ôn Châu, Xử Châu (thành phố Lệ Thủy), và các quận Giang Âm và Thuận An. Năm Hi Ninh thứ bảy, Lộ này được chia thành hai, sau đó hợp nhất thành một; năm thứ chín lại được chia tách; và năm thứ mười thì hợp nhất. Sau khi nhà Nam Tống di về phía Nam, Lộ Chiết Giang được chia thành Lộ Đông Chiết Giang và Lộ Tây Chiết Giang. HHN]. 

Vào năm đầu tiên của triều đại Khai Bình của Hậu Lương, ông được phong làm Vua nước Ngô Việt. Trong thời gian trị vì của mình, ông đã huy động dân công xây dựng đê Tiền Đường và hệ thống cống, đập khắp lưu vực Thái Hồ để tích trữ nước, giảm thiểu hạn hán và lũ lụt. Ông cũng thiết lập một hệ thống bảo trì mạng lưới thủy lợi và đê điều, mang lại lợi ích cho nền kinh tế nông nghiệp của khu vực. Do diện tích nhỏ và yếu kém, lại xung đột với các chế độ Ngô và Mân lân cận, Ngô Việt phải tìm nơi nương tựa ở các triều đại Trung Nguyên, nhiều lần phái sứ thần đến cống nạp và cầu xin bảo hộ. Đầu tiên ông thần phục nhà Hậu Lương, sau đó là nhà Hậu Đường. Dưới thời Hoàng đế Đường Minh Tông, ông bị tước bỏ chức vụ vì đã chọc giận Xu Mật sứ An Trọng Hối, nhưng được phục hồi chức vụ sau khi An Trọng Hối qua đời. Ông mất vì bệnh vào năm 932 và được an táng tại núi Mao Sơn, hương Y Cẩm, huyện An Quốc (nay là huyện Lâm An). Miếu hiệu của ông là Thái Tổ, thụy hiệu là Ngũ Túc Vương. Hậu duệ của ông đã sản sinh ra nhiều nhân vật đáng chú ý, bao gồm Tiền Đại Tín, một nhân vật tiêu biểu của trường phái tư tưởng Càn Long và Gia Khánh thời nhà Thanh, cũng như các chính trị gia và học giả đương thời Tiền Kỳ Thần, Tiền Chính Anh, Tiền Học Sâm, Tiền Duy Xương, Tiền Tam Cường, Tiền Trung Thư, Tiền Phủ và Tiền Mục. Họ chủ yếu sống ở Chiết Giang, đông nam Giang Tô và Thượng Hải. HHN] Tiền Mục là người đồng sáng lập Thư viện Tân Á, Viện Nghiên cứu Tân Á và Trường Trung học Tân Á tại Hồng Kông. Tiền Mục dành cả cuộc đời để quảng bá văn hóa truyền thống Trung Hoa và giương cao ngọn cờ của Nho giáo tân thời hiện đại, một học thuyết có ảnh hưởng to lớn trong và ngoài nước. Ông đã viết nhiều sách, bao gồm hơn 80 chuyên khảo; vì vậy, ông, cùng với Lữ Tư Miễn, Trần Viên và Trần Dần Khác, được mệnh danh là “Tứ Đại Sử Gia” của Trung Quốc. Năm 1968, ông trở thành viện sĩ Phân khoa Khoa học Xã hội và Nhân văn thuộc Viện Hàn lâm Trung Hoa.

2. Bành Lâm: Nam, sinh ngày 15 tháng 10 năm 1949 tại Vô Tích, tỉnh Giang Tô. Ông là nhà sử học, giáo sư và người hướng dẫn tiến sĩ của Khoa Lịch sử tại Đại học Thanh Hoa, giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Lễ nghi Trung Quốc và là một trong những giáo sư cao cấp đầu tiên về khoa học xã hội tại Đại học Thanh Hoa. Năm 1989, ông nhận bằng tiến sĩ lịch sử tại Đại học Sư phạm Bắc Kinh. Ông chuyên nghiên cứu các tác phẩm kinh điển của Nho giáo như Chu Lễ, Nghi lễ và Lễ ký. Ông cũng là giám đốc của Hiệp hội Nho giáo quốc tế và là chuyên gia chính của Dự án lớn của Quỹ Khoa học Xã hội Quốc gia. Các tác phẩm tiêu biểu của ông bao gồm “Nghiên cứu về Tư tưởng chính và Thời đại của Chu Lễ” và “Sự lan truyền của Lễ nghi Trung Quốc ở Triều Tiên cổ đại”. Bành Lâm tốt nghiệp Trường Trung học cơ sở Vô Tích số 4 năm 1965. Ông làm thợ lắp ráp tại Nhà máy Cơ khí Cám Giang do nhà nước sở hữu và là giáo viên tại trường thiếu nhi. Năm 1984, ông được nhận vào Đại học Sư phạm Bắc Kinh để nghiên cứu lịch sử tiền Tần và được thăng chức giáo sư vào năm 1993. Năm 1999, ông được chuyển đến Đại học Thanh Hoa và giảng dạy các khóa học chất lượng cấp quốc gia như “Nghi thức và văn minh cổ đại Trung Quốc” và “Di tích văn hóa và văn hóa Trung Quốc”. Ông đã chủ trì dự án lớn của Quỹ Khoa học Xã hội Quốc gia “Phục hồi Kinh Lễ và Tái thiết Nghi thức hàng ngày đương đại” và giành giải nhì Giải thưởng Thành tựu Giảng dạy Quốc gia và Giải thưởng Giảng viên Xuất sắc của Đại học Bắc Kinh. Ông từng là giáo sư thỉnh giảng tại nhiều trường đại học trong đó có Đại học Kyoto.

Tóm tắt

Kể từ Phong trào Ngũ Tứ [Ngũ Tứ là một phong trào sinh viên trong lịch sử Trung Quốc hiện đại. Vào ngày 4 tháng 5 năm 1919, sinh viên Bắc Kinh đã tuần hành phản đối Nghị quyết về vấn đề Sơn Đông tại Hội nghị Hòa bình Paris, kêu gọi chính quyền Bắc Dương lúc bấy giờ không ký hiệp định và yêu cầu trừng phạt các quan chức liên quan. Lý do là vì Trung Quốc, với tư cách là quốc gia chiến thắng trong Chiến tranh Thế giới Thứ nhất, đã hy vọng rằng “công lý sẽ chiến thắng cường quyền” và có thể giành lại quyền lợi cho quốc gia bại trận là nước Đức, tại Giao Đông. Tuy nhiên, các nước tham gia đã quyết định chuyển giao quyền lực và lợi ích cho Nhật Bản. Tình cảm dân tộc tích tụ lâu đời của nhân dân Trung Quốc bùng nổ, sinh viên xuống đường hô vang: “Ngoại tranh chủ quyền, Nội trừ quốc tặc” “Đấu tranh giành chủ quyền ở nước ngoài, trừ khử gian thần trong nước”, và phong trào tiến triển đến mức đốt cháy Triệu Gia Lầu của Tào Nhữ Lâm, Tổng trưởng Giao thông, nguyên Thứ trưởng Ngoại giao của chính phủ Viên Thế Khải, người trực tiếp ký kết “Hiệp ước 21 điều”; đánh đập Chương Tông Tường – Bộ trưởng Tư pháp, Đại sứ thần Quốc Dân đảng tại Nhật Bản. Khái niệm “Phong trào Ngũ Tứ” nói chung bao gồm một loạt các cuộc tuần hành, biểu tình, tẩy chay trường học, tẩy chay doanh nghiệp và đình công trên toàn quốc sau ngày 4 tháng 5, bao gồm Phong trào ngày 3 tháng 6 mà cộng đồng doanh nghiệp tham gia, dẫn đến việc sa thải các quan chức thân Nhật như Tào Nhữ Lâm, Chương Tông Tường và Lỗ Tông Vũ, và cuối cùng là phái đoàn Trung Quốc từ chối ký Hiệp ước Versailles vào ngày 28 tháng 6. HHN] giữa cơn sóng trào hướng Tây trên khắp đất nước, Tiền Mục [Ân Hoành] lại kiên quyết hướng Đông, đưa ra một luận điểm học thuật toàn diện bảo vệ nền văn minh lễ nghi và âm nhạc vốn bị giới trí thức chỉ trích gay gắt. Bài viết này điểm lại ba tác phẩm của Tiền Tiên sinh tập trung vào văn minh lễ nghi và âm nhạc:

(1) “Lễ dữ Pháp” (Lễ trị và Pháp trị) - so sánh, phân tích nguồn gốc, đặc điểm của chế độ quản lý bằng Lễ trị Trung Quốc và Pháp trị phương Tây từ nhiều góc độ và cấp độ khác nhau, lập luận rằng Lễ trị rõ ràng vượt trội hơn Pháp trị; (2) “Lễ nhạc Nhân sinh” (Lễ nhạc và Đời sống) - bàn luận tiêu chuẩn của Khổng Tử về “Thành nhân” (tức là đạt được một nhân cách lý tưởng), lập luận rằng “Lễ nhạc” cao hơn kỹ năng, trí tuệ và đức hạnh. Lễ nhạc là cấp độ cao nhất của “Thành nhân”, và do đó Tiền Tiên sinh đã thúc đẩy một cuộc sống dựa trên Lễ nhạc tại Thư viện Tân Á do ông chủ trì; (3) “Nhất đường Trung Quốc văn hóa khóa” Môn học về Văn hóa Trung Hoa - đây là bài phỏng vấn Tiền Tiên sinh của một học giả người Mỹ. Tiền Tiên sinh thảo luận về văn hóa Trung Quốc và phương Tây dưới góc độ nghi lễ và phong tục, chỉ ra rằng phương Tây phân chia các quốc gia theo phương ngữ và phong tục, dẫn đến nhiều quốc gia nhỏ với ít dân tộc. Trung Quốc, bên cạnh phong tục, còn có “Lễ” là tiêu chí đánh giá bản sắc dân tộc. “Lễ” tượng trưng cho sự độc đáo của văn hóa Trung Hoa và là cốt lõi của tư tưởng Trung Quốc.

Từ khóa: Tiền Mục, Lễ trị, Lễ nhạc, Văn hóa Trung Quốc, Phong tục [關鍵詞: 錢穆  禮治  禮樂  中國文化  風俗]

Kể từ khi học thuật phương Tây du nhập vào phương Đông, người Trung Quốc luôn phải đối mặt với tình thế tiến thoái lưỡng nan đầy đau khổ khi phải lựa chọn văn hóa: nên theo đuổi văn hóa Châu Âu (dù là Tây Âu hay Đông Âu) hoặc bám víu vào văn hóa riêng của mình? Lựa chọn này phụ thuộc vào cách nhận diện và đánh giá những đặc điểm độc đáo của văn hóa Trung Hoa. Lương Khải Siêu (Nhậm Công, 1873-1929) cho rằng những đặc điểm độc đáo của văn hóa Trung Hoa là nhờ ở Lễ, được Tiền Mục Tiên sinh đồng tình mạnh mẽ: 梁任公以中國重禮治與西方重法治相對,此可謂深得文化分別之大旨所在. “Lương Nhậm Công dĩ Trung Quốc trọng lễ trị dữ Tây phương trọng pháp trị tương đối, thử khả vị thâm đắc văn hóa phân biệt chi đại chỉ sở tại.” “Sự tương phản giữa việc Trung Quốc nhấn mạnh vào Lễ trị và phương Tây nhấn mạnh vào Pháp trị, đã cho thấy bản chất của sự khác biệt văn hóa.”1 Tiếc là Nhậm Công đã không đi sâu hơn vào vấn đề Lễ vượt trội hơn Pháp. Chính vì vậy, Tiền Tiên sinh đã tiến hành những nghiên cứu chuyên sâu về văn hóa Lễ nhạc Trung Hoa, đề cập đến chủ đề này trong nhiều tác phẩm của mình [tr.105]; những bài phân tích cô đọng nhất của ông được tìm thấy trong ba tác phẩm: ‘Lễ dữ Pháp’, ‘Lễ nhạc Nhân sinh’ và ‘Nhất đường Trung Quốc Văn hóa Khóa’. Khi xem xét lại những lý thuyết sâu sắc của GS. Tiền, trí tuệ và sự thấu hiểu của ông vẫn còn truyền cảm hứng sâu sắc.

(I) Lễ trị và Pháp trị

Vào mùa xuân và mùa hè năm 1948, Tiền Tiên sinh tĩnh dưỡng ở Thái Hồ, quê hương Vô Tích. Lúc đó, đất nước đang đứng trước một cuộc biến động chính trị đầy kịch tính. Trung Quốc sẽ đi về đâu? Câu hỏi này gây xôn xao cả trong nước lẫn quốc tế. Nhiều đảng phái chính trị ở Trung Quốc đại lục đã bày tỏ quan điểm của mình, tìm cách tác động đến tình hình. Tiền Tiên sinh luôn giữ khoảng cách với các đảng phái này, thay vào đó tập trung vào việc nghiên cứu và lý giải vị thế cốt lõi của văn hóa. Văn hóa là nơi trú ngụ của tinh thần dân tộc và là sợi dây kéo cả quốc gia tiến lên. Chỉ khi hiểu đúng vị thế cốt lõi đó, người ta mới có thể đưa ra những quyết định phù hợp với xu hướng lịch sử rộng lớn hơn. Trong thời gian này, Tiền Tiên sinh đã suy ngẫm sâu sắc về các chủ đề so sánh văn hóa Trung Quốc và phương Tây, chẳng hạn như tinh thần và vật chất, nghệ thuật và khoa học, tự do và can thiệp, tranh đấu và nhân từ, khoa học và cuộc sống, kinh nghiệm và tư tưởng. Ông là tác giả của ba mươi bài luận, sau này được biên soạn và xuất bản với tựa đề湖上閑思錄 “Hthượng Nhàn lục” Những suy tư lúc nhàn tản trên hồ, trong đó có Chương 禮與法 Lễ dữ Pháp, dựa trên lời dạy về 踵武 ‘chủng vũ’ của Nhậm Công, đưa ra một so sánh sâu sắc về ưu và nhược điểm, lợi và hại của chế độ Lễ trị và chế độ Pháp trị, từ hình thức đến nội dung. [Ghi chú: 踵武 “chủng vũ” là một từ có nguồn gốc “Sở từ-Li tao” của Khuất Nguyên. Bản nghĩa của nó là nối gót bậc tiền bối, và được mở rộng thành tiếp nối di sản của bậc tiền bối hoặc noi gương các bậc hiền triết. Từ này lần đầu tiên được thấy trong bài thơ 忽奔走以先後兮,及前王之踵武 “Hốt bôn tẩu dĩ tiên hậu hề, Cập Tiền Vương chi chủng vũ” - Đột nhiên chạy tới chạy lui, noi gương các bậc Tiên Vương] của Khuất Nguyên vào thời Chiến Quốc, và đã trở thành một ẩn dụ văn học phổ biến trong các thế hệ sau. Trong thành ngữ, 踵武相接Chủng vũ tương tiếp’ mô tả những người kế thừa truyền thống của bậc tiền bối, trong khi 踵武前賢 “Chủng vũ Tiền hiền nhấn mạnh việc noi gương các bậc hiền triết. Từ này mang hàm ý trung tính về cảm xúc và thường được dùng làm vị ngữ, tân ngữ hoặc thuộc tính trong văn viết. HHN] Cuộc tranh luận về việc nên cai trị một quốc gia và người dân ‘bằng pháp luật và hình phạt’ hay ‘bằng đức hạnh và lễ nghi’ - nói tóm lại, vấn đề Lễ trị hay Pháp trị đã là một chủ đề tranh luận ngay từ thời Xuân Thu. Khổng Tử (551-479 TCN) đã chọn Lễ trị. Sau đó, thông qua sự đề cao của những nhân vật như Mạnh Tử (372-289 TCN) và Tuân Tử (313-238 TCN), Lễ trị dần trở thành ý thức chủ đạo của xã hội và là một khái niệm nền tảng trong tư tưởng Trung Quốc cổ đại.

Giới học thuật Trung Quốc hiện đại, bị văn minh phương Tây tẩy não đến tận gốc rễ quan điểm, nên dễ thấy Lễ trị trái ngược với thực tế Trung Quốc, khó mà tưởng tượng nổi. Họ lập luận rằng:「中國是一大農國,以一個中央政府統治惹大一個國家,應該有一種普遍而公平的法律,才能將全國各地攝合在一起。而且農業社會比較穩定,不多變動,那一種法律,因而也必得有其持久性以相適應,因此中國政治從其客觀要求論,實在最易走上一條法治的道路。」然而不無吊詭者,「中國思想界卻總是歌詠禮治,排擊法治,尤其是儒家可為代表」Phiên âm: “Trung Quốc thị nhất đại nông quốc, dĩ nhất cá Trung ương Chính phủ thống trị nhạ đại nhất cá quốc gia, ứng cai hữu nhất chủng phổ biến nhi công bình đích pháp luật, tài năng tương toàn quốc các địa nhiếp hợp tại nhất khởi. Nhi thả nông nghiệp xã hội bỉ giác ổn định, bất đa biến động, na nhất chủng pháp luật, nhân nhi dã tất đắc hữu kì trì cửu tính dĩ tương thích ứng, nhân thử Trung Quốc chính trị tòng kì khách quan yếu cầu luận, thật tại tối dịch tẩu thượng nhất điều pháp trị đích đạo lộ.” Nhiên nhi bất vô điếu quỷ giả, “Trung Quốc tư tưởng giới khước tổng thị ca vịnh lễ trị, bài kích pháp trị, vưu kì thị nho gia khả vi đại biểu”. Dịch nghĩa: “Trung Quốc là một quốc gia nông nghiệp lớn, do chính quyền trung ương quản lý. Một quốc gia rộng lớn như vậy phải có luật pháp phổ quát và công bằng để thống nhất mọi vùng miền. Hơn nữa, xã hội nông nghiệp tương đối ổn định và ít khi thay đổi, vì vậy bất kỳ loại luật nào cũng phải bền vững để thích ứng với điều này. Do đó, dựa trên những yêu cầu khách quan của nó, chính trị Trung Quốc rất có thể sẽ áp dụng pháp quyền.” Tuy nhiên, có phần nghịch lý, “giới trí thức Trung Quốc luôn ca ngợi Lễ trị và bác bỏ Pháp trị, đặc biệt là Nho giáo.”2 Tại sao giới tinh hoa trí thức tiền Tần lại chọn Lễ trị? Cơ sở lý luận của họ cho Lễ trị ở Trung Quốc là gì? Rất ít học giả hiện đại tham gia thảo luận thẳng thắn về vấn đề này, trong khi nhiều người chỉ đơn giản chỉ trích 禮教殺人 “Lễ giáo sát nhân” giáo dục nghi lễ là giết người. Tác phẩm “Lễ dữ Pháp” của Tiền Tiên sinh so sánh Lễ nghi và Pháp luật từ cả “ngoại diện tượng” và “thâm tằng tượng” góc độ “hình thức bên ngoài” lẫn “bản chất bên trong”, xem xét ưu và nhược điểm của mỗi bên từ góc độ bình đẳng, tự do, xã hội và chính trị:

之外面像是等級的,其實卻是平等的。法之外面像是平等的,其實則是等級的。是導人走向自由的,而法則是束縛限制人的為的。是一種社會性的,而法則是一種政治性的。是由社會上推之於政府的,而法則是由政府而下之於社會的。無如何,必然承認有對方,而且其對對方又多少必有一些敬意的。法則只法,不論人。殺人者死,傷人及盜抵罪,那曾考慮到被罰者。因此是私人相互間事,而法則是用統治群眾的。治精神須寄放在社會各個人身上,保著各個人之平等與自由,而趨向於一種鬆弛散漫的局面。法治精神則要寄放在國家政府,以權為中心,而削弱限制各個人之自由,而趨向於一種強的制裁的.” Phiên âm: “Lễ chi ngoại diện tượng thị đẳng cấp đích, kì thật khước thị bình đẳng đích. Pháp chi ngoại diện tượng thị bình đẳng đích, kì thật tắc [p.106] thị đẳng cấp đích. Lễ thị đạo nhân tẩu hướng tự do đích, nhi pháp tắc thị thúc phược hạn chế nhân đích hành vi đích. Lễ thị nhất chủng xã hội tính đích, nhi pháp tắc thị nhất chủng chính trị tính đích. Lễ thị do xã hội thượng thôi chi ư chính phủ đích, nhi pháp tắc thị do chính phủ nhi hạ hành chi ư xã hội đích. Vô luận như hà, lễ tất nhiên thừa nhận hữu đối phương, nhi thả kì đối đối phương hựu đa thiểu tất hữu nhất ta kính ý đích. Pháp tắc chỉ luận pháp, bất luận  nhân. Sát nhân giả tử, thương nhân cập đạo để tội, na tằng lai khảo lự đáo bị phạt giả. Nhân thử lễ thị tư nhân tương hỗ gian sự, nhi pháp tắc thị dụng lai thống trị quần chúng đích. Lễ trị tinh thần tu kí phóng tại xã hội các cá nhân thân thượng, bảo lưu trứ các cá nhân chi bình đẳng dữ tự do, nhi xu hướng ư nhất chủng tông thỉ tán mạn đích cục diện. Pháp trị tinh thần tắc yếu kí phóng tại quốc gia chính phủ, dĩ quyền lực vi trung tâm, nhi tước nhược hạn chế các cá nhân chi tự do, nhi xu hướng ư nhất chủng cường lực đích chế tài đích.”3 Dịch nghĩa: “Lễ tưởng chừng phân chia đẳng cấp, nhưng thực chất lại bình đẳng. Luật tưởng chừng như bình đẳng, nhưng thực chất lại là đẳng cấp.” [tr. 106] Lễ hướng dẫn con người đến tự do, trong khi Luật ràng buộc và hạn chế hành vi của con người. Lễ mang tính xã hội, trong khi Luật mang tính chính trị. Lễ do xã hội áp đặt lên chính quyền, trong khi luật do chính quyền áp đặt lên xã hội. Dù sao đi nữa, Lễ nhất thiết phải thừa nhận sự tồn tại của đối phương và nhất thiết phải thể hiện sự tôn trọng đối với đối phương. Luật chỉ xét đến luật, chứ không xét đến con người. Giết người phải chịu án tử hình, còn gây thương tích và trộm cắp phải chịu hình phạt. Vậy thì ai đã từng nghĩ đến kẻ bị trừng phạt? Do đó, Lễ là chuyện cá nhân tương hỗ, còn Luật dùng để cai trị quần chúng. Tinh thần Lễ trị phải được thể hiện trong mỗi cá nhân trong xã hội, bảo vệ sự bình đẳng và tự do của họ, hướng tới một môi trường không gò bó. Mặt khác, tinh thần Pháp trị phải được đặt vào chính quyền quốc gia, lấy quyền lực làm trung tâm, làm yếu đi những hạn chế đối với quyền tự do cá nhân, và có xu hướng trở thành một chế tài mạnh mẽ.”3

Theo quan điểm của Tiền Tiên sinh, mục đích cơ bản của Lễ là bình đẳng và tính xã hội, được đẩy từ xã hội đến chính quyền, dẫn dắt mọi người đến tự do. Lễ ít nhất cũng thừa nhận và tôn trọng người khác. Tinh thần Lễ trị phải được thể hiện trong mỗi cá nhân trong xã hội, bảo vệ sự bình đẳng và tự do của họ; tinh thần Pháp trị hoàn toàn trái ngược với điều này. Theo quan điểm của Tiền Tiên sinh, Lễ trị rõ ràng vượt trội hơn Pháp trị. Quan điểm này hoàn toàn đảo ngược quan niệm thông thường, và độc giả vô cùng kinh ngạc! Tuy nhiên, khi xem xét kỹ hơn, người ta không khỏi ngưỡng mộ sự sáng suốt phi thường của ông. Quan điểm này là một lời cảnh tỉnh cho thế giới trí thức hiện đại, vốn đã không thể thoát khỏi sự mê hoặc của nền văn minh phương Tây. Tiền Tiên sinh lập luận thêm rằng sự khác biệt trong cách tiếp cận quản trị của phương Đông và phương Tây không phải là ngẫu nhiên, mà có lý do lý thuyết: hai bên theo đuổi những mục tiêu rất khác nhau, với phương Đông nhấn mạnh vào tình cảm còn phương Tây tập trung vào quyền lợi: 法的重要性,在保護人之權。而之重要性,則在導達人之情感。權是物質上的,而情感則是性上的。人類相處,能保衛其各自物質上之權,固是可憂,然而能導達其相互間之情感到一個恰好的地位,尤屬可悲。權是對峙的,而情感則是交的。惟其是對峙的,所以可保衛,也可奪取。惟其是交的,所以當導達,又當融通。因而常是軟性的,而法則常是硬性的。中國社會沉浸在此尚的風氣中,一講交情,講通融,像是缺乏力量。但弱者在其間,卻多迴旋轉身之餘地,因此一可以滑溜前進,輕鬆轉變。在尚法的社會,遇到權相衝突的當口,法雖為保護權而設,但既是雙方權相衝突,保護甲方,便不能同時保護到乙方”. Phiên âm: “Pháp đích trọng yếu tính, tại bảo hộ nhân chi quyền lợi. Nhi lễ chi trọng yếu tính, tắc tại đạo đạt nhân chi tình cảm. Quyền lợi thị vật chất thượng đích, nhi tình cảm tắc thị tính linh thượng đích. Nhân loại tương xứ, bất năng bảo vệ kì các tự vật chất thượng chi quyền lợi, cố thị khả ưu, nhiên nhi bất năng đạo đạt kì tương hỗ gian chi tình cảm đáo nhất cá kháp hảo đích địa vị, vưu chúc khả bi. Quyền lợi thị đối trĩ đích, nhi tình cảm tắc thị giao lưu đích. Duy kì thị giao lưu đích, sở dĩ đương đạo đạt, hựu đương dung thông. Nhân nhi lễ thường thị nhuyễn tính đích, nhi pháp tắc thường thị ngạnh tính đích. Trung Quốc xã hội trầm tẩm tại thử thượng lễ đích phong khí trung, nhất thiết giảng giao tình, giảng thông dung, tượng thị khuyết phạp lực lượng. Đãn nhược giả tại kì gian, khước đa hồi toàn chuyển thân chi dư địa, nhân thử nhất thiết khả dĩ hoạt lưu tiền tiến, khinh tông chuyển biến. Nhược tại thượng pháp đích xã hội, ngộ đáo quyền lợi tương xung đột đích đương khẩu, pháp luật tuy vi bảo hộ quyền lợi nhi thiết, đãn kí thị song phương quyền lợi tương xung đột liễu, bảo hộ liễu giáp phương, tiện bất năng đồng thì bảo hộ đáo ất phương”. Dịch nghĩa: “Tầm quan trọng của Luật pháp là ở việc bảo vệ quyền con người. Tầm quan trọng của Lễ nghi nằm ở việc dẫn dắt tình cảm của con người. Quyền là vật chất, trong khi tình cảm là tính linh thượng. Con người không thể bảo vệ các quyền vật chất của mình là điều đáng lo ngại, nhưng còn bi kịch hơn nữa khi họ không thể dẫn dắt tính cảm của mình đến một mức độ phù hợp. Quyền lợi là đối địch, trong khi tình cảm là giao lưu.” Vì là trạng thái đối địch, nên nó có thể được phòng thủ cũng như chiếm giữ. Vì là trạng thái giao lưu, nên nó cần được thúc đẩy và dung thông tích hợp. Do đó, Lễ thường mềm mỏng, trong khi Pháp thường cứng nhắc. Xã hội Trung Quốc, thấm nhuần văn hóa Lễ ấy, nên luôn trọng tình và trọng hòa, lại dường như thiếu sức mạnh. Tuy nhiên, những người yếu thế có nhiều không gian để xoay xở, cho phép mọi thứ trôi chảy và dễ dàng thay đổi. Trong một xã hội coi trọng pháp, khi quyền lợi xung đột, trong khi luật pháp tồn tại để bảo vệ họ, thì vì quyền lợi của cả hai bên xung đột, việc bảo vệ bên Giáp không thể đồng thời bảo vệ bên Ất.4

Tuyên bố của Tiền Tiên sinh đã nắm bắt sâu sắc bản chất của văn hóa Nho giáo. Con người, là sinh vật thông minh nhất, sở hữu những cảm xúc tinh tế và phong phú nhất. Trong suốt cuộc đời, mọi lời nói và hành động đều bị chi phối bởi cảm xúc. Nếu cảm xúc không đúng đắn, hành vi sẽ không phù hợp, và cuộc sống sẽ đầy rẫy bất hạnh. Con người không phải là thánh nhân, và làm sao chúng ta có thể tự nhiên đạt được trạng thái không thái quá cũng không phải không thái quá khi cảm xúc không được kiểm soát? Chính vì điều này, mà thường nhân dễ rơi vào trạng thái cực kỳ vui sướng, đau buồn, hờn ghen, thịnh nộ, cuồng nộ, sa đọa và trầm cảm. Trọng tâm của văn minh Lễ nhạc là cách sử dụng lý trí đạo đức để kiểm soát tâm trí và cảm xúc,5 loại bỏ bản chất man rợ, thú tính còn sót lại trong con người. Kinh điển Nho giáo thường bàn về mối quan hệ giữa Lễ nghi và Cảm xúc của con người, chẳng hạn như 禮者,因人之情而為之節文 lễ giả, nhân nhân chi tình nhi vi chi tiết văn’ “Lễ điều tiết văn chất bằng tình cảm của người ta vậy” (Lễ ký, Phường ký) và 禮生於情 Lễ sinh ư tình “Lễ sinh ra từ tình vậy” (Quách Điếm sở giản. Ngữ Tùng nhị). Do đó, quan niệm 緣情制禮 duyên tình chế lễ “lễ do tình cảm chế quản” đã tồn tại từ thời cổ đại. Trung Dung là một trong những kinh điển cốt lõi trong lịch sử tư tưởng Trung Hoa. Mục đích chính của nó là giải quyết khoảng cách giữa vui, buồn, hờn, giận “trước khi được thể hiện” và cả “sau khi được thể hiện”. Nó dạy rằng cảm xúc nên được thể hiện một cách “chừng mực”. Điều này phù hợp với giáo lý của Kinh Thi, trong đó nói rằng 發乎情,止乎禮義phát hồ tình, chỉ hồ lễ nghĩa’ – “Cái tình bột phát Lễ nghĩa quản kiềm vậy” (Mao Thi tự - Lời tựa của Mao thi). Mục đích cốt lõi của Lễ nghĩa là kiểm soát cảm xúc bồng bột vậy. Do đó, Tiền Tiên sinh đã diễn giải Học thuyết Trung dung theo khía cạnh lễ nghĩa, khi cho rằng đây cũng là một văn bản cổ của Trung Quốc nhấn mạnh đến tính văn chương của Lễ nghĩa”.6

Từ năm 1969 đến năm 1971, Tiền Tiên sinh giảng dạy các tác phẩm kinh điển của lịch sử Trung Quốc cho các nghiên cứu sinh tiến sĩ tại Viện sau đại học của Đại học Văn hóa Đài Loan. Khi thảo luận về cuốn Thông Điển của Đỗ Hựu (735-812), Tiền Tiên sinh khẳng định lại rằng Trung Quốc là một xã hội Lễ trị: 諸位要知,中國政治是一個治主義的。倘使我們西方政治是法治主義,最高是法律,那麼中國政治最高是「」,中國傳統政治想是治。甚麼叫做「」?今天我們豈不一點也知。還是鞠躬舉手就算禮了呢?倘使諸位《通典》,研究經濟史的,只翻它〈食貨志〉。研究選舉制的,只翻他〈選舉志〉。研究政治組織的,只翻他的〈職官志〉。卻沒有人去翻它大半部《通典》所講的。可是一部《通典》裡,很大的貢獻就在這。他把吉、凶、軍、賓、嘉五種,中國人一向稱為「五」。不讀古書,就曉得這五所包括的範圍.”7 Phiên âm: “Chư vị yếu tri, Trung Quốc chính trị thị nhất cá lễ trị chủ nghĩa đích. Thảng sử ngã môn thuyết Tây Phương chính trị thị pháp trị chủ nghĩa, tối cao thị pháp luật, na ma Trung Quốc chính trị tối cao thị ‘Lễ’, Trung Quốc truyền thống chính trị lý tưởng thị lễ trị. Thậm ma khiếu tố ‘Lễ’? Kim thiên ngã môn khí bất nhất điểm dã bất tri. Hoàn thị cúc cung cử thủ tựu toán lễ liễu ni? Thảng sử chư vị độc “Thông điển”, nghiên cứu kinh tế sử đích, chỉ phiên tha ‘thực hóa chí’. Nghiên cứu tuyển cử chế độ đích, chỉ phiên tha “Tuyển cử chí”. Nghiên cứu chính trị tổ chức đích, chỉ phiên tha đích “Chức quan chí”. Khước một hữu nhân khứ phiên tha đại bán bộ “Thông điển” sở giảng đích lễ. Khả thị nhất bộ “Thông điển” lễ, ngận đại đích cống hiến tựu tại giá lễ. Tha bả lễ phân liễu cát, hung, quân, tân, gia ngũ chủng, Trung Quốc nhân nhất hướng xưng vi ‘Ngũ lễ’. Bất độc cổ thư, tựu bất hiểu đắc giá ngũ lễ sở bao quát đích phạm vi.”7 Dịch nghĩa: “Mọi người nên biết rằng chính trị Trung Quốc là một nền chính trị Lễ trị chủ nghĩa. Nếu chúng ta nói rằng chính trị phương Tây là Pháp trị chủ nghĩa, với luật pháp là tối cao, thì cấp độ tối cao của chính trị Trung Quốc chính là ‘Lễ’, và lý tưởng chính trị truyền thống của Trung Quốc là Lễ trị. Vậy ‘Lễ’ là gì? Chẳng phải ngày nay chúng ta không biết gì về nó sao? Hay chúng ta coi việc cúi chào và giơ tay là Lễ? Nếu các vị đọc Thông điển và nghiên cứu lịch sử kinh tế, thì tham khảo Thực hóa c. [Chú thêm: ‘Thực hóa chí’ là một thể loại chính của sử sách cổ đại. Nó bắt nguồn từ tám chính sách nông nghiệp trong Kinh Thư. Thứ nhất là lương thực, nghĩa là cần cù làm nông. Thứ hai là hàng hóa, nghĩa là những hóa vật quý giá. Nói cách khác, nó đề cập đến những thứ để ăn và những thứ để sử dụng. ‘Thực hóa chí’ không có trong Sử ký của Tư Mã Thiên. ‘Thực hóa chí bắt đầu từ sách ‘Hán thư’ của Ban Cố: “Trong Bát chính của Hồng Phạm, thứ nhất là ‘thực’, thứ hai là ‘hóa’. ‘Thực’ là trồng trọt ngũ cốc cho tốt để làm lương thực, còn ‘Hóa’ là vải vóc để may quần áo, cũng như vàng, dao rìu, cá mú, sò ốc, được sử dụng để phân phối vật dụng, của cải và thúc đẩy dòng chảy hàng hóa. Hai thứ này là nền tảng của cuộc sống và đã được thiết lập từ thời Thần Nông.” Thực hóa trong ‘Tống sử’ bao gồm: ruộng đất, thuế má, vải vóc, vận chuyển ngũ cốc, dịch vụ lao động, muối, trà, rượu, thuế thương mại, trao đổi thị trường, phân phối bình đẳng, v.v. Tổng cộng có 14 tập.] Những người nghiên cứu hệ thống bầu cử sẽ chuyên chú vào “Tuyển cử chí”. Những người nghiên cứu các tổ chức chính trị sẽ đào sâu vào “Chức quan chí”. Nhưng chẳng ai buồn xem xét phần lớn những thảo luận về ‘Lễ’ của Thông Điến. Ấy vậy mà chính ở đây lại có đóng góp to lớn của Thông Điến. Ông chia ‘Lễ’ thành năm loại: Cát/Tốt lành, Hung/Xấu ác, Quân/Binh lính, Tân/Tân khách, Gia/Phúc lành, mà người Trung Quốc vẫn gọi là ‘Ngũ Lễ’. Nếu không đọc các văn bản cổ, người ta sẽ không biết được phạm vi của Ngũ Lễ này.” 7

Sau đó, trong cuốn “Thảo luận Học thuật Trung Quốc Hiện đại”, Tiền Tiên sinh lại bàn về lễ nghi, bàn về nhạc cổ gồm: “Tu thân, Tề gia, Trị quốc, Bình thiên hạ, đều cần đến Lễ. Phạm vi hòa hợp của Lễ rất rộng lớn, do đó người Trung Quốc rất trọng Lễ.”8

_____________________________________

(Còn nữa…)

Nguồn: (2015). 錢賓四先生的禮學觀.《能仁学报》第十三期, 2015 8月.Bành Lâm (2015). Tiền Tân Tứ Tiên sinh đích Lễ học quan. “Năng nhân học báo” Đệ thập tam kì, 2015 niên 8 nguyệt.

Ghi chú

* 清華大學史系教授中國學研究中心主任。

1.穆:〈中國知識分子〉,《國史新論》(北京:三聯書店,2001 年),頁 179。

2.錢穆:〈禮與法〉,《湖上閑思錄》(北京:三聯書店,2000 年),頁 48。

3.錢穆:〈禮與法〉,《湖上閑思錄》,頁 48。

4.同上,頁 49。

5.参見拙作:〈始者近情,者近義〉,《中國史研究》2001 年 3 期。

6.錢穆:〈禮樂人生──為《新亞雙周刊》六卷首期作〉,《新亞遺鐸》(北京:三聯書店,2004 年),頁 518。

7.錢穆:〈杜佑《通典》下〉,《中國史學名著》(北京:三聯書店,2000 年),頁 151。

 

 

 

 

 

 

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét