Powered By Blogger

Thứ Tư, 1 tháng 6, 2022

Sử dụng Khái niệm Mạng* trong Lý thuyết Phát triển Chính trị Xã hội Trường hợp Đông Nam Á (I)

Joyce C. White

Người dịch: Hà Hữu Nga

Chủ Nhật, 29 tháng 4, 2012

…Một khung khái niệm quyết định cách hiểu các mối quan hệ xã hội … một sự thay đổi trong khuôn khổ đó có thể xảy ra bằng một dấu hiệu rất khác biệt (Kemp và Husken 1991:8).

I. Sử dụng khái niệm mạng cho xã hội ĐNA

Các đặc trưng chung của sự phát triển kinh tế xã hội đang ngày càng trở nên rõ ràng trong khu vực Trung tâm Đông Nam Á (ĐNA) lục địa, bao gồm các dải thung lũng sông Chao Phraya, Irrawaddy, các nhánh hạ lưu sông Mekong, vùng miền Trung và ven biển Việt Nam. Trong các nhà nước tại khu vực này người ta thường gặp hai vấn đề:

1. Các nhà nước phát triển muộn (Winzeler 1976) liên quan đến các nhà nước có nguồn gốc bản địa của Cựu Lục địa. Tính chất muộn màng này (không đến giữa Thiên niên kỷ I sau công nguyên (SCN) dường như đưa lại ấn tượng là khảo cố học tiền sử đã mô tả sự hiện diện lâu dài của hai nhân tố kinh tế và công nghệ, đôi khi vẫn được coi là quan trọng đối với sự ra đời của một quốc gia tại một nơi nào đó: i) việc canh tác lúa nước từ thiên niên kỷ IV trước công nguyên (TCN) có lẽ đã xuất hiện tại các khu vực đất ngập nước quanh năm (White 1995); và ii) các sản phẩm chuyên biệt về đồ đồng được định niên đại ít nhất là từ nửa đầu thiên niên kỷ II TCN (White 1986, 1988; Muhly 1988: 16).

2. Đầy dẫy bằng chứng cho thấy rằng các nhân vật đóng vai trò xây dựng các nhà nước dường như lại chính là các cư dân bản địa, trong khi đó các mô hình tư duy khái niệm Ấn Độ vẫn được đại chúng chấp nhận có chọn lọc và được thích nghi hóa như là một kiến trúc thượng tầng ý thức hệ (Wheatley 1983). Nếu như các lực lượng địa phương trở nên quá quan trọng đối với quá trình phát triển của các nhà nước thì tại sao các mô hình chính thống hóa lại không phát triển theo cung cách bản địa? Tại sao người ta lại phải vay mượn quá nhiều từ ý thức hệ của một nền văn hóa hoàn toàn xa lạ? Wheatley (1979:295) đã khới lên rằng sự vay mượn ấy cho thấy các xã hội tiền nhà nước chắc chắn đã thiếu những mô hình chính thống làm cơ sở cho quá trình thể chế hóa bền vững hệ thống quản trị siêu làng. Tuy nhiền bằng chứng khảo cổ học từ giai đoạn tiền nhà nước tiền sử cũng cần phải được xem xét cùng với vấn đề này.   

Các quan sát về bước tiến, nền tảng kinh tế-công nghệ và chiến lược chính thống hóa đối với quá trình hình thành nhà nước ĐNA bản địa cho thấy rằng việc xem xét quỹ đạo văn hóa xã hội trong vùng chứa đựng những viễn cảnh quan tâm đến một lý thuyết tổng quát về quá trình phát triển của tính phức hợp chính trị xã hội nơi đây. Tuy nhiên sự trùng khớp giữa quá trình hình thành nhà nước với sự khởi đầu giai đoạn lịch sử có nghĩa là bằng chứng khảo cổ học về giai đoạn tiền sử sẽ đóng vai trò chủ chốt trong việc giải quyết các vấn đề nảy sinh.

Các hạn chế của Hệ mẫu Thủ lĩnh địa

Lâu nay người ta vẫn đặc biệt quan tâm tới việc nghiên cứu phức hợp xã hội thuộc các xã hội tiền nhà nước trong một vùng có thể được coi là các thủ lĩnh địa nếu như mô hình nhóm – bộ lạc – thủ lĩnh địa – nhà nước cho quá trình phát triển xã hội được chấp nhận. Đoạn mở đầu của một hợp tuyển mới đây dành riêng cho vấn đề thủ lĩnh địa (Earle 1991a:xii) đã ghi nhận rằng Châu Á không được trình bày trong bản tóm tắt đó một phần là vì “khái niệm thủ lĩnh địa ít được sử dụng” trong vùng này. Tình trạng thiếu vắng những văn liệu mạch lạc và có ảnh hưởng trong việc sử dụng khái niệm thủ lĩnh địa vào các xã hội tiền nhà nước tại ĐNA chí ít cũng có thể quy vào 4 lý do sau đây:

1. Các hệ mẫu chuyên ngành – Đa phần mang tính học thuật về các nhà nước sớm ở ĐNA được thực hiện trong các bộ môn không phải là khảo cổ học nhân học Mỹ. Các sử gia, các nhà lịch sử nghệ thuật và các nhà bi ký học được dạy dỗ theo truyền thống Châu Âu đã tiến hành hầu hết các nghiên cứu, các lý giải dữ liệu để có được những tổng hợp đầu tiên. Hầu hết các học giả này ít cảm thấy bị bắt buộc phải tiến hành các cuộc thảo luận trong khuôn khổ của một hệ mẫu lý thuyết tiến hóa văn hóa (Taylor 1992:181).

2. Thiếu các dữ kiện khảo cổ học – Chỉ có một số lượng ít ỏi các dữ kiện khảo cổ học cho chính giai đoạn tiền nhà nước (200 TCN- 800 SCN), mà chủ yếu là tiền sử.  

3. Các dữ kiện bất thường – Các dữ kiện này tồn tại để chứng tỏ cho sự phát triển xã hội trước khi hình thành nhà nước, thường là thưa thớt, không dễ dàng thích hợp với việc thảo luận dựa trên cơ sở các dữ kiện từ những vùng khác trên thế giới (Bentley 1986).

4. Những ứng dụng không thành công các mô hình tiến hóa – Các nỗ lực đề xuất thảo luận về các xã hội tiền nhà nước trong khuôn khổ các thủ lĩnh địa và các mô hình tiến hóa đã bị coi là không đầy đủ vì cả bằng chứng về các mối tương liên vẫn được chấp nhận phổ biến cũng không được xác định theo trình tự, sự kết hợp hoặc một bối cảnh thỏa đáng; và còn vì các mô hình đã không thể giải quyết được nhiều khía cạnh nổi bật từ những bằng chứng mới (Christie 1992; Bayard 1992).

Khi khẳng định rằng “các thủ lĩnh địa là những xã hội trực tiếp chứ không phải là nhà nước, cũng không phải là các xã hội theo chế độ bình quân” Earle (1991a:xi) đã muốn nói đến một phạm trù hết sức tổng hợp bao gồm gần như mọi xã hội sơ kỳ đá mới và các nhà nước. Tuy nhiên ngoại trừ cố gắng to lớn của Earle trong việc phân biệt khái niệm thì thủ lĩnh địa đã trở thành một hệ mẫu giả định về tính tập trung của việc “kiểm soát kinh tế, khả năng quân sự và tính chất chính thống về phương diện nghi thức” trong các xã hội “trực tiếp” (Earle 1991b: 14). Tính tập trung của tất cả ba biến số này thật khó mà thể hiện trong các xã hội tiền nhà nước ở ĐNA, kể cả việc kiểm soát kinh tế lẫn khả năng quân sự đều thực sự không phải là trung tâm đối với các xã hội nhà nước sớm nhất trong vùng.

Cuộc tranh đấu để áp dụng quá trình phát triển từ nhóm – bộ lạc – thủ lĩnh địa – nhà nước của các chuyên gia khu vực thực sự thiếu một sự đồng thuận rõ ràng về việc các xã hội sớm có thể được xác định dứt khoát là các thủ lĩnh địa hay thậm chí đã thực sự trở thành nhà nước. Nhiều thực thể vẫn được dán nhãn “nhà nước sớm” chẳng hạn như Angkor có những đặc điểm giống một thực thể vùng, thậm chí giống như mạng thủ lĩnh địa, đặc biệt là trong việc thừa kế không theo quy tắc, và việc nhấn mạnh vào cương vị thủ lĩnh nhờ ở thần uy của người cầm đầu (Wolters 1982; Hagesteijn 1986).  Mặt khác các bằng chứng về phẩm chất thủ lĩnh thể hiện rõ ràng ở di chỉ khảo cố học sớm tại Khok Phanom Di (2000-1500 TCN). Các bằng chứng ấy cho thấy một “trật tự phân cấp rõ ràng”, trong đó người ta cho rằng các “thủ lĩnh” ngày càng có nhiều quyền kiểm soát đối với việc phân phối hàng hóa uy tín trong khu vực đến các “cộng đồng phụ thuộc” vào nó (Higham 1989a:251), ngay cả khi tình trạng kinh tế của khu di chỉ được mô tả trong khuôn khổ của một cộng đồng săn bắn - hái lượm phôi thai một quá trình thuần dưỡng cây trồng, vật nuôi (Higham 1989b:84).

Các chuyên gia khu vực có lẽ đều rất nhất trí rằng một loại thực thể vùng nào đó đã phát triển từ giữa đến cuối thiên niên kỷ I TCN dựa trên sự xuất hiện của các mô hình phân cấp cư trú trong các vùng chẳng hạn như thung lũng Mun – Chi (Higham and Kijngam 1982; Moore 1988, 1990; Welch and McNeill 1991). Tuy nhiên bằng chứng cụ thể cho các mối tương liên vùng này, chẳng hạn như công việc chiến tranh, đẳng cấp xã hội cha truyền con nối bền vững, sự thống nhất hệ tư tưởng, hoặc quyền kiểm soát kinh tế của các nhóm tinh hoa đều còn lâu mới được công khai. Việc chứng minh về quyền lực chính trị tập trung hoặc bước quá độ sang xã hội phân tầng có đặc quyền tiếp cận với các nguồn lực chiến lược lâu nay vẫn khó nắm bắt. Các ví dụ này ngụ ý rằng các đặc trưng phát triển phức hợp chính trị và xã hội khu vực có thể khác biệt đáng kể với sự mong đợi từ các lĩnh vực khác.

Đưa khái niệm Mạng vào lý thuyết phát triển xã hội ĐNA  

Phần này chứng minh rằng giá trị của diễn trình văn hóa ĐNA đối với các vấn đề lý thuyết rộng lớn hơn nằm trong chính sự thách thức của nó đối với trí tuệ khảo cổ học truyền thống vẫn nhấn mạnh các mô hình tiên báo có tính quyết định luận về sự biến đổi văn hóa. Các dữ liệu ĐNA tạo thuận lợi cho việc đánh giá các khái niệm và các mô hình được phát triển từ các vùng khác trên thế giới: một cơ hội để phát triển các khung khái niệm mới hơn là việc tạo hình sự phát triển vùng cho phù hợp với các mô hình có trước (Morrison 1994). Với tư cách là bước khởi đầu trong quá trình đánh giá, phần này đề xuất ý tưởng cho rằng một khái niệm trọng tâm đã trượt khỏi công cuộc thảo luận về sự phát triển của xã hội ĐNA, và đến lượt mình nó lại trượt khỏi chính cuộc thảo luận về lý thuyết phức hợp xã hội: đó chính là khái niệm mạng (Crumley 1995).   

Crumley (1979, 1987) đã chỉ ra rằng cuộc thảo luận về sự phát triển tính phức hợp xã hội hầu như chỉ tập trung vào việc xây dựng các cấu trúc đẳng cấp: bằng chứng về sự khác thường và sự lệ thuộc. Lướt qua các trang đầu tập công trình của Earle (1991b:1) về các vùng có thể thấy rất rõ những khuynh hướng phê phán liên quan đến việc hiểu về “quá trình tiến hóa của các xã hội phức hợp chưa phải là nhà nước”. “Ngôn ngữ vùng” được bộc lộ trong mệnh đề kết hợp các từ chẳng hạn như quyền lực, sự thống trị, sự phân tầng, sự kiểm soát (đối với các nguồn lực, các thung lũng sông, thương mại hàng hóa uy tín), chiến tranh, lệ thuộc, trung tâm, tinh hoa, và uy tín. Các động thái được xem xét tập trung vào các mối quan hệ hàng dọc. Tính chất phức hợp ngày càng tăng được cân bằng với cấp độ cấu trúc tôn ty hình tháp lồng nhau ngày càng tăng (Peebles and Kus 1977). Trong khi các động thái này chắc chắn tồn tại và thực sự quan trọng, thì cách tiếp cận ấy được thừa nhận là một lối nhìn đơn phương về tính chất phức hợp trong quá trình phát triển nhà nước của khu vực (Crumley 1987; Cocoran 1992).

Một số nhà lý thuyết đã thừa nhận rằng tính chất phức hợp cũng có thể được xem xét bằng các khuôn khổ khác (Kauffman 1993), chẳng hạn như tính chất đa chiều, các tương tác tiềm tàng, hoặc tính chất phức tạp của các mối liên hệ. Các quan hệ có thể được phân cấp hoặc không phân cấp, hoặc cũng có thể được phân cấp theo tình huống, chẳng hạn như trong bối cảnh hoặc quan điểm này thì mang tính thứ bậc, nhưng lại không thích hợp với một quan điểm hoặc một bối cảnh khác. Một khái niệm về tính phức hợp vượt khỏi quyết định luận và tích hợp các lựa chọn và bối cảnh có thể mở rộng cuộc thảo luận của chúng ta theo những cung cách sao cho thực sự hữu ích.

Hai thành tố chủ yếu của cấu trúc mạng là một hệ thống thứ bậc mềm và sự phân biệt bên, hay bình tuyến, là những động thái phê phán đã bị bỏ qua hoặc bị đánh giá thấp trong việc phân tích quá trình tiến hóa của ĐNA và có lẽ của cả các xã hội khác nữa. Mặc dù Johnson (1982) đã sớm đề xuất một khái niệm liên quan tới hệ thống thứ bậc, là “hệ thống thứ bậc dãy”, nhưng ý tưởng của ông đã không gây được ảnh hưởng mà nó đáng có. Ảnh hưởng ấy mang tính bộ phận, bởi vì mệnh đề của ông bao gồm từ “thứ bậc”, không phân biệt rõ ràng quan niệm của ông với hệ thống thứ bậc chính thường, “hệ thống thứ bậc đồng thời” theo từ dùng của Johnson. Dẫu sao thì cuộc thảo luận của ông cũng đã bổ sung đáng kể cho lập luận của Crumley. Đặc biệt thảo luận của Johnson (1982:396) về bối cảnh và các vấn đề liên quan đến việc thiết lập một bình tuyến tổ chức xã hội phản hồi “sức ép giao tiếp vô hướng”, từ đây gọi tắt là “sức ép vô hướng” trực tiếp liên quan đến tiến hóa xã hội ĐNA.   

Bằng việc xem xét các dữ kiện của họ thông qua lăng kính thứ bậc về mô hình vùng, các nhà khảo cổ học ĐNA nói chung đã đánh mất ý nghĩa của động thái cấu trúc mạng của sự phân cấp mềm và của sự phân biệt bình tuyến trong bằng chứng của họ, không chỉ giúp xác định quỹ đạo xã hội riêng biệt của vùng, mà còn giúp xây dựng sự phát triển khu vực theo cung cách hợp nhất với việc thảo luận sâu rộng hơn về sự phát triển tính phức hợp xã hội. Theo tôi, tối thiểu cũng có đến 4 mô thức hoặc chủ đề lớn có thể được coi là có đặc trưng mạng trong số các đặc trưng nổi trội một cách bền vững đối với quá trình phát triển xã hội tại vùng hạch ĐNA lục địa, tối thiểu là từ thiên niên kỷ II TCN: 1) Phương thức đa nguyên văn hóa; 2) Các nền kinh tế bản địa có khuynh hướng được đặc trưng bởi: i) đơn vị sản xuất dựa trên cơ sở hộ; ii) chuyên môn hóa kinh tế dựa trên cơ sở cộng đồng; và iii) cơ chế xếp lớp đa trung tâm cạnh tranh trong việc phân phối hàng hóa chứ không phải là các độc quyền được kiểm soát bởi một trung tâm duy nhất; 3) Hệ thống vị thế xã hội có khuynh hướng linh động trong thực tiễn và bao gồm sự thành đạt cá nhân, ngay cả ở nơi mà các hệ thống thừa kế chỉ tồn tại trong lý thuyết; và 4) Giải pháp cho xung đột và các chiến lược tập trung hóa chính trị có khuynh hướng tạo thành liên minh với các động cơ cạnh tranh – hợp tác ở trung tâm và có thể tái thỏa thuận định kỳ (chiến tranh, kiểm soát, chinh phục, hoặc các động cơ bạo lực khác bị làm lu mờ đi hoặc chỉ trở thành phái sinh).   

Trong khi không tự thể hiện mình một cách đồng nhất trong mọi bối cảnh, các mô thức mạng mà tôi đề xuất có thể được xác định trong các bối cảnh tiền sử, lịch sử, dân tộc học lịch sử, và dân tộc học tại ĐNA. Sau đây tôi sẽ tập trung vào việc thảo luận về các bằng chứng từ giai đoạn tiền sử khi các căn nguyên của quỹ đạo này hướng tới các nhà nước trong vùng phải được xác lập. Tất nhiên khảo cố học tiền sử là quá mới đối với một vùng mà các dữ liệu còn quá thưa thớt như vùng ĐNA lục địa này. Công việc nghiên cứu mới có thể đòi hỏi phải xem xét lại các quan điểm được đề xuất trong phần này. Tuy nhiên tôi vẫn cho rằng việc lý giải các mô thức của tôi bằng các chứng cớ tiền sử là phù hợp với các bằng chứng về các động thái chính trị xã hội trong vùng ở các giai đoạn muộn hơn.

Mô hình mạng trong nền cảnh tiền sử của các nhà nước ĐNA

Trong điều kiện các dữ liệu khảo cổ học thưa thớt đối với vấn đề các nhà nước sớm ĐNA trong nhiều thế kỷ (200 TCN – 800 SCN) thì lại có điều kiện thuận lợi để có thể tập hợp được đầy đủ dữ liệu từ các cuộc khai quật các di chỉ có niên đại từ 2000 năm – 200 năm TCN, đặc biệt là ở Thái Lan, giúp tái tạo dựng các mô thức phát triển văn hóa xã hội nơi đây. Nền nông nghiệp trồng lúa đã phát triển rực rỡ; việc sản xuất đồng và sắt cũng đều xuất hiện trong giai đoạn này; các di chỉ có những quy mô khác nhau, một số khu cư trú tại khu vực thung lũng sông Mun Chi có hào vây quanh, có lẽ thuộc thiên niên kỷ I TCN. Nếu các dữ kiện thuộc giai đoạn này được xem xét nhưng lại không thông qua lăng kính hình mẫu thủ lĩnh địa thì sẽ xuất hiện các mô thức đáng chú ý sau đây: i) quá trình địa phương hóa rõ ràng về văn hóa vật chất; ii) sự phát triển của các cộng đồng thủ công chuyên môn hóa; iii) tính chất cá thể trong việc xử lý các ngôi mộ bằng việc nhấn mạnh vào các ngôi mộ bất thường, thể hiện vai trò xã hội hoặc/và vai trò nghi lễ, kinh tế; iv) tình trạng khan hiếm bằng chứng về bạo lực có tổ chức hoặc chiến tranh. Tôi cho rằng các mô thức này thể hiện rõ ràng tính chất cấu trúc mạng bằng cách nhấn mạnh vào tính linh hoạt trong việc xác định vị thế, các mối quan hệ chính trị, và những phân biệt bên về các lĩnh vực kinh tế và xã hội.          

Địa phương hóa văn hóa vật chất: bằng chứng về đa nguyên văn hóa?

Các cuộc khai quật ở Thái Lan đang sản sinh ra tính chất đa dạng không ngờ được về văn hóa vật chất thể hiện các nền văn hóa địa phương hóa trên quy mô nhỏ (White 1986:337, Ho Chui-mei 1992). Trong khi đang cần các cuộc khai quật thêm để khẳng định các quan sát này và tăng cường việc kiểm soát dữ liệu trật tự thời gian và không gian chặt chẽ hơn thì đã có một số cơ sở để khẳng định rằng các đặc trưng địa phương lâu bền thể hiện rất rõ trong văn hóa vật chất, các thực tiễn nghi lễ, xã hội trong khoảng từ 2000 đến 200 năm TCN.

Những khác biệt bất ngờ trong các di chỉ liền kề trước hết trở nên rõ ràng khi trật tự gốm của di chỉ tiền sử Ban Chieng được so sánh một cách chi tiết với trật tự gốm của Ban Na Di cách đó chỉ 20km (White 1986:234). Dựa vào các niên đại C14, trầm tích nghĩa địa chủ yếu ở Ban Na Di trước hết phủ trên lớp nghĩa địa Ban Chiang giai đoạn giữa có niên đại từ sơ đến trung kỳ thiên niên kỷ I TCN. Một giả định khảo cổ học thông thường cho rằng hai di chỉ khảo cổ học gần nhau như vậy có thể có chung một truyền thống văn hóa (Higham and Kijngam 1984) có vẻ rất khó mà tách bạch được về gốm. Các trầm tích đương đại ở cả hai di chỉ có rất ít gốm có chung phong cách nên khó mà liên hệ niên đại giữa hai di chỉ ấy. Người ta có thể đặt câu hỏi đầu tiên rằng liệu các di chỉ này có tồn tại các lớp văn hóa đồng đại không. Tuy nhiên hai di chỉ đều có chung một loại hình đồ đựng đặc biệt, dù là hiếm, và điều này đã níu chặt hai trật tự niên đại lại với nhau. Một khi phong cách riêng của gốm hai di chỉ được nhận biết thì những đặc điểm phân biệt khác cũng đã trở nên rõ ràng.

Việc quan sát những khác biệt đáng kể về phong cách và hình thái đã được hỗ trợ bởi các phân tích kỹ thuật. Các phương pháp chế tạo vật dụng ở cả hai di chỉ cũng được phân biệt dựa vào việc nghiên cứu cấu trúc gốm (Vincent 1984, 1988; Glanzman and Fleming 1985; McGovern et al. 1985; White et al. 1991). Mặc dù các nghiên cứu về Ban Chiang mới chỉ ở giai đoạn sơ bộ, nhưng loạt nồi gốm giai đoạn Ban Chiang giữa đã sử dụng thịnh hành loại xương gốm có trộn trấu, trong khi Ban Na Di lại trộn bằng vụn mica hoặc bằng chính vụn gốm. Gốm Ban Chiang đều được làm bằng kỹ thuật bàn đập và hòn kê, trong khi hơn 90% nồi gốm Ban Na Di lại được làm bằng kỹ thuật khuôn-dải cuộn (Vincent 1984:661; White et al. 1991). Tóm lại các so sánh kỹ thuật, phong cách, hình thái đều khẳng định rằng Ban Chiang và Ban Na Di đã có những truyền thống chế tạo gốm khác nhau vào giữa thiên niên kỷ I TCN.

Gốm không phải là lĩnh vực duy nhất của văn hóa vật chất mà những khác biệt quan trọng giữa hai di chỉ đã thể hiện rõ ràng. Chẳng hạn như những chiếc vòng tay được làm bằng sò biển Chotrus thường gặp ở Ban Na Di, nhưng lại không thấy ở Ban Chiang – chí ít là từ cuộc khai quật do Cục Nghệ thuật và Bảo tàng Đại học Pennsylvania thực hiện. Những tượng nhỏ được tìm thấy trong mộ ở cả hai di chỉ đều khác biệt rõ rệt về kích thước, phong cách và ý nghĩa. Các mẫu Ban Chiang thường nhỏ, dài khoảng 3-4cm, và hình thù không rõ nét; còn các mẫu Ban Na Di thì lớn hơn nhiều, thường trên 15cm, được tạo dáng một cách tinh xảo hơn, và có thể dễ dàng nhận ra đó là trâu, bò, người, cá, voi.

Không chỉ là văn hóa vật chất, mà cả những khía cạnh xã hội cũng cho thấy những khác biệt đáng chú ý như đã thấy rõ trong táng tục ở cả hai di chỉ. Cách tổ chức mộ cùng với các đồ tùy táng thể hiện rõ sự khác biệt về hàng loạt loại hình và cách xử lý những chiếc nồi gốm đặt trong mộ cũng như hàng loạt mẫu vật và việc xử lý các di tích động vật giữa hai di chỉ. Mộ giai đoạn Ban Chiang giữa được đặc trưng bởi các bộ hài cốt được phủ bằng những vỉa gốm từ những chiếc nồi bị đập vỡ có chủ đích, mà khi phục dựng lại thấy có một số mẫu giống hệt như các mẫu gốm được đặt trên mộ. Chẳng hạn mộ số 40 trong mùa khai quật lần thứ hai có 7 chiếc nồi tô các vạch trắng và hai chiếc kết hợp tô màu và khắc vạch. Vincent (1984: 667) đã phát hiện ra một sự trái ngược tại Ban Na Di: mỗi mộ gồm có một vài chiếc nồi, trong đó một số thì vỡ, một số thì còn nguyên, và “…khuynh hướng chung là sử dụng những loại hình khác nhau chứ không phải chỉ một loại hình nhưng được sử dụng với số lượng nhiều”.  

Xương động vật trong mộ cũng cho thấy những khác biệt về táng thức và hành vi nghi lễ. Mộ Ban Na Di thường có các chi nguyên vẹn của loài móng guốc, gồm có trâu, bò, lợn. Ở Ban Chiang lại thấy nhiều gà và hàm động vật, nhưng không có các chi nguyên vẹn của loài móng guốc với tư cách là một bộ phận của đồ tùy táng (Kijngam 1979:73).

Những khác biệt đã được lưu ý trong văn hóa vật chất và trong nghi lễ có vẻ không thể hiện một sự biệt lập về văn hóa. Không có sự biệt lập văn hóa thể hiện qua các bằng chứng về thương mại đường dài chẳng hạn như sò biển, đá, kim loại trong mạng lưới trao đổi vùng phát triển từ sông Mekong ra phía biển (khoảng cách giữa cao nguyên Khorat và vịnh Siem ít nhất cũng 500km). Các mối quan hệ văn hóa đường dài cũng thể hiện rõ ràng qua công nghệ và loại hình đồ kim loại trên một vùng rộng lớn từ Miến Điện đến Việt Nam vào thiên niên kỷ II TCN. Điều đó cũng chỉ rõ một khu vực kỹ nghệ rộng rãi độc đáo, được gọi là Tỉnh Luyện kim ĐNA (White 1988).  

Trong khi luyện kim thể hiện một sự giao tiếp rộng rãi thì các loại hàng hóa đặc biệt của thương mại đường dài lại không được phân bố một cách đồng nhất như vậy. Nếu không vì lấy mẫu nhầm thì sự kiện khai quật tại Ban Na Di phát hiện ra một số vòng tay Trochus có nguồn gốc biển trong khi không cuộc khai quật nào tại Ban Chiang cho thấy mỗi cộng đồng đều tham gia một cách riêng rẽ vào thương mại hàng ngoại và có lẽ hàng hóa còn được sản xuất ở nơi khác nữa, mặc dù hai di chỉ này về cơ bản đều có cách thức giống nhau trong việc tham gia vào các mạng thương mại liên khu vực về phương diện vật chất (khoảng thời gian). Vì vậy các cộng đồng riêng rẽ có thể ấn định những giá trị khác nhau cho các mặt hàng ngoại đặc biệt: một mạng giá trị.  

Ví dụ đặc biệt này về tính biến đổi địa phương bất ngờ trong văn hóa nghi lễ và văn hóa vật chất đã được thảo luận ở một số chi tiết vì có đủ các thông tin được công bố từ hai cuộc khai quật chủ yếu với các trật tự xếp lớp để phân biệt một vài khía cạnh khác biệt bên trong di chỉ và để đề xuất một ý tưởng nào đó về các chiều kích biến đổi địa phương hóa. Những ví dụ khác thuộc các vùng liền kề với những khác biệt rất rõ ràng về văn hóa vật chất được xác định ở miền Trung Thái Lan (Ho Chui-mei 1992; Natapintu 1992), đã cho thấy đông bắc Thái Lan dù xa xôi, hẻo lánh, nhưng không hề bị cô lập.

Một khía cạnh khác của đặc trưng tiểu vùng trong giai đoạn tiền sử Thái Lan được thể hiện bằng sự tham gia vào thời đại đồ đồng như một giai đoạn đã được xác định là khác biệt và đi trước thời đại đồ sắt. Vì vậy Glover (1991a, 1991b) cho rằng tây Thái Lan, đặc biệt là vùng thung lũng sông Kwai Noi và Kwai Yai đã không có bằng chứng về bất cứ sự liên can nào với kỹ nghệ đồng thau được khai thác tại các công trường thời đó ở đông bắc và trung Thái Lan vào thiên niên kỷ I TCN. Vì các khoảng cách trong ý nghĩa tuyệt đối của nó không vượt khỏi một loạt mạng thương mại đã biết nên ông kết luận rằng: “chúng ta đã bắt đầu nhận ra nhiều phạm vi tương tác” trong tiền sử Thái Lan, nơi các trở lực về xã hội cũng nhiều chẳng kém gì các trở lực về tự nhiên”. Mặc dù Bắc Việt Nam nằm ngoài phạm vi của phần này, nhưng vẫn rất xứng đáng để nhắc lại rằng Hà Văn Tấn cũng đã quan sát được quá trình biến đổi địa phương hóa trong các văn hóa và các nhà nước đương thời mà quá trình địa phương hóa thể hiện rất rõ trong giai đoạn tiền Đông Sơn (Trước thời đại đồ sắt: 2000-700 năm TCN). Ông cũng lưu ý rằng tính chất đa dạng văn hóa địa phương hóa thể hiện rõ ràng trong các phong cách gốm, tạo hình công cụ đá và kỹ nghệ, cũng như trong sự hiện diện khác biệt của hoạt động chế tạo đồ đồng.

Một điều rất đáng chú ý về việc xác định thời điểm của quá trình địa phương hóa này bản thân tôi đã nhận thấy rất rõ ở đông bắc Thái Lan, và Hà Văn Tấn ở Việt Nam, đó chính là thời điểm trùng khớp với thời điểm xuất hiện thời đại đồ đồng. Tại cả hai nơi đều thấy có sự tương đồng lớn trong văn hóa vật chất vùng (những tương đồng về phong cách phát triển trên những vùng rộng lớn hơn) trước khi xuất hiện đồ đồng. Ngay khi đồng thau trở thành một công nghệ thì các mảnh văn hóa vật chất cũng gia nhập vào các nhóm nhỏ, địa phương hóa cao. Vì vậy trong khi nuôi dưỡng mối quan hệ ngày càng tăng (tức là sự giao tiếp) giữa các cộng đồng thì sự xuất hiện của đồng thau cũng đi cùng với sự khác biệt bình tuyến mang tính tượng trưng và tính vật chất ngày càng tăng.   

Căn cứ vào những nhận xét của Johnson (1982) thì sự xuất hiện rộng rãi của đồ đồng thau trong tiền sử ĐNA có thể tạo ra một bối cảnh sức ép giao tiếp vô hướng. Phản ứng lại với sức ép này là sự khác biệt bình tuyến của những đơn vị cộng đồng có thể nhận thấy trong các bối cảnh khảo cổ học như tính chất biến đổi địa phương hóa trong văn hóa vật chất và trong táng thức. Việc sáng tạo hành vi nghi lễ liên quan đến những biểu hiện về tính chất biến đổi phong cách có thể đánh dấu sự xác định nguồn gốc của các phụ nhóm được Johnson lưu ý như là những cơ chế tích hợp có thể làm giảm đi những sức ép giao tiếp vô hướng trong các nhóm mà ông gọi là “phương thức bình quân”. Vấn đề tại sao sự khác biệt lại xảy ra theo bình tuyến mà không phải là trực tuyến sẽ trở nên rõ ràng hơn khi chúng ta nhìn vào những khía cạnh khác của các bằng chứng tiền sử ở phía dưới. Biến đổi văn hóa địa phương hóa tiếp tục ở Thái Lan cho đến giai đoạn đồ sắt (nửa sau thiên niên kỷ I TCN) tối thiểu là ở thung lũng Khorat thuộc đông bắc Thái Lan. Tuy nhiên ở Việt Nam giai đoạn Đông Sơn thuộc thời đại đồ sắt đã chứng kiến một sự cố kết của các văn hóa tiểu vùng (Hà Văn Tấn 1991).

___________________________________________

Còn nữa...

Nguồn: White, Joyce C. 1995. Incorporating Heterarchy into Theory on Socio-political Development: The Case from Southeast Asia. In Heterarchy and the analysis of complex societies/ Robert M. Ehrenreich, Carole L. Crumley, and Janet E. Levy, editors; contributions by Elizabeth M. Brumfiel ... [et al.], 1995.

Tác giả: Dr. Joyce C White là nhà nghiên cứu khoa học cấp cao tại Bảo tàng Nhân học và Khảo cổ học thuộc Đại học Pennsylvania.

Lời cảm ơn của Tác giả: Tôi thành thực biết ơn Eleanor King, Heather McGrath, William Henderson, Julia Wiland, và những người khác đã giúp nhận xét bài viết này; cảm ơn Ardeth Anderson đã thiết kế giúp các hình minh họa. Bất cứ lỗi nào khác đều thuộc về trách nhiệm của tác giả.

* Ghi chú của người dịch: Đối với tôi, việc dịch bài viết này của Joyce White là một kỷ niệm khó quên. Trước cuộc họp của Hội Tiền sử Châu Á – Thái Bình Dương năm 1999 tại Penang, Malaysia, tôi không hề biết gì về cái tên Joyce White, chỉ đến khi tình cờ nghe nhắc đến khái niệm network model (mô hình mạng) tôi mới để ý và hỏi chuyện người đó. Thật may mắn, đó lại chính là Joyce White, thế là tôi liền hỏi xin White một bản copy bài viết bất kỳ nào về mô hình mạng. Hai tuần sau khi kết thúc hội nghị, tôi nhận được bản copy bài viết Incorporating Heterarchy into Theory on Socio-political Development: The Case from Southeast Asia của White. Nhưng khi nhận được bài viết tôi nghĩ rằng cô ấy đã gửi nhầm bài khác cho mình, vì không thấy đề cập gì đến network model cả. Nhưng vì thấy đây là một bài viết rất hay, tôi đã bỏ ra cả tháng trời (tháng 11 năm 1999) để dịch, nhưng chỉ có một từ duy nhất và quan trọng nhất là heterarchy tôi không biết dịch thế nào. Tôi tìm đến học giả, dịch giả Nguyễn Kiên Giang để hỏi nghĩa của từ tiếng Pháp tương đương, và bác Giang nói nó có nghĩa là một lối cai trị khác với lối cai trị thông thường. Tôi không biết chắc nghĩa đó có phản ánh đúng nghĩa của từ mà White sử dụng hay không, và tôi đem phân vân đó bày tỏ với Giáo sư Trần Quốc Vượng. Thầy Vượng nói: theo mình cậu có thể dùng từ hỗn trị để dịch heterarchy, nhưng tốt nhất là mình và cậu sang hỏi Dương Tường (dịch giả, nhà thơ Dương Tường). Nhà thơ Dương Tường nói nên dịch là dị trị.

Nghe theo ba bậc thầy, tôi đã dịch heterarchydị trị hoặc hỗn trị, nhưng thú thật là tôi vẫn băn khoăn, nên không muốn công bố bài dịch, cho dù Giáo sư Trần vẫn động viên tôi nên công bố. Một năm sau (năm 2000), khi gặp lại Joyce White tại Hội thảo Một thế kỷ Khảo cổ học Việt Nam, tôi bảo White là tôi không biết nghĩa của từ heterarchy là gì, vì không tìm thấy nó ở bất cứ từ điển nào. White nói đó chính là từ mà Warren McCulloch đã sử dụng lần đầu tiên trong bài viết ngắn A heterarchy of values determined by the topology of nervous nets (Bulletin of Mathematical Biophysics, 1945, pp. 89-93), muốn biết nghĩa của từ đó thì nên đọc McCulloch. Tuy nhiên cho đến lúc đó, tôi chưa bao giờ biết đến McCulloch và bài viết của ông, vì đơn giản là ông thuộc về một chuyên ngành hoàn toàn khác với khảo cổ học, vả lại lúc đó tôi cũng không biết phải tìm công trình của Mc Culloch ở đâu. Đọc kỹ lại bài của White, tôi quyết định dịch heterarchy là mạng, hoặc cấu trúc mạng. Tuy nhiên tôi chỉ yên tâm công bố bài dịch này sau 10 năm suy nghĩ thêm về nghĩa của từ heterarchy với tư cách là mạng/cấu trúc mạng.

Lý do tôi dịch heterarchy là mạng/cấu trúc mạng cũng có đôi chút cá nhân. Cách đây đã nhiều năm, vào năm 1982, nhân dịp chuẩn bị kỷ niệm năm mươi năm văn hóa Hòa Bình, tôi đã đề xuất Mô hình tổng quát phi tuyến cho thời đại đá mới Việt Nam. Bài viết đó tôi lấy cảm hứng từ một công trình nghiên cứu hoàn hảo của Giáo sư Hà Văn Tấn Văn hóa Quỳnh Văn với một Truyền thống và một Bình tuyến. Tuy nhiên, khác với Giáo sư Hà Văn Tấn, ý tưởng xuyên suốt của tôi là không có truyền thống văn hóa đá gốc từ Núi Đọ đến Quỳnh Văn tách biệt khỏi văn hóa đá cuội từ Sơn Vi lên Hòa Bình, rồi đến Bắc Sơn. Diễn trình lịch sử là phi tuyến tính, không hề giống với cách hình dung về hai truyền thống như trên, vì vậy tôi mong muốn đề xuất một mô hình thật đẹp đẽ để minh họa cho ý tưởng của mình. Hai năm sau, trong Hội nghị thông báo Khảo cổ học thường niên năm 1984, tôi đã công bố bài viết ngắn Thời đại đá mới Việt Nam và một Mô hình Tổng quát. Vậy là mô hình cấu trúc mạng - phi tuyến của tôi đã chính thức được ra mắt độc giả trong Những phát hiện mới về Khảo cổ học Việt Nam năm 1984 (Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1985). Mười năm sau (1995) Giáo sư Carole Crumley, Joyce White và những người khác đã sử dụng loại mô hình này trong lý giải khảo cổ học, nhưng tất nhiên là từ một nguồn khác, nguồn Mc Culloch. Và giờ đây, khi quyết định công bố bản dịch này, tôi hoàn toàn yên tâm rằng heterarchy chính là mạng/cấu trúc mạng.

Từ đáy lòng mình, tôi muốn dành tặng bản dịch này cho những nhà nghiên cứu trẻ ham tìm tòi. Tôi đặc biệt cảm ơn Joyce White về bài viết tuyệt vời và thịnh tình của cô khi gửi cho tôi bản copy bài viết. Với bản dịch 10 năm này tôi xin được giành những tình cảm chân thành và kính trọng nhất đến hai người thầy lớn của nhiều thế hệ các nhà sử học Việt Nam, cố Giáo sư Trần Quốc Vượng và Giáo sư Hà Văn Tấn.  

Tài liệu Tham khảo

Adams, Richard Newbold 1988. The Eighth Day: Social Evolution as the Self-Organization of Energy. Austin: University of Texas Press.

Aung-Thwin, Michael 1985. Pagan: The Origins of Modern Burma. Honolulu: University of Hawaii Press.

Bayard, Donn T. 1980. An early indigenous bronze technology in northeast Thailand: its implications for the prehistory of east Asia. Pp. 191-214 in The Diffusion of Material Culture.

Bayard, D.T. ed. 1992. Models, scenarios, variables and supposition: approaches to the rise of social complexity in mainland Southeast Asia, 700 BC-AD 500. Pp. 13-38 in Early Metallurgy, Trade and Urban Centres in Thailand and Southeast Asia. I. Glover, P. Suchitta, and J. Villiers, eds. Bangkok: White Lotus. Dunedin: University of Otago Studies in Prehistoric Anthropology.

Bentley, G. Carter 1986. Indigenous states of Southeast Asia. Annual Review of Anthropology 15:275-305.

Bowie, Katherine A. 1992. Unravelling the myth of the subsistence economy, textile production in nineteenth-century northern Thailand. Journal of Asian Studies 51(4):797-823.

Bray, Francesca 1986. The Rice Economies. New York: Basil Blackwell.

Branson, Bennet, and Pisit Charoenwongsa 1986. Eyewitness Accounts of the Early Mining and Smelting of Metals in Mainland South East Asia. Bangkok: Thailand Academic Publishing Co.

Brumfiel, E.M., and T.K. Earle 1987. Specialization, exchange and complex societies: an introduction. Pp. 1-9 in Specialization, Exchange and Complex Societies. E.M. Bnimfiel and T.K. Earle, eds. Cambridge: Cambridge University Press.

Christie, Jan Wisseman 1985. Theater States and Oriental Despotisms: Early Southeast Asia in the Eyes of the West. Hull: University of Hull Centre for South-East Asian Studies Occasional Paper no. 10. 1992 Trade and settlement in early Java: integrating the epigraphic and archaeological data. Pp. 181-197 in Early Metallurgy, Trade and Urban Centers in Thailand and Southeast Asia. I. Glover, P. Suchitta, and J. Villiers, eds. Bangkok: White Lotus.

Cocoran, Elizabeth 1992. The edge of chaos: complexity is a metaphor at the Santa Fe Institute. Scientific American October: 17-20.

Costin, Lynne 1991. Craft specialization: issues in defining, documenting, and explaining the organization of production. In Archaeological Method and Theory, vol. 3. M.B. Schiffer, ed. Tucson: University of Arizona Press.

Crumley, Carole L. 1979. Three locational models: an epistemological assessment for anthropology and archaeology. Pp. 141-173 in Advances in Archaeological Method and Theory, vol. 2. M.B. Schiffer, ed. Tucson: University of Arizona Press.

Crumley, Carole L. 1987. A dialectical critique of hierarchy. Pp. 155-169 in Power Relations and State Formation. T.C. Patterson and C.W. Gailey, eds. Washington, D.C.: American Anthropological Association.

Crumley, Carole L. 1995. Heterarchy and the Analysis of Complex Societies. Archeological Papers of the American Anthropological Association 7 (1): 1–5.

Douglas, Michele 1995. A Preliminary Discussion of Trauma in the Human Skeletons from Ban Chiang, Northeast Thailand. Papers from the 15th IPPA Congress, Chiangmai, Thailand. Indo-Pacific Prehistory Bulletin 14-15.

Earle, Timothy, ed. 1991a. Chiefdoms: Power, Economy and Ideology. New York: Cambridge University Press.

Earle, Timothy 1991b. The evolution of chiefdoms. Pp. 1-15 in Chiefdoms: Power, Economy, and Ideology. T. Earle, ed. New York: Cambridge University Press.

Embree, John F. 1969. Thailand, a loosely structured social system. Pp. 3-15 in Loosely Structured Social Systems. H.D. Evers, ed. New Haven: Yale University Southeast Asian Studies.

Geertz, Clifford 1963. Agricultural Involution: The Process of Ecological Change in Indonesia. Association of Asian Studies Monographs and Papers 11. Berkeley: University of California Press.

Glanzman, William D., and Stuart J. Fleming 1985. Ceramic technology at prehistoric Ban Chiang, Thailand: fabrication methods. MASCA Journal 3:114-121.

Glover, Ian C. 1991a. The Late Prehistoric period in west-central Thailand. Pp. 349-356 in Indo-Pacific Prehistory 1990, Proceedings of the 14th Congress of the Indo-Pacific Prehistory Association, Yogyakarta, Indonesia, vol. 1. Bulletin of the Indo-Pacific Prehistory Association 10.

Glover, Ian C. 1991b. The Bronze-Iron Age in western Thailand. Paper presented at the conference The High Bronze Age of Southeast Asia and South China, Hua Hin, Thailand.

Graves, Michael W. 1994. Kalinga social and material culture boundaries. Pp. 13-49 in Kalinga Ethnoarchaeology. W.A. Longacre and J.M. Skibo, eds. Washington D.C.: Smithsonian Institution Press.

Ha Van Tan 1991. From Pre-Dong Son to Dong Son: Sociocultural Changes. Paper presented at the conference The High Bronze Age of Southeast Asia and South China, Hua Hin, Thailand.

Hagesteijn, Renee R. 1986. Trading places: political leadership in Southeast Asian early states. Pp. 105-116 in Private Politics: A Multi-disciplinary Approach to Big-Man Systems. M.A. Van Bakel, R.R. Hagesteijn, and P. Van de Velde, eds. Studies in Human Society, vol. 1. Leiden: E. J. Brill.

Hall, Kenneth R. 1985. Maritime Trade and State Development in Early Southeast Asia. Honolulu: University of Hawaii Press.

Hall, Kenneth R. 1992. Economic history of early Southeast Asia. Pp. 183-275 in The Cambridge History of Southeast Asia: From Early Times toe. 1800, vol. 1. N. Tarling, ed. Cambridge: Cambridge University Press.

Hedges, R.E.M., R.A. Housley, C. Bronk Ramsey, and G.J. van KJinken 1993. Radiocarbon dates from the Oxford AMS system: archaeometry datelist 17. Archaeometry 35(2)350-326.

Higham, Charles F.W. 1984. Review of Ban Chiang: Discovery of a Lost Bronze Age, by Joyce White. Antiquity 53:64-66.

Higham, Charles F.W. 1989a. The later prehistory of mainland Southeast Asia. Journal of World Prehistory 3:235-282.

Higham, Charles F.W. 1989b. The Archaeology of Mainland Southeast Asia. Cambridge: Cambridge University Press.

Higham, Charles F.W., and Rachanie Bannanurag 1990. The Excavation of Khok Phanom Di, a Prehistoric Site in Central Thailand: The Excavation, Chronology and Human Burials, vol. 1. Reports of the Research Committee of the Society of Antiquaries of London 47. London: Society of Antiquaries.

Higham, Charles F.W., and Rachanie Bannanurag 1992. Prehistoric ritual and exchange along a tropical coast in Thailand. Research & Exploration 6(2): 180-195.

Higham, Charles F.W., and Amphan Kijngam 1979. Ban Chiang and northeast Thailand: the palaeoenvironment and economy. Journal of Archaeological Science 6: 211-233.

Higham, Charles F.W., and Amphan Kijngam 1982. Irregular earthworks in northeast Thailand: new insight. Antiquity 56:102-110.

Higham, Charles F.W., and Amphan Kijngam 1984. Prehistoric Investigations in Northeast Thailand. Oxford: BAR International Series 231 (i-iii).

Higham C. and A. Kijngam, eds. 1988. Prehistoric Ceramics of Northeastern Thailand, with Special Reference to Ban Na Di, part xiii. Oxford: BAR International Series 461. Oxford: BAR International Series 231.
Higham, Charles F.W.. R. Bannanurag. M. Graeme, and N. Tayles 1992. Human biology, environment, and ritual at Khok Phanom Di. World Archaeology 24:35-54.

Ho Chui-mei 1992. An analysis of settlement patterns in the Lopburi area. Pp. 39-45 in Early Metallurgy. Trade and Urban Centres in Thailand and Southeast Asia. I. Glover, P. Suchitta, and J. Villiers, eds. Bangkok: White Lotus.

Husken, Frans, and Jeremy Kemp. eds. 1991. Cognation and Social Organization in Southeast Asia. Verhandelingen Van Het Koninklijk Instituut Voor Taal Land, en Volkenkunde 145. Leiden: KITLV Press.

Jacobs, Julian; Alan MacFarlane; Sarah Harrison, and Anita Herle 1990. The Nagas: Hill Peoples of Northeast India. Society, Culture and the Colonial Encounter. London: Thames and Hudson.122 Joyce C. White

Jacques, Claude 1979. Funan, Zhenla: the reality concealed by these Chinese views of Indochina. Pp. 371-377 in Early South East Asia: Essays in Archaeology, History, and Historical Geography. R.B. Smith and W. Watson, eds. New York: Oxford University Press.

Johnson, Gregory A. 1982. Organizational structure and scalar stress. Pp. 389-421 in Theory and Explanation in Archaeology. C. Renfrew, ed. New York: Academic Press.

Kauffman, Stuart A. 1993. The Origins of Order: Self-organization and Selection in Evolution. New York: Oxford University Press.

Kemp, Jeremy, and Frans Husken 1991. Cognatic kinship in Southeast Asia. Pp. 1-11 in Cognation and Social Organization in Southeast Asia. F. Husken and J. Kemp, eds. Verhandelingen Van Het Koninklijk Instituut VoorTaal, Land, en Volkenkunde 145. Leiden: KITLV Press.

Kijngam, Amphan 1979. The Faunal Spectrum of Ban Chiang and Its Implications for Thai Culture History. M.A. thesis, Department of Anthropology, University of Otago.

King, Victor T. 1991. Cognation and rank in Borneo. Pp. 15-31 in Cognation and Social Organization on Southeast Asia. F. Husken and J. Kemp, eds. Verhandelingen Van Het Koninklijk Instituut Voor Taal-. Land-, en Volkenkunde 145. Leiden: KITLV Press.

Kirsch, AT . 1973. Feasting and Social Oscillation: Religion and Society in Upland Southeast Asia. Ithaca: Cornell University.

Kobkua Suwanna that-Dian 1993. Thrones, claimants, ruler and rules: problems of succession in the Malay sultanates. Journal of the Malasian Branch of the Royal Asiatic Society 66(2): 1-27.

Kristiansen, Kristian 1991. Chiefdoms, states, and systems of social evolution. Pp. 16-43 in Chiefdoms: Power, Economy, and Ideology. T. Earle, ed. New York: Cambridge University Press.

Kunstadter, Peter, ed. 1967. Southeast Asian Tribes, Minorities and Nations, vols. 1 and 2. Princeton: Princeton University Press.

Leach, E.R. 1954. Political Systems of Highland Burma. Boston: Beacon Press.

Lehman, F.K. 1967. Ethnic categories in Burma and the theory of social systems. Pp. 93-124 in Southeast Asian Tribes, Minorities and Nations, vol. 1. P. Kunstadter, ed. Princeton: Princeton University Press.

Loofs-Wissowa, H.H.E. ed. 1984. Rank and wealth at Non Nok Tha: the mortuary evidence. Pp. 87-122 in Southeast Asian Archaeology at the XV Pacific Science Congress: The Origins of Agriculture, Metallurgy, and the State in Mainland Southeast Asia. Asian and Pacific Archaeology Series 9. Honolulu: Social Science Research Institute, University of Hawaii.

McCulloch, Warren S. 1945. A heterarchy of values determined by the topology of nervous nets. Bulletin of Mathematical Biophysics 7:89-93.

McGovern, Patrick E. , William W. Vernon, and Joyce Carol White 1985. Ceramic technology at prehistoric Ban Chiang, Thailand: physiochemical analyses. MASCA Journal 3(4): 104-113.

McKinnon, Susan 1991. From a Shattered Sun: Hierarchy, Gender and Alliance in the Tanimbar Islands. Madison: University of Wisconsin Press.

McNeill, Judith R., and David J. Welch 1991. Regional and interregional interaction on the Khorat plateau. Pp. 327-340 in Indo-Pacific Prehistory 1990, Proceedings of the 14th Congress of the Indo-Pacific Prehistory Association, Yogyakarta, Indonesia, vol. 1. Bulletin of the Indo-Pacific Prehistory Association 10.

Moore, Elizabeth H. 1988. Moated Sites in Early North East Thailand. Oxford: BAR International Series 400. 1990 Moated settlement in the Mun Basin, northeast Thailand. Pp. 201-212 in Southeast Asian Archaeology 1986: Proceedings of the First Conference of the Association of Southeast Asian Archaeologists in Western Europe. I.C. Glover and E. Glover, eds. Oxford: BAR International Series 561.

Morrison, Kathleen D. 1994. States of theory and states of Asia: regional perspectives on states in Asia. Asian Perspectives 33(2): 183-196.

Muhly, James D. 1988. The beginnings of metallurgy in the Old World. Pp. 2-20 in The Beginning of the Use of Metals and Alloys. R. Maddin, ed. Cambridge: M.I.T. Press.

Natapintu, Surapol 1992. Current Archeological Research in Central Thailand with Special Reference to the Site of Phu Noi, Lopburi Province. Paper presented at the 4th International Congress of the European Association of South East Asian Archaeologists, Rome.

Osborne, Milton 1975. River Road to China: The Mekong River Expedition, 1866-73. London: George Allen & Unwin.

Peebles, Christopher S., and Susan M. Kus 1977. Some archaeological correlates of ranked societies. American Antiquity 42:421-448.

Pigott, Vincent C , and Surapol Natapintu 1988. Investigating the origins of metal use in prehistoric Thailand. In the Proceedings of the Conference on Ancient Chinese and Southeast Asian Bronze Age Cultures, Kioloa, New South Wales. N. Barnard, ed. Canberra: Australian National University.

Pigott, Vincent C , Andrew D. Weiss, and U. Theetiparivatra 1995. The archaeology of copper production: excavations in the Khao Wong Prachan Valley, central Thailand. In the Proceedings of the Fifth Conference of the European Association of Southeast Asian Archaeologists, Rome, Italy.

Scott, George P.1991. Introduction: self-organization science and the interdisciplinary tower of Babel syndrome. Pp. 3-20 in Time, Rhythms, and Chaos in the New Dialogue with Nature. G.P. Scott, ed. Ames: Iowa State University Press.

Sedov, Leonid A. 1978. Angkor: society and state. Pp. 111-130 in The Early State. H.J.M. Claessen and P. Skalnik, eds. New York: Mouton.

Serensen, Per 1967. Archaeological Excavations in Thailand: The Thai-Danish Prehistoric Expedition 1960-62, vol. 2, part 1. Copenhagen: Munksgaard.

Stargardt, Janice 1990. The Ancient Pyu of Burma: Early Pyu Cities in a Man-made Landscape, vol. 1. Cambridge: Publications on Ancient Civilization in South East Asia.

Stark, Miriam T. 1992. From Sibling to Suki: social and spatial relations in Kalinga pottery exchange. Journal of Anthropological Archaeology 2(10:137-151.

Suchitta, Pornchai 1983. The History and Development of Iron Smelting Technology in Thailand. Ph.D. dissertation, Department of Anthropology, Brown University.

Tainter. Joseph A. 1978. Mortuary Practices and the Study of Prehistoric Social Systems. In Advances in Archaeological Method and Theory, Volume I, edited by Michael B. Schiffer, pp. 105-141. Academic Press, New York.

Taylor, Keith W. 1992. The early kingdoms. Pp. 137-182 in The Cambridge History of Southeast Asia. N. Tarling, ed. Cambridge: Cambridge University Press.

Vallibhotama, Srisakra 1991. Bronze-Iron Age Foundation for the Origin of the State of Chenla. Paper presented at the Conference on the High Bronze Age of Southeast Asia and South China, Hua Hin, Thailand.

Van Liere, W.J. 1980. Traditional water management in the Lower Mekong Basin. World Archaeology 11(3):265-280.

Vincent, Brian 1984. The petrographic analysis of prehistoric pottery from Ban Na Di and related sites. Pp. 644-697 in Prehistoric Investigations in Northeast Thailand, part 3.

Welch, David J., and Judith R. McNeill 1991. Settlement, agriculture and population changes in the Phimai region, Thailand. Pp. 210-228 in Indo-Paciftc Prehistory 1990: Proceedings of the 14th Congress of the Indo-Pacific Prehistory Association, Yogyakarta, Indonesia, vol. 2. Bulletin of the Indo-Pacific Prehistory Association 11.

Wheatley, Paul 1979. Urban genesis in mainland South East Asia. Pp. 288-303 in Early South East Asia: Essays in Archaeology, History and Historical Geography. R.B. Smith and W. Watson, eds. New York: Oxford University Press. 1983 Nagara and Commandery: Origins of the Southeast Asian Urban Traditions. Chicago: University of Chicago, Department of Geography, Research Paper 207-208.

White, Joyce Carol 1982. Ban Chiang: Discovery of a Lost Bronze Age. Philadelphia: The University Museum, University of Pennsylvania and the Smithsonian Institution Traveling Exhibition Service.

White, Joyce Carol 1986. A Revision of the Chronology of Ban Chiang and Its Implications for the Prehistory of Northeast Thailand. Ph.D. dissertation. University of Pennsylvania, Department of Anthropology. Ann Arbor: University Microfilms International.

White, Joyce Carol 1988. Early east Asian metallurgy: the southern tradition. Pp. 175-181 in The Beginning of the Use of Metals and Alloys. Robert Maddin, ed. Cambridge: MIT Press.

White, Joyce Carol 1990. Rice Cultivation and Social Development in Thailand. Paper presented at the Annual Meeting, American Anthropological Association, New Orleans.

White, Joyce Carol 1995. Modeling the development of early rice agriculture: ethnoecological perspectives from northeast Thailand. Asian Perspectives 34(l):37-68.

White, Joyce Carol, and Vincent C. Pigott 1995. From community craft to regional specialization: intensification of copper production in pre-state Thailand. In Craft Specialization and Social Evolution. B. Wailes, ed. Philadelphia: University of Pennsylvania Museum Monographs.

White, Joyce Carol, William Vernon; Stuart Fleming, William Glanzman, Ron Hancock, and Andrew Pelcin 1991. Preliminary cultural implications from initial studies of the ceramic technology at Ban Chiang. Pp. 188-203 in Indo-Pacific Prehistory 1990. Bulletin of the Indo-Pacific Prehistory Association 11.

Wicks, Robert S. 1992. Money, Markets and Trade in Early Southeast Asia: The Development of Indigenous Monetary Systems to AD 1400. Ithaca: Cornell University Southeast Asia Program.

Winichakul, Thongchai 1994. Siam Mapped: A History of the Geo-body of a Nation. Honolulu: University of Hawaii Press.

Winzeler, Robert L, 1976. Ecology, culture, social organization, and state formation in Southeast Asia. Current Anthropology 17(4): 623-640.

Wolters, O.W. 1982. History, Culture, and Region in Southeast Asian Perspectives. Singapore: Institute of Southeast Asian Studies.

 

 

 

 

 

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét