Powered By Blogger

Thứ Sáu, 10 tháng 6, 2022

Quan hệ Họ hàng, Bạn bè và Quan hệ Bảo trợ - Khách hàng trong các Xã hội Phức tạp (II)

Eric R. Wolf

Người dịch: Hà Hữu Nga

Các loại Bạn bè

Tại điểm này, mối quan hệ họ hàng hòa nhập với mối quan hệ của tình bạn. Ngược lại với mối quan hệ họ hàng, mối quan hệ chính yếu trong cặp bạn bè không được rèn giũa trong một tình huống quy định; tình bạn là có được. Nếu chúng ta muốn tiến tới trong phân tích xã hội học về mối quan hệ bạn bè, thì tôi tin rằng chúng ta phải phân biệt hai loại tình bạn. Tôi sẽ gọi loại đầu tiên là tình bạn biểu cảm hoặc tình bạn tình cảm; loại thứ hai là tình bạn công cụ. Từ quan điểm của quan hệ cặp tình bạn, tình bạn tình cảm liên quan đến mối quan hệ giữa ego và kẻ khác, trong đó mỗi người đều thỏa mãn một số nhu cầu tình cảm ở đám đối tác của mình. Đây rõ ràng là khía cạnh tâm lý của mối quan hệ. Tuy nhiên, thực tế là mối quan hệ thỏa mãn loại nhu cầu nào đó ở mỗi người tham gia có lẽ cũng cảnh báo chúng ta về các đặc điểm xã hội của mối quan hệ có liên quan. Nó khiến chúng ta phải đặt câu hỏi: Trong những điều kiện nào người ta có thể mong đợi tìm được nhu cầu tình cảm ở hai người đã thu hút họ vào mối quan hệ được mô tả đó? Ở đây, sẽ hữu ích nếu coi tình bạn như một lực đối trọng. Tôi nghĩ rằng chúng ta nên tìm kiếm tình bạn tình cảm chủ yếu trong các tình huống xã hội, trong đó cá nhân được gắn chặt vào các nhóm liên kết như cộng đồng và dòng họ và trong đó cấu trúc xã hội hạn chế mức độ di động xã hội và địa lý. Trong những tình huống như vậy, quyền tiếp cập của ego với các nguồn lực - tự nhiên và xã hội - phần lớn được các đơn vị liên kết cung cấp; và tình bạn, trong điều kiện tốt nhất, có thể đem lại sự phóng xả và thanh tẩy cảm xúc khỏi những căng thẳng và áp lực của việc nhập vai.

Ở đây, theo kinh nghiệm của bản thân, tôi suy nghĩ bằng khuôn khổ hành vi của người Indians thuộc các cộng đồng hợp nhất khép kín ở Trung Mỹ. Cộng đồng đó vừa liên kết với người ngoài vừa chống lại người ngoài; nó duy trì sự độc quyền về tài nguyên - thường là đất đai - và bảo vệ các quyền đầu tiên của những người bên trong trước sự cạnh tranh từ bên ngoài. Về mặt nội bộ, nó có xu hướng phân chia mức độ khác biệt, loại bỏ cả cơ hội và rủi ro trong cuộc sống. Điều này không dẫn đến các mối quan hệ cộng đồng nồng ấm đôi khi vẫn được quy cho một cấu trúc như vậy. Ngược lại, chúng ta có thể lưu ý rằng thói đố kỵ và nghi ngờ đóng một vai trò thiết yếu trong việc duy trì sự bình đẳng thô sơ về cơ hội sống. Tình bạn trong một cộng đồng như vậy giúp thoát khỏi áp lực của cuộc sống, nhưng bản thân nó không có tác dụng làm thay đổi sự phân bố các nguồn lực.

Ruben Reina đã mô tả cách thức vận hành của tình bạn trong một cộng đồng như vậy ở Guatemala (1959). Theo ông, “Đối với người Indians, nó mang lại sự thỏa mãn về mặt cảm xúc và là một phương tiện để đảm bảo với bản thân rằng người ta không ai phải đứng một mình. Trước khi kết hôn và sau thời thơ ấu, tổ hợp camarada bạn bè đạt đến cường độ cảm xúc cao - ở giai đoạn chuyển tiếp đó trong cuộc sống khi một người Chinautleco (Cộng hòa Guatemala) đạt được vị thế trưởng thành nhưng chưa có được tất cả mọi phần thưởng tình cảm của tổ hợp đó” (tr. 49–50). Đồng thời, chính cường độ của mối quan hệ đó có xu hướng làm tan biến nó. “Lời giải thích dường như ở chỗ người Indians tìm kiếm confianza sự tự tin tột độ và bản thân điều này gây nguy hiểm cho tình bạn. Họ yêu cầu tình cảm đó phải có đi có lại, và người ta hy vọng rằng camarada bạn bè sẽ chỉ hành động theo cách mang lại niềm vui cho người bạn của mình”. Camaradas bạn bè ghen tị với nhau: “một khi tình bạn đã đạt đến cường độ cao, có thể chờ đợi cảnh ghen tuông, thất vọng và chu kỳ sẽ kết thúc trong tình trạng thù hận” (tr. 47). Do đó tình bạn tình cảm như vậy cũng có tính lưỡng thế. Như Reina nói, “Họ tự hào về mối quan hệ này và tình cảm chứa đựng trong đó, nhưng từ quan điểm thực tế lại có nhiều cảm xúc lẫn lộn. Camarada bạn là một kẻ thù tiềm tàng khi puesto [vai trò và vị thế quy định] bị mất đi. Do đó, một phần dự trữ nhất định về phía camaradas bạn bè có thể thấy khá rõ, đặc biệt là trong lĩnh vực bí mật gia đình, kế hoạch và số tiền kiếm được tại nơi làm việc. Việc duy trì tình bạn không phải vì mục đích kinh tế, chính trị hay thực tế, mà chỉ để thỏa mãn về mặt tình cảm” (1959: 48).

Tình bạn tình bạn vì thế mà có tính tự-giới hạn; sự tiếp tục tình bạn đó bị đe dọa từ bên trong. Nó cũng có thể bị hạn chế từ bên ngoài. Ở đây, chúng ta có thể sử dụng quan sát của Yehudi Cohen để minh họa, đó là các nhóm liên kết cảm thấy việc cắt đứt quan hệ bạn bè là một mối đe dọa và do đó sẽ cố gắng hạn chế các quan hệ đó. Ông đưa ra giả thuyết này để giải thích thể chế về người bạn bất khả xâm phạm trong cái mà ông gọi là các cộng đồng liên kết tối đa, được đặc trưng bởi các nhóm thân tộc hợp nhất (1961: 375).

Trái ngược với tình bạn tình cảm là cái mà tôi đã gọi là tình bạn công cụ. Tình bạn công cụ có thể không được thực hiện với mục đích giành quyền tiếp cận các nguồn lực - kể cả tự nhiên và xã hội - nhưng việc phấn đấu để có được quyền tiếp cận đó trở nên tối quan trọng. Không giống như tình bạn tình cảm hạn chế mối quan hệ với các cặp liên quan, trong tình bạn công cụ, mỗi thành viên của cặp đóng vai trò như một mối kết nối tiềm năng với những người khác bên ngoài cặp. Mỗi người tham gia là một kẻ bảo trợ cho kẻ kia. Trái ngược với tình bạn tình cảm, gắn liền với việc khép kín vòng kết nối xã hội, tình bạn công cụ vượt ra ngoài ranh giới của những nhóm hiện có và tìm cách thiết lập chỗ đứng trong những nhóm mới.

Reina, với khối tài liệu phong phú về người Indians, đã đối sánh người Indians ở Chinautla với người Ladinos: “Đối với người Ladinos, tình bạn có lợi ích thiết thực trong lĩnh vực ảnh hưởng kinh tế và chính trị; tình bạn này được coi là một cơ chế có lợi từ quan điểm mỗi người. Cuello cổ cánh - một cách diễn đạt yêu thích của người Ladinos, chỉ rõ rằng một vấn đề pháp lý có thể được đẩy nhanh hoặc một công việc mà một người không hoàn toàn đủ năng lực thực hiện lại có thể được đảm bảo thông qua ảnh hưởng cá nhân của một người quen nắm quyền hoặc biết một bên thứ ba có thể có ảnh hưởng. Phức hợp cuello cổ cánh phụ thuộc vào sức mạnh của tình bạn đã được thiết lập và thường được đo bằng số lượng người ủng hộ dành cho nhau. Nó tìm thấy sự hỗ trợ chính yếu trong thực chất của một mối quan hệ xã hội thuận tiện được xác định là tình bạn. Theo đó, đối với người Ladinos ở Chinautla, việc có được một đám bạn là điều đáng mong muốn nhất. (1959: 44–45).

Tuy nhiên, bất chấp tính chất công cụ của các mối quan hệ như vậy, một yếu tố ảnh hưởng tối thiểu vẫn là một thành phần quan trọng trong mối quan hệ đó. Nếu yếu tố ảnh hưởng đó không hiện diện, thì nó cần phải được giả mạo. Khi các mục đích công cụ của mối quan hệ đó rõ ràng chiếm ưu thế, thì mối quan hệ có nguy cơ bị phá vỡ. Người ta có thể suy đoán về chức năng của gánh nặng tình cảm này. Hiện trạng ban đầu của tình bạn là có đi có lại, không phải kiểu ăn miếng trả miếng mà Sahlins gọi là sự có đi có lại cân bằng (1965), mà là nguyên tắc có đi có lại mang tính tổng quát hơn. Mối quan hệ này hướng tới hàng loạt hoạt động hỗ trợ lẫn nhau và không xác định. Do đó, vật mang ảnh hưởng có thể được coi là một công cụ để giữ cho mối quan hệ đó trở thành một mối quan hệ có sự tin tưởng công khai hoặc tín dụng công khai. Hơn nữa, những gì có thể bắt đầu như một mối quan hệ tương hỗ đối xứng giữa các bên bình đẳng, trong quá trình cung cấp dịch vụ tương hỗ, có thể phát triển thành một mối quan hệ mà một trong các bên - thông qua may mắn hoặc quản lý khéo léo – lại phát triển được vị trí có sức mạnh, còn bên kia lại chỉ có vị trí yếu ớt. Vật mang ảnh hưởng duy trì đặc tính cân bằng qua lại giữa các giá trị ngang bằng có thể được coi là một công cụ để đảm bảo tính liên tục của mối quan hệ khi đối mặt với sự mất cân bằng có thể xảy ra sau đó. Do đó, mối quan hệ cũng bị đe dọa khi một bên bóc lột quá rõ ràng bên kia (Pitt-Rivers 1954: 139). Tương tự như vậy, nếu không có được bất cứ sự thuận lợi nào, thì mối quan hệ sẽ bị phá vỡ và con đường bị bỏ ngỏ cho việc sắp xếp lại các mối quan hệ bạn bè. Do đó, tình bạn công cụ chứa đựng một yếu tố đem đến các biện pháp trừng phạt bên trong bản thân mối quan hệ đó. Sự mất cân bằng sẽ tự động cắt đứt nó.  

Người rời khỏi Cộng đồng

Cũng giống như sự tồn tại lâu dài của các nhóm hợp nhất trong một xã hội không khuyến khích việc huy động các mối quan hệ bạn bè để di động vượt khỏi nhóm hợp nhất, vì vậy nó cũng đặt ra một hạn chế đặc biệt đối với việc sử dụng các mối quan hệ họ hàng để tác động đến tình trạng cắt qua các ranh giới xã hội này. Tôi tin rằng đây là đặc điểm của các cộng đồng hợp nhất khép kín ở Trung Mỹ. Ở đó, cá nhân muốn vượt khỏi quỹ đạo của cộng đồng - hoặc bị đẩy ra ngoài quỹ đạo đó - thường bị buộc tội là phù thủy thực sự hoặc tiềm ẩn và do đó được xác định là một kẻ vô loại, lầm lạc, phải chịu trừng phạt của xã hội. Tất nhiên, điều này có thể thấy rõ ràng nhất trong những lời buộc tội phù thủy. Manning Nash (1960) đã đưa ra một bức tranh thuyết phục về cách các phù thủy trong cộng đồng hợp nhất Amatenango biệt lập về mặt xã hội, cho đến khi người thân của họ bỏ rơi họ cho tận cùng số phận là cái chết. Hồ sơ của dự án người Chiapas của Đại học Chicago có đầy đủ các trường hợp của các nhóm phân mảnh đã rời khỏi ngôi làng gốc của họ do bị cáo buộc là phù thủy để đến định cư ở nơi khác.

Khi mọi người phải rời bỏ một cộng đồng như vậy, họ sẽ lạc lối trừ khi các cơ chế hợp nhất bị phá vỡ và cho phép họ nối lại quan hệ với người thân trong làng, hoặc những người di cư khác tìm kiếm sự giúp đỡ của họ ở xã hội rộng lớn bên ngoài. Tương tự, ở ngôi làng Nam Tyrolese mà tôi đã nghiên cứu, mô thức thừa kế phổ biến cho một người con trai đã đập vụn khối anh chị em còn lại khiến họ trở thành die weichenden Erben nhóm nhượng quyền thừa kế, nên buộc phải bỏ đi. Trong những trường hợp như vậy, liên lạc giữa những người thừa kế còn lại và những người di cư bị cắt đứt và biến mất.

Tuy nhiên, đây không phải là trường hợp xảy ra ở các cộng đồng “mở”, trong đó cả các tổ chức cộng đồng hợp nhất cũng như các nhóm dòng họ đều không chia tách những người ở lại khỏi những người di cư tiềm năng. Ở đó, mọi người có thể tự do huy động cả tình bạn và các mối quan hệ họ hàng để thúc đẩy khả năng di chuyển của họ ở trong và ra ngoài cộng đồng. Các quan hệ họ hàng với người di cư không bị mất đi - chúng trở thành tài sản quý giá để truyền tải việc phân phối hàng hóa và dịch vụ. Vì vậy, người Puerto Rico ở San Jose giữ được mối quan hệ bền chặt với những người thân di cư của họ ở San Juan và ở Hoa Kỳ. Người dân Tret, cộng đồng người Ý mà tôi nghiên cứu trái ngược với St. Felix, cộng đồng người Đức ở Nam Tyrolese, luôn theo dõi mọi người họ hàng đã đến Hoa Kỳ và giữ liên lạc qua thư từ và vẫn gửi quà cho nhau. Và Ernestine Friedl đã chỉ ra trong nghiên cứu của cô ấy về làng Vasilika, ở Boetia (Hy Lạp), là “vai trò của mối quan hệ họ hàng như một cơ chế duy trì mối liên hệ giữa thành thị và nông thôn là rất rộng rãi và xuyên suốt. Sự thay đổi về địa vị xã hội từ người nông dân Hy Lạp nghèo hơn thành giàu có hơn, hoặc thành bất kỳ vị trí nào khác có uy tín hơn, cũng không dẫn đến việc phá vỡ các mối quan hệ và bổn phận họ hàng” (1959: 31).

Bè phái

Cần phải lưu ý rằng những loại tình bạn công cụ phát triển mạnh mẽ nhất trong các tình huống xã hội tương đối cởi mở và trong đó bạn bè có thể đóng vai trò là những người bảo trợ cho nhau trong nỗ lực mở rộng phạm vi vận động xã hội của họ. Tuy nhiên, thế kỷ XX cũng đã chứng kiến ​​một hình thức đóng cửa xã hội mới, không phải ở cấp độ của các nhóm hợp nhất của các chủ đất, mà là theo xu hướng của các tổ chức quan liêu quy mô lớn nhằm giảm bớt lĩnh vực tự do vận động. Trong các bộ máy quan liêu lớn như các tập đoàn công nghiệp hoặc quân đội, tình bạn công cụ hợp nhất thành các bè phái hoặc các nhóm phi chính thức tương tự. So với các loại tình bạn được thảo luận ở trên, trong đó mối quan hệ bao hàm toàn bộ vai trò của hai người tham gia, thì tình bạn bè phái có xu hướng chủ yếu liên quan đến tập hợp các vai trò gắn liền với một công việc cụ thể. Tuy nhiên, quan hệ bè phái vẫn phục vụ nhiều mục đích hơn những mục đích được đưa ra trong danh mục tổ chức chính thức của thể chế. Nó thường là vật mang yếu tố tình cảm, có thể được sử dụng để đối trọng với các yêu cầu chính thức của tổ chức, để làm cho cuộc sống bên trong nó dễ chấp nhận hơn và có ý nghĩa hơn. Quan trọng hơn, nó có thể làm giảm cảm giác của các cá nhân bị chi phối bởi các lực lượng bên ngoài bản thân họ và phục vụ cho việc xác nhận sự tồn tại bản ngã của họ trong mối tương tác qua lại thông qua chuyện trò nội nhóm. Nhưng nó cũng có các chức năng công cụ quan trọng, trong việc làm cho một tình huống không thể dự đoán trở nên dễ dự đoán hơn và hỗ trợ lẫn nhau để đối phó với những đảo lộn bất ngờ từ bên trong hoặc bên ngoài.

Điều này đặc biệt đúng trong các tình huống được đặc trưng bởi sự phân bổ chênh lệch về quyền lực. Cấp trên và cấp dưới về phương diện quyền lực có thể tham gia vào các liên minh không chính thức để đảm bảo theo đuổi suôn sẻ mối quan hệ của họ, phòng ngừa những dò xét tự ý từ bên ngoài hoặc những ghanh ghét từ bên trong, để tìm kiếm sự hỗ trợ cho sự thăng tiến và các yêu cầu khác. Những ví dụ rõ nhất về các liên minh không chính thức như vậy thể hiện rất rõ trong cuộc thảo luận của Joseph Berliner về tính chất gia đình và các блаты thủ đoạn của các nhà quản lý công nghiệp của Liên Xô (1957); nhưng các thủ đoạn ấy vẫn có thể thấy trong bất kỳ tường trình nào về hoạt động của một tổ chức quan liêu lớn. Thật vậy, diễn giải một bình luận của Edward Shils, một góc nhìn thú vị về việc nghiên cứu các tổ chức lớn như vậy có lẽ rõ ràng nhất khi xem đó là những tổ chức cung cấp cho các bè phái mà chúng chứa chấp, chứ không phải ngược lại, bằng cách hình dung bè phái như một đầy tớ của bộ máy quan liêu tạo ra ma trận của nó.

Quan hệ Người Bảo trợ - Khách hàng

Khi tình bạn công cụ đạt đến điểm bất cân bằng tối đa, để một đối tác rõ ràng là vượt trội hơn đối tác kia về năng lực cung cấp hàng hóa và dịch vụ của mình, chúng ta đạt đến điểm quan trọng mà tại đó tình bạn nhường chỗ cho mối quan hệ người bảo trợ-khách hàng. Mối quan hệ giữa người bảo trợ và khách hàng đã được mô tả một cách khéo léo là “tình bạn bất-đối xứng” (Pitt-Rivers 1954: 140). Giống như trong tình bạn công cụ, một khoản phí ảnh hưởng tối thiểu đầu tư vào mối quan hệ của người bảo trợ và khách hàng, để hình thành niềm tin làm cơ sở cho lời hứa hỗ trợ lẫn nhau trong tương lai. Giống như quan hệ họ hàng và tình bạn, mối quan hệ giữa người bảo trợ và khách hàng liên quan đến nhiều khía cạnh của các tác nhân có liên quan, không chỉ đơn thuần là nhu cầu phân khúc của thời điểm này. Về quan hệ người bảo trợ và khách hàng ở Tây Ban Nha, Michael Kenny cho biết: Ẩn sau những lợi thế vật chất mà khách hàng đạt được, “ở đó không chỉ có nỗ lực để san bằng các bất bình đẳng mà còn là cuộc chiến chống lại tình trạng nặc danh (đặc biệt là trong bối cảnh đô thị) và tìm kiếm cho ra các mối quan hệ cá nhân chính yếu” (1962: 136).

Tuy nhiên, các đối tác của giao kèo người bảo trợ-khách hàng không còn trao đổi hàng hóa và dịch vụ tương đương. Tặng vật của người bảo trợ ngay lập tức trở nên hữu hình. Họ cung cấp hỗ trợ kinh tế và bảo vệ chống lại cả các giao dịch hợp pháp và bất hợp pháp của cơ quan quyền lực. Đến lượt mình, khách hàng sẽ trả lại bằng nhiều tài sản vô hình hơn. Trước hết, đây là những minh chứng của lòng quý trọng. “Khách hàng có một ý thức trung thành mạnh mẽ với người bảo trợ của mình và nói lên điều này một cách rộng rãi. Bằng cách làm như vậy, ông ta không ngừng kích thích các kênh trung thành, tạo thiện chí, làm tăng thêm tên tuổi và danh tiếng người bảo trợ của ông ta và đảm bảo ông ta là một loài bất tử” (Kenny 1962: 136). Thứ hai, khoản đóng góp của khách hàng cho người bảo trợ được cung cấp dưới dạng thông tin về mưu đồ của những kẻ khác. Thứ ba, chính là lời hứa ủng hộ chính trị. Ở đây, yếu tố quyền lực xuất hiện mà mặt khác bị che lấp bởi các nguyên tắc có đia có lại. Đối với khách hàng không chỉ lời hứa về những lá phiếu hoặc những cánh tay đắc lực của họ trong tiến trình chính trị, mà thực tế họ còn hứa sẽ không tiếp đãi người bảo trợ nào khác ngoài người mà họ đã nhận hàng hoá và tín dụng. Khách hàng ràng buộc-nghĩa vụ bằng cách không chỉ đơn thuần đưa ra những biểu hiện về lòng trung thành mà còn phải chứng tỏ lòng trung thành đó. Họ trở thành thành viên của một phe phái phục vụ cho mục đích cạnh tranh của một thủ lĩnh phe phái đó. Kenny nói: “Các cuộc khủng hoảng, bộc lộ rõ ​​ràng điều này khi những cam kết về lòng trung thành và sự ủng hộ thể hiện đáng kể sự liên kết của các lực lượng bảo trợ khác nhau” (tr. 136). Chính sự cạnh tranh tiềm năng này giữa người bảo trợ với nhau đã đem đến cho khách hàng lực đòn bẩy của họ, khả năng giành được sự hỗ trợ của họ và khẳng định sự tiếp tục các hỗ trợ. Mối quan hệ đó vẫn mang tính có đi có lại, mỗi bên đầu tư vào bên kia.

Hơn nữa, chúng ta có thể thử suy đoán về hình thức mối quan hệ người bảo trợ-khách hàng sẽ diễn ra trong các hoàn cảnh khác nhau. Tôi nghĩ rằng mối quan hệ được phân tích ở đây sẽ xuất hiện ở nơi không có nhóm trực hệ hợp nhất hoặc làng hợp nhất nào can thiệp giữa khách hàng tiềm năng và người bảo trợ tiềm năng, mà ở đó mạng lưới quan hệ họ hàng và tình bạn đủ rộng mở cho mỗi người tìm kiếm hỗ trợ và mỗi người có năng lực mở rộng hỗ trợ để tham gia vào các giao kèo độc lập, mang tính cặp đôi (Foster 1961). Hơn nữa, những mối quan hệ như vậy sẽ tỏ ra đặc biệt hữu dụng trong những tình huống mà cấu trúc thể chế chính thức của xã hội còn yếu và không thể cung cấp đủ ổn định các loại hàng hóa và dịch vụ, đặc biệt là cho các cấp cuối cùng của trật tự xã hội. Trong những điều kiện như vậy, sẽ có những người cần bảo hiểm xã hội do khách hàng tiềm năng cung cấp, trong khi việc hình thành một nhóm khách hàng sẽ làm tăng khả năng ảnh hưởng của những người bảo trợ đối với hoạt động của tổ chức.

Những xem xét trên giúp có thể dự đoán xa hơn rằng các quan hệ người bảo trợ-khách hàng sẽ vận hành theo những cách khác nhau rõ rệt trong các tình huống được cấu trúc bởi các nhóm hợp nhất và trong những tình huống mà khuôn khổ thể chế mạnh mẽ và mở rộng thành nhiều nhánh. Ở cộng đồng người South Tyrolese, không loại quan hệ người bảo trợ-khách hàng được thảo luận ở đây, nhưng vị trí của nó được thực hiện bởi ban lãnh đạo đảng chính trị, họ giao tiếp theo thứ bậc với các đơn vị hợp nhất trực hệ khác nhau trong làng. Mặt khác, ở những nơi tồn tại các nhóm dòng dõi đơn hệ siêu địa phương, như ở Trung Quốc và Cận Đông, chúng tôi nhận thấy người bảo trợ được kết hợp vào dòng tộc, với tư cách một hoặc những cá nhân đảm nhiệm các vị trí “cao quý” điều hành trong dòng họ. Tương tự, trong số những người Indians được tổ chức hợp nhất ở Trung Mỹ, cá nhân có thể tiếp cận người bảo trợ - chủ sở hữu hacienda đại điền trang hoặc nhân vật quyền lực chính trị - chỉ với tư cách là thành viên của nhóm và sau đó người bảo trợ đóng vai trò là người môi giới quyền lực liên hệ toàn bộ nhóm với khuôn khổ thể chế bên ngoài nó. Một tình huống tương phản diễn ra phổ biến ở những nơi không hề thấy có loại đơn vị thuộc làng hoặc dòng họ hợp nhất nào, nhưng ở đó khuôn khổ thể chế của xã hội trải quá rộng và bám rễ thâm căn cố đế. Ở đó, sự bảo trợ không thể dẫn đến việc hình thành các tập hợp của những người tùng phục tương đối độc lập với cấu trúc chính thức. Thay vào đó, sự bảo trợ sẽ ở dạng đỡ đầu, trong đó người bảo trợ thực hiện kết nối (vì vậy người Tây Ban Nha gọi là enchufe cắm phích) với trật tự thể chế. Trong những trường hợp này, kho hàng dự trữ của người bảo trợ ít khi phân bổ hàng hóa và dịch vụ tương đối độc lập mà chủ yếu là sử dụng ảnh hưởng. Tuy nhiên, tương ứng, quyền lực nắm giữ khách hàng của người bảo trợ đối bị suy yếu và thay cho các khối liên kết người bảo trợ-khách hàng vững chắc, chúng ta có thể thấy các mối quan hệ lan tỏa và đan xen giữa nhiều người đỡ đầu và nhiều khách hàng, trong đó khách hàng thường di chuyển từ quỹ đạo ảnh hưởng này sang quỹ đạo ảnh hưởng khác.

Vấn đề Tính cách Dân tộc

Để kết thúc cuộc thảo luận này, tôi không thể kiềm chế việc đề cập đến một điểm chạm trán với cái đôi khi được gọi là cách tiếp cận tính cách-dân tộc. Khi xem xét các tác phẩm của Ruth Benedict, Margaret Mead và những người khác, người ta bị ấn tượng bởi thực tế là trong việc xác định tính cách dân tộc mà họ đã sử dụng - về cơ bản - dữ liệu về tập hợp liên cá nhân được thảo luận trong bài viết này và về các nghi thức và thành ngữ xã hội chi phối chúng. Ví dụ, mô tả của Geoffrey Gorer về sự phức tạp của việc lựa chọn bạn đời liên quan đến tính phức tạp trong hẹn hò ở Mỹ (1948), hoặc thảo luận của Benedict về vòng tròn nghĩa vụ của on [ơn] 義理 giri [nghĩa lý] giữa những người có địa vị thứ bậc khác nhau ở Nhật Bản (1946), hoặc phân tích hiến pháp hành lang Nghị viện Pháp của Rhoda Mestraux (1954). Rõ ràng là những giải thích như vậy không đương đầu được với các đặc điểm thể chế của cấu trúc dân tộc. Tuy nhiên, cũng có thể các xã hội phức tạp trong thế giới hiện đại ít khác biệt về cách tổ chức chính thức các hệ thống kinh tế, luật pháp hoặc chính trị của họ hơn là về tính cách của các tập hợp liên cá nhân bổ sung của họ. Hơn nữa, sử dụng chiến lược nhân học xã hội, chúng tôi muốn nói rằng thông tin về các tập hợp này ít có ý nghĩa hơn khi được tổ chức theo kiến tạo của tính cách dân tộc đồng nhất so với khi được đề cập đến hợp thể đặc trưng của các quan hệ xã hội và chức năng của nó, bộ phận hoặc khái quát, trong cấu trúc bổ sung hoặc song hành làm nền tảng cho khuôn khổ thể chế chính thức.

Nếu lập luận của tôi là đúng ở chỗ các tập hợp bổ sung này có thể thực hiện được chức năng của các thể chế chính thức, thì cũng phải có trường hợp các tập hợp bổ sung này xuất hiện hoặc thay đổi đặc tính vì các thể chế đó phát triển trong lịch sử. Và với những thay đổi trong các tập hợp bổ sung, chúng ta có thể hy vọng tìm thấy những thay đổi trong các chuẩn mực chi phối chúng và trong các hình thức biểu tượng được giả định bởi các chuẩn mực này. Sự hội nhập của xã hội rộng lớn hơn đòi hỏi bện dệt những mối quan hệ đan xen này. Khi sự hội nhập của xã hội được thúc đẩy bởi một số nhóm người thu hút nhiều nhóm khác đi theo họ, thì một số nhóm đã thiết lập nhịp bước và giai điệu trong việc hình thành các khuôn mẫu mới. Theo đó, những nhóm này ảnh hưởng đến các nhóm khác, chỉnh sửa và tái định hình các mô thức quy ước liên cá nhân để phù hợp với những cách mô thức mà nhóm thiết lập-giai điệu sử dụng. Về mặt lý thuyết tham chiếu, sự lựa chọn các nghi thức hành vi và định hướng lưu thông của chúng phản ánh mức độ thống trị của một nhóm tham chiếu nhất định trong xã hội. Các ví dụ về sự lưu hành xuống dưới của các mô thức như vậy là sự lan rộng của các hình thức cung đình ở Pháp (Elias 1939), sự phổ biến của cách cư xử trường-công ở Anh, và sự giao tiếp của các hình thức đô thị với các nhóm nông thôn thông qua mạng lưới quan hệ họ hàng ở Hy Lạp và Ý (Friedl 1959; Wolf 1962). Nhưng cũng có thể có những trường hợp lưu thông hướng lên của các mô hình hành vi, phản ánh những thay đổi trong việc phân bổ quyền lực trong xã hội, như khi nghi thức chi phối mối quan hệ của các chủ sở hữu hacienda đại điền trang truyền thống và công nhân nông nghiệp ở Puerto Rico được chuyển giao làm khuôn mẫu cho mối quan hệ giữa cái nhóm lãnh đạo chính trị mới trên toàn bộ hòn đảo và đám dân chúng đông đảo đi theo (Wolf 1956: 212–13) hoặc khi nghi thức của một nhóm xen kẽ bị khinh rẻ ở Mexico đã trở thành ngữ pháp hành vi tiêu chuẩn hóa tương tác giữa những người tìm kiếm quyền lực và những người tòng phục (Wolf 1959a: chương 11).

Do đó, việc mô tả và phân tích các tập hợp liên cá nhân bổ sung được thảo luận trong bài viết này có thể cho biết rất nhiều điều về các cơ chế tiềm ẩn của xã hội phức tạp. Việc truy tìm nguồn gốc và sự lưu hành của các mô hình nghi thức cấu trúc nên những tập hợp này cũng sẽ tiết lộ phần lớn động lực xã hội, về biến động phân bố của các lực lượng trong cơ thể xã hội. Nếu những nghiên cứu như vậy không dẫn chúng ta đến các định nghĩa về tính cách dân tộc, như thuật ngữ này cho đến nay vẫn được sử dụng, thì chúng cũng chỉ ra cách thức phân biệt những cái hình bình hành của các lực lượng xã hội trong những xã hội khác nhau.

_____________________________________________

Nguồn: Wolf, Eric R. (1966). Kinship, Friendship, and Patron-Client Relations in Complex Societies, in Michael Banton, ed., The Social Anthropology of Complex Societies, 1–22 (Association of Social Anthropologists, Monograph 4; London: Routledge, 1966).

Tác giả: Eric Wolf (1923-1999) là Giáo sư Danh dự về Nhân học tại Học viện Lehman và Trường Nghiên cứu sinh của Đại học Thành phố New York. Từng nhận Học bổng Guggenheim (1960) và Học bổng Quốc gia về Nhân văn Cao cấp (1973), ông cũng là thành viên của Học viện Khoa học và Nghệ thuật Hoa Kỳ và của Học viện Khoa học Quốc gia. Wolf đã nhận được bằng B.A. (1946) từ Cao đẳng Queens và có bằng Tiến sĩ (1951) từ Đại học Columbia. Phần lớn công trình của ông tập trung vào các chủng tộc, dân tộc và văn hóa đã phát triển như thế nào trong suốt thế kỷ 19 và 20. Wolf cũng nghiên cứu các tác động của sự mở rộng của châu Âu và châu Mỹ liên quan đến lý thuyết nhân học. Các nghiên cứu và bài viết của ông có ảnh hưởng lớn trong giới học giả quan tâm đến nghiên cứu so sánh về biến đổi xã hội. Các công trình chủ yếu gồm Những đứa con Rung chuyển Trái đất (1959), Cuộc chiến nông dân thế kỷ XX (1969), Tình trạng con người ở Mỹ Latinh (1972) Châu Âu và Những người không có lịch sử (1982), Hình dung Quyền lực (1999) và Con đường Quyền lực (2001). Ông cũng đóng góp cho một số ấn phẩm, bao gồm Nhà Nhân học Hoa Kỳ, Nghiên cứu So sánh Lịch sử và Xã hội, và Tạp chí Nhân học Mexico.

Tài liệu dẫn

Benedict, Ruth (1934). Patterns of Culture. Boston and New York: Houghton Mifflin.

——— (1946). The Chrysanthemum and the Sword. Boston: Houghton Mifflin.

Berliner, Joseph (1957). Factory and Manager in the U.S.S.R. Cambridge, Mass.: Harvard University Press.

Bobek, Hans (1962). “The Main Stages in Socioeconomic Evolution from a Geographic Point of View.” In Philip L. Wagner and Marvin W. Mikesell, eds., Readings in Cultural Geography, 218–47. Chicago: University of Chicago Press.

Cohen, Yehudi (1961). “Patterns of Friendship.” In Yehudi Cohen, ed., Social Structure and Personality: A Casebook, 351–86. New York: Holt, Rinehart and Winston.

Elias, Norbert (1939). Uber den Prozess der Zivilisation: Soziogenetische und Psychogenetische Untersuchungen. 2 vols. Basel: Verlag Haus zum Falken.

Fei, Hsiao-Tung (1953). China’s Gentry. Chicago: University of Chicago Press.

Foster, George M (1961). “The Dyadic Contract: A Model for the Social Structure of a Mexican Peasant Village.” American Anthropologist 63: 1173–92.

Freedman, Maurice (1958). Lineage Organization in Southeastern China. London School of Economics Monographs on Social Anthropology, 18. London: Athlone Press.

Friedl, Ernestine (1959). “The Role of Kinship in the Transmission of National Culture to Rural Villages in Mainland Greece.” American Anthropologist 61: 30–38.

Gorer, Geoffrey (1948). The American People. New York: Norton.

Homans, George C., and David M. Schneider (1955). Marriage, Authority and Final Causes: A Study of Unilateral Cross-Cousin Marriage. New York: Free Press.

Hsu, Francis L. K. (1948). Under the Ancestors’ Shadow: Chinese Culture and Personality. New York: Columbia University Press.

Kenny, Michael (1962). A Spanish Tapestry: Town and Country in Castile. Bloomington: University of Indiana Press.

Métraux, Rhoda (1954). “Themes in French Culture.” In Rhoda Mé ́traux and Margaret Mead, eds., Themes in French Culture: A Preface to a Study of French Community, 1–65. Hoover Institution Series D: Communities, 1.Stanford, Calif.: Stanford University Press.

Morgan, Lewis Henry (1877). Ancient Society. Chicago: Charles H. Kerr.

———. (1963 [1877]). Ancient Society. Edited by Eleanor Leacock. New York: Meridian Books, World Publishing.

Nash, Manning (1960). “Witchcraft as Social Process in a Tzeltal Community.” América Indígena 20: 121–26.

Pitt-Rivers, Julian A (1954). The People of the Sierra. New York: Criterion Books.

Reina, Ruben (1959). “Two Patterns of Friendship in a Guatemalan Community.” American Anthropologist 61: 44–50.

Sahlins, Marshall D. (1957). “Differentiation by Adaptation in Polynesian Societies.” Journal of the Polynesian Society 66: 291–300.

———. (1965). “On the Sociology of Primitive Exchange.” In Michael Banton, ed., The Relevance of Models for Social Anthropology, 139–236. A.S.A. Monograph 1. London: Tavistock; New York: Praeger.

Schumpeter, Joseph (1955). Imperialism [and] Social Classes: Two Essays. Translated by Heinz Norden. New York: Meridian Books.

Wolf, Eric R. (1955b). “Types of Latin American Peasantry: A Preliminary Discussion.” American Anthropologist 58: 452–71.

———. (1956). “San José: Subcultures of a Traditional Coffee Municipality.” In Julian H. Steward, Robert A. Manners, Eric R. Wolf, Elena Padilla Seda, Sidney W. Mintz, and Raymond L. Scheele, The People of Puerto Rico: A Study in Social Anthropology, 171–264. Urbana: University of Illinois Press.

———. (1957). “Closed Corporate Peasant Communities in Mesoamerica and Central Java.” Southwestern Journal of Anthropology 13: 1–18.

———. (1959a). Sons of the Shaking Earth. Chicago: University of Chicago Press.

———. (1962). “Cultural Dissonance in the Italian Alps.” Comparative Studies in Society and History 5: 1–14.

Yang, Martin C. (1945). A Chinese Village: Taitou, Shantung Province. New York: Columbia University Press.

 

 

 

 

 

 


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét