Văn
hóa là gì? (II)
H.
Spencer-Oatey
Người dịch: Hà Hữu Nga
3. Văn hóa có thể được phân biệt với bản chất
con người phổ quát và tính cách cá nhân độc đáo
Văn hóa được học hỏi, mà không được thừa kế. Nó bắt nguồn từ môi trường xã hội của một người, mà không phải từ nguồn di truyền của một người. Một mặt, văn hóa nên được phân biệt với bản chất con người, và mặt khác, phân biệt với cá tính của một cá nhân, mặc dù chính xác nơi các ranh giới nằm giữa bản chất con người và văn hóa, giữa văn hóa và nhân cách, là một vấn đề luôn được các nhà khoa học xã hội thảo luận.
Bản chất con người
là những gì tất cả mọi người, từ các giáo sư Nga đến người
thổ dân Úc, đều
có điểm chung: nó thể hiện mức phổ quát trong phần mềm tinh thần của một
con người. Nó được
thừa kế bằng
nguồn gen của con người; tương
tự máy tính , nó là “hệ điều hành” quyết định chức năng tâm lý cơ bản và thể chất của con người. Khả năng con người cảm thấy
sợ hãi, tức giận, tình
yêu, niềm vui, nỗi buồn, sự cần thiết phải liên kết với những người khác, để vui
chơi và rèn
luyện chính mình, điều
kiện dễ dàng để quan sát môi
trường và nói về nó với người khác, tất cả đều thuộc về cấp độ ấy của việc lập trình tinh thần. Tuy nhiên, những gì con
người thực hiện với những cảm xúc
này,
làm thế nào mà
người ta thể hiện được
sự sợ hãi, niềm vui, các
quan sát, …v.v, đều biến đổi theo văn hóa. Bản chất con người không phải là
"con người" như thuật ngữ đó cho thấy, bởi vì một số khía cạnh nhất
định của nó còn
được chia sẻ với các bộ
phận của thế giới động vật.
Mặt khác, nhân cách của một cá nhân, là tập
hợp tính cách duy nhất của các chương trình tinh thần của một con người, mà người
đó không chia sẻ với bất cứ
người nào khác. Nó có cơ sở ở những đặc điểm mà một phần được thừa kế với bộ gien
di truyền duy nhất của cá
nhân và một phần đã được học hỏi. 'Học hỏi' có nghĩa là: bị biến đổi bởi ảnh hưởng của sự
lập trình tập thể (văn hóa)
cũng như các kinh nghiệm cá nhân duy nhất.
Các đặc điểm văn hóa thường được cho là do di truyền, vì các nhà triết học và các học giả khác
trong quá khứ đã không biết
làm thế nào để giải thích bằng cách khác về tính bền vững đáng kể
của
các khác biệt trong các
mô thức
văn hóa giữa các nhóm người.
Họ đánh giá thấp tác động của việc học hỏi từ các thế hệ trước và của
việc dạy dỗ
cho một thế hệ tương lai
những gì mình đã học được. Vai trò của di truyền được phóng đại trong các
giả lý thuyết về chủng tộc, là kẻ phải chịu trách nhiệm, cùng những tội đồ khác, cho các trại tập
trung Holocaust do Đức quốc xã tổ chức trong
Thế chiến II. Xung đột chủng tộc và dân tộc thường được
biện minh bằng lập luận vô căn cứ của tính ưu việt và thấp kém về văn
hóa.
[Hofstede 1994: 5-6]
4. Văn hóa ảnh hưởng đến các quá trình sinh học
Nếu chúng ta dừng lại để xem xét, thì đại đa số các hành vi có ý thức của chúng ta đều đạt được thông qua học tập và tương tác với các thành viên khác trong nền văn hóa của chúng ta. Ngay cả những câu trả lời đó cho các nhu cầu thuần túy sinh học (có nghĩa là, ăn, ho, đi ngoài) thường xuyên chịu ảnh hưởng bởi các nền văn hóa của chúng ta. Ví dụ, tất cả mọi người đều có chung một nhu cầu sinh học về thực phẩm. Trừ khi một lượng calo tối thiểu được tiêu thụ, thì nạn đói sẽ xảy ra. Vì vậy, tất cả mọi người đều phải ăn uống. Nhưng chúng ta ăn gì, thường xuyên đến mức độ nào, chúng ta ăn bao nhiêu, ăn với ai, và theo những quy tắc nào, ít nhất là một phần cũng được quy định bởi nền văn hóa của chúng ta.
Clyde Kluckhohn,
một nhà nhân học đã dành nhiều năm ở Arizona và New Mexico
nghiên cứu người Navajo, đã cung cấp cho chúng ta một ví dụ về việc
văn hóa tác
động ra sao đến các quá trình sinh học: "Tôi đã từng biết bà vợ của một thương nhân ở Arizona đã quan tâm phần nào đến
ma thuật trong việc gây ra một phản ứng văn hóa. Những người khách đến chỗ bà ta thường được phục vụ bánh sandwich ngon nhồi
đầy thịt,
có vẻ không phải thịt
gà cũng không phải cá ngừ
mà giống như cả hai. Bà ta không trả lời các câu hỏi khi khách chưa ăn no. Sau đó bà ta giải thích rằng những gì họ đã ăn không phải
thịt gà, cũng
không phải cá ngừ, mà
là thịt rắn chuông. Phản ứng tức thời - nôn ra, thường là nôn thốc nôn
tháo. Một quá trình sinh học bị
nhiễm vào một mạng văn hóa. (1968: 25-26)
Đây là một minh họa
đầy ấn tượng về
việc văn hóa
có thể tác động ra sao đến các
quá trình sinh học. Thực
tế là, trong trường hợp này, quá trình sinh học tự
nhiên của sự tiêu hóa không chỉ bị ảnh hưởng, mà nó còn bị đảo chiều. Một phần học được
trong văn hóa của chúng ta (đó là, ý tưởng cho
rằng thịt rắn chuông là một
thứ ghê tởm không
thể ăn
được) thực sự gây ra sự gián
đoạn đột ngột của quá trình tiêu hóa bình thường. Rõ ràng không có gì trong thịt rắn
chuông khiến cho người ta phải nôn ra, đối với những
người đã nội
tại hóa ý tưởng đối
lập, cho rằng thịt rắn
chuông nên ăn, thì không hề có sự đảo chiều đường tiêu hóa như vậy.
Những hiệu
ứng của ý tưởng được
tạo ra về phương diện văn hóa đối
với cơ thể chúng ta và quá
trình tự nhiên của chúng có nhiều hình thức khác nhau. Ví dụ, các trường hợp kiểm soát tự nguyện các phản
xạ đau đớn được tìm thấy trong một số nền văn hóa trên khắp thế giới. ... Cũng
có vô số ví dụ dân tộc học khó
mà kể hết ra
được, nhưng liệu chúng ta
đang nhìn những người đàn ông Cheyenne tham gia vào Vũ hội Mặt trời, những người Fiji bước đi trên lửa, hoặc phụ nữ Mỹ thực hành Lamaze (phòng
bệnh tâm lý)
phương pháp sinh con, thì
nguyên tắc đều
như nhau: mọi người học hỏi các ý tưởng từ các nền văn hóa của họ mà khi được
nội tại
hóa thì nó thực sự có thể là
trải nghiệm về nỗi đau đớn. Nói cách
khác, một thành phần của văn hóa (có nghĩa là, ý
tưởng) có thể khơi
thông hoặc tác
động ảnh hưởng về
phương diện sinh học dựa trên
các phản xạ đau
đớn.
[Ferraro 1998: 19-20]
5. Văn hóa được liên kết với các nhóm xã hội
Văn hóa được chia sẻ bởi ít nhất hai hoặc nhiều người hơn, và dĩ nhiên các xã hội sống, thực sự luôn rộng lớn hơn thế. Nói cách khác, không có loại sự vật chẳng hạn như nền văn hóa của một ẩn sĩ. Nếu một cá nhân đơn độc suy nghĩ và hành xử theo một cách thức nhất định, thì suy nghĩ hay hành động đó chỉ mang phong cách riêng, mà không phải thuộc về văn hóa. Vì một ý tưởng, một sự vật hay một hành vi phải được coi là văn hóa, nên nó phải được chia sẻ bởi một loại nhóm xã hội hay xã hội tổng thể nào đó. [Ferraro 1998: 16]
Vì hầu hết tất cả mọi người đều thuộc về một số nhóm khác nhau và đồng
thời cũng là các loại người khác
nhau, nên
người ta không thể tránh
khỏi mang theo một vài lớp lập trình tinh thần trong bản thân
mình, tương ứng với các
cấp độ văn
hóa khác nhau. Ví dụ như:
i) cấp độ
quốc gia (hoặc nước đối
với những người di cư trong cuộc đời của họ);
ii) cấp độ vùng và / hoặc tộc người
và / hoặc tôn giáo và /
hoặc ngôn ngữ, vì hầu hết các quốc gia đều bao gồm các vùng và / hoặc tộc người và / hoặc tôn giáo và / hoặc các
nhóm ngôn ngữ khác nhau;
iii) cấp độ giới
tính, theo cách
xác định một người được sinh
ra là con gái hay con trai; iv) cấp độ thế hệ, tách biệt ông bà khỏi cha mẹ khỏi con cái; v) cấp độ
thể loại vai trò, ví dụ
cha mẹ, con trai / con gái, giáo viên, học sinh; vi) cấp độ đẳng cấp xã hội, kết hợp với các cơ hội
giáo dục, nghề nghiệp hoặc chuyên môn; vii) cấp độ tổ chức hoặc công ty theo cách
nhân viên đã được xã hội
hóa bởi phương thức tổ chức công việc của họ. [Hofstede 1991: 10]
Vì vậy, trong ý
nghĩa này, tất cả mọi người đồng thời là thành viên của các nhóm văn hóa khác
nhau và do đó có thể nói phải có tư cách thành viên đa văn hóa.
Các cá nhân được tổ chức
theo nhiều cách tiềm tàng khác nhau trong một dân số, bởi nhiều tiêu chí khác nhau (và xuyên suốt): ví dụ, bằng mối quan hệ thân tộc với các gia đình hoặc thị tộc; bằng ngôn ngữ, chủng tộc hay tín ngưỡng với các nhóm tộc người; bằng các đặc trưng kinh tế-xã hội với các gia cấp xã hội; theo vùng địa lý với các nhóm lợi ích chính trị; và theo nghề
nghiệp hoặc các tư cách thành viên thể chế với các nghiệp đoàn, các tổ chức quan liêu, các ngành công nghiệp, các đảng chính trị, và quân đội. Hệ
thống xã hội càng phân biệt và phức tạp, thì càng có nhiều nhóm và các thể chế tiềm tàng. Và bởi vì mỗi nhóm thể
chế
đặt các cá nhân vào các thế giới kinh nghiệm khác nhau, và bởi vì văn hóa xuất
phát một phần từ kinh nghiệm ấy, nên mỗi nhóm và các thể chế ấy có thể là một nơi tích
trữ tiềm năng cho văn hóa.
Do đó không một dân số nào có thể được đặc trưng hóa đầy đủ như là một nền văn hóa duy nhất hoặc bởi
một ký
hiệu nhận diện văn hóa duy nhất.
Hệ quả là, một dân số cang được tổ chức phức tạp dựa trên các cơ sở xã hội học (giai
cấp,
khu vực, tộc
người, …vv), thì các bản đồ
văn hóa của nó có vẻ sẽ càng phức tạp. Đó chính là lý do tại sao mà khái niệm "(các) tiểu văn hóa" lại cần thiết. [Avruch 1998: 17-18]
6. Văn hóa vừa là một cấu trúc riêng vừa là một cấu trúc xã hội
“... Văn hóa giống như một cấu trúc tâm lý cá nhân, vì nó là một cấu trúc xã hội. Ở một mức độ nhất định, văn hóa tồn tại trong mọi con người chúng ta với tư cách cá nhân cũng hệt như nó tồn tại với tư cách là một cấu trúc xã hội toàn cầu vậy. Những khác biệt cá thể trong văn hóa có thể được quan sát thấy ở những con người ở mức độ mà họ chấp nhận và cam kết với các thái độ, giá trị, niềm tin, và hành vi, bởi sự đồng thuận, tạo thành nền văn hóa của họ. Nếu bạn hành động phù hợp với các giá trị hoặc hành vi đó, thì cái văn hóa đó cư trú trong bạn; nếu bạn không chia sẻ các giá trị hoặc hành vi đó, thì bạn cũng không chia sẻ nền văn hóa đó.
Trong khi các chuẩn
mực của bất kỳ nền văn hóa nào cũng cần phù hợp với toàn bộ những con người trong nền văn hóa đó,
thì thật sự là những chuẩn
mực đó sẽ phù hợp với những con người khác nhau ở các mức độ khác nhau. Sự pha trộn thú vị này của văn hóa có
thể thấy trong nhân học và
xã hội học với tư cách là một khái niệm vĩ mô và trong tâm lý học với tư
cách là một cấu trúc cá thể làm cho việc nhận thức văn hóa trở nên khó khăn nhưng
hấp dẫn. Trong
quá khứ, chúng ta đã thất bại không
nhận ra được
sự tồn tại của những khác
biệt riêng lẻ trong các cấu trúc và các khái niệm về văn hóa chắc chắn
đã hỗ trợ cho
việc hình thành và duy
trì các khuôn mẫu có sẵn”. [Matsumoto 1996: 18]
“... Văn hóa là một phái sinh của kinh nghiệm cá nhân, một cái gì đó được học
hỏi hoặc được tạo ra bởi
bản thân các cá nhân hoặc được
truyền cho họ về phương diện xã hội bởi những người đương thời hoặc bởi tổ tiên. ... Một quan niệm về văn hóa như
vậy khác với các
quan niệm đã thống trị tư
duy trong phần lớn khoa học xã hội, đặc biệt là trong các
mối quan hệ quốc tế và giải
quyết xung đột. Một mặt, trong khái niệm này, văn hóa được xem là một cái gì đó lại
càng không ổn định hoặc
đồng nhất hơn trong những khái niệm được đề xuất bởi những người khác. Ý tưởng của chúng ta về văn
hóa ít tập trung vào việc xây dựng mô thức mà tập trung nhiều
hơn
vào quá trình nhân thức và xã hội so với những ý tưởng cũ về văn hóa. Mặt khác, bằng cách kết nối văn hóa với các cá nhân và nhấn mạnh số lượng và tính đa dạng của các môi trường xã hội và kinh nghiệm
mà các cá nhân gặp phải,
chúng ta mở rộng phạm vi tham chiếu của văn hóa để bao gồm không chỉ các
nhóm cận- hoặc giả thân
tộc (bộ lạc, nhóm tộc người và quốc gia là những phạm
vi thông thường) mà
còn cả các nhóm xuất phát từ chuyên môn, nghề nghiệp, giai cấp, tôn giáo, hoặc khu vực
nữa. Định hướng này
hỗ trợ cho
ý tưởng cho
rằng các cá nhân phản ánh
hay thể hiện nhiều nền văn hóa và "văn hóa" luôn luôn được phân phối về mặt tâm lý và xã hội trong một nhóm. So với
cách tiếp cận cũ, kết nối một nền văn hóa độc đáo, mạch lạc, và tích hợp với
các nhóm xã hội
được xác định rõ ràng,
thì cách tiếp cận này làm cho các ý
tưởng về văn hóa trở nên phức tạp hơn. Sự phức tạp như vậy là cần thiết, bởi vì thế giới của hành động xã hội,
bao gồm cả xung đột và giải pháp cho nó, là một vấn đề phức tạp, và chúng ta cần một khái niệm khác để nắm bắt nó”. [Avruch 1998: 5-6]
7. Văn hóa luôn luôn được phân phối trong một nhóm
về cả phương diện xã hội và tâm lý, vì vậy việc mô tả các đặc tính của một nền văn hóa
luôn luôn mờ.
Văn hóa là một
khái niệm 'mờ', trong đó các thành viên của nhóm không có khả năng chia
sẻ những
tập hợp giống hệt nhau về
thái độ, niềm tin …v.v, mà lại cho thấy rõ “các tương đồng về gia đình”, kết quả là không có một
tập đặc điểm tuyệt đối có thể phân biệt
dứt khoát nhóm văn hóa này với nhóm văn hóa khác. Giả định này [văn hóa được phân bố đồng đều]
là không có cơ sở vì hai lý do, một là về di truyền
xã hội (liên
quan đến các nhóm xã hội
và các thể chế) và di truyền tâm lý khác (liên quan đến các
quá trình nhận thức và
tình cảm đặc trưng của các cá nhân). Lý do đầu tiên là một hệ quả tất yếu của các vấn đề phức tạp
xã hội đã nêu ở trên: Tới mức hai cá nhân không có cùng một vị trí xã hội học trong một dân số nhất định (cùng các
nền tảng giai cấp, tôn giáo, khu vực, tộc
người, chẳng
hạn), và tới
mức các vị
trí này đòi hỏi
các khác biệt (tiểu)
văn hóa, vì
vậy mà hai cá
nhân không thể có
cùng toàn bộ các nội dung văn
hóa một cách hoàn toàn. Đây là lý do di truyền xã hội đối với sự phân bố không đồng nhất của văn hóa. Văn hóa được
phân phối về
mặt xã hội trong một
tập hợp người.
Thứ hai, văn
hóa duy lý di truyền tâm lý không bao
giờ được chia sẻ một cách hoàn hảo bởi các cá nhân trong một
tập hợp người (không có vấn đề
về việc một tập hợp người được định nghĩa như thế nào về phương diện xã hội học) phải liên
quan đến các cách thức mà văn hóa được tìm thấy
"trong đó", bên trong cái cá nhân. Ở đây, nói một
cách chung rộng, chúng ta đang ở
trong lĩnh vực của động
thái tâm lý, ít nhất là đối
với những cách thức và tình huống mà một cá nhân nhận được hoặc học hỏi được các hình ảnh hoặc các hệ thống
mã văn hóa. Bởi vì các
ranh giới bộ
môn và những
mảnh vải bọc mắt ngựa về tri thức luận mà họ thường thực thi, nên các loại quan tâm tâm lý chung này được coi là vượt-giới hạn đối với nhiều nhà khoa học xã hội. Vì lý do này, thậm chí nhiều lý
thuyết gia văn hóa có thể
ưa thích để suy nghĩ về văn hóa chỉ như là ở "ngoài đó", trong các cấu
trúc xã hội
và công bố, bao gồm các biểu
tượng, tất cả đều hoàn toàn độc lập của tư duy - của nhận thức và ảnh hưởng. Các học giả khác, đặc
biệt là thuộc các ngành kinh tế học, hoặc quan hệ quốc tế, như chúng ta sẽ thấy trong phần tiếp
theo, thích hoàn toàn bỏ qua tư duy, bằng cách xử lý nó về cơ bản như là một hiện tượng "hộp đen". Nhưng bằng cách bỏ qua tư
duy, trong thực tế họ vẫn
không thoát khỏi các vấn
đề tâm lý nói chung; họ chỉ đơn thuần là kết thúc việc
dựa vào một thứ tâm lý học không được thừa nhận, và
khá nguyên thủy.
Bằng cách tiếp cận tư duy - nhận thức và ảnh hưởng - chúng ta có thể sắp xếp ra những cách thức mà văn hóa là quan hệ
nhân quả, bằng cách lưu ý đến thảo luận ở trên, về sự nguy hiểm của việc
vật chất hóa văn hóa đến
mức gây ra xung đột một
cách ngớ ngẩn. Không phải - không thể như vậy. Nhưng các đại diện văn hóa -
hình ảnh và các
hệ thống mã, lược đồ và mô
hình - đều được các cá nhân nội tại hóa. Chúng không được nội tại hóa ngang bằng nhau hoặc tất cả đều nội tại hóa cùng một cấp độ, tuy nhiên, một số được nội tại
hóa một cách thực sự bề ngoài và tương
đương với các khuôn sáo văn hóa. Các đại diện khác được nội sâu sắc và được đầu tư bằng tác động cảm xúc. Các đại diện này có thể kích động hành vi bằng
cách kết nối
với các mục tiêu mong
muốn hoặc các trạng thái cuối cùng. Các đại diện càng được nội tại sâu sắc và chuyển tải xúc cảm, thì các hình ảnh
hoặc các lược đồ nhất
định càng
có khả năng thúc đẩy hành động.
Đây là ý nghĩa đúng đắn trong đó "văn hóa là quan hệ nhân quả". Nó cũng giải
thích cho sự phân phối không đồng dạng của văn hóa, bởi vì đối với hai cá nhân thì
ngay cả cùng
một đại diện văn hóa (chẳng
hạn kết quả
là một
sự sắp đẳ hoàn toàn chung
về phương diện xã hội học) có thể
được nội tại hóa một cách khác biệt. Đây là lý do tâm lý cho tình trạng phân phối không đồng dạng của văn hóa. Văn
hóa được phân phối về phương diện tâm lý trong một tập hợp dân cư. Trong số hai loại nhà cách mạng, mỗi loại có chung nền tảng và chương trình kinh tế-xã hội, có chung
hệ tư tưởng chính trị, có
chung sự đối lập trí tuệ với
chế độ cầm quyền, nhưng
chỉ có một loại
là có
động cơ (bởi cơn giận dữ?
bởi hận thù? bởi chấn thương thời thơ ấu? bởi
những gì
khác?) để đánh bom. Không ai quan tâm đến việc
xung đột xã hội hay giải
pháp xung đột có thể vẫn còn xa lạ với
các quá trình và các kết nối với thực tiễn xã hội về di truyền tâm lý -
nhận thức và tình cảm - [Avruch 1998: 18-20]
Giống hệt như không có bệnh dịch nào mà không có các cá thể sinh vật bị nhiễm các loại virus hoặc vi khuẩn cụ thể, không có văn hóa mà không có cơ quan
đại diện được phân phối trong não / tâm trí của
cá nhân. ..., Không có dịch
bệnh nào mà lại không có
các cá thể
bị mắc
bệnh, nhưng việc nghiên cứu về dịch bệnh
lại không thể quy giản vào việc nghiên cứu bệnh học cá thể. Từ quan điểm này, các
ranh giới của một nền văn
hóa nhất định không phải là những ranh giới bất kỳ rõ rệt hơn so với những ranh giới của một dịch bệnh nhất định. Một bệnh dịch
liên quan đến một dân số với nhiều cá nhân bị ảnh hưởng ở các mức độ khác nhau bởi một chủng vi sinh vật đặc biệt trong một khoảng
thời gian liên tục trên một lãnh thổ có ranh giới mờ và không ổn định. Và một nền văn
hóa liên quan đến một nhóm xã hội (chẳng hạn như một quốc gia, nhóm
sắc tộc, nghề nghiệp, thế hệ,
…vv) được xác định trong phạm
vi của các
đại diện văn hóa tương tự
được tổ chức bởi một tỷ lệ đáng kể của các thành viên của nhóm. Nói cách khác, những người đang được nói đến thuộc về cùng một văn hoá ở mức độ là tập hợp các đại diện văn hóa chung của họ là
to lớn.
[Žegarac 2007: 39-40]
8. Văn hóa vừa có các yếu tố phổ quát (etic) lại vừa có các yếu tố riêng biệt (emic)
Con người nói
chung đều có
các đặc trưng sinh học trùng khớp và sống trong các cấu trúc xã hội và các môi trường vật lý
tương đối giống nhau, tạo
ra những tương đồng lớn trong cách thức mà chúng tạo hình các nền văn hóa. Nhưng
trong khuôn khổ của các tương đồng vẫn có những khác biệt.
Điều tương tự cũng xảy ra
với ngôn ngữ. Ngữ âm học xử lý với các âm thanh diễn ra trong tất cả các ngôn ngữ. Âm vị học là các âm thanh chỉ xảy ra trong một ngôn ngữ. Nhà ngôn ngữ học Pike (1967)
lấy hai âm tiết cuối của các
thuật ngữ này để
tạo ra
từ "etics" cho các
yếu tố văn hóa phổ quát và "emics" cho các yếu
tố văn hóa cụ thể, duy nhất.
Mặc dù một số nhà
nghiên cứu văn hóa cho rằng
mọi nền văn hóa đều là duy nhất và theo một nghĩa nào đó thì mọi người trên thế giới này đều là duy nhất, còn khoa học
thì phải xử lý những khái quát.
Vinh quang của khoa học được nhìn nhận bằng những thành tựu khi nó cho thấy rằng các định luật chi phối sự vận động của các hành tinh và những
quả táo rơi đều giống
nhau. Vì vậy vấn đề là liệu có hay không các yếu tố emic [người trong cuộc]
của văn hóa là
rất đáng quan tâm. Khi các yếu tố
emic là những thích ứng địa phương của các yếu tố etic [người ngoài cuộc], thì chúng cũng rất
đáng quan tâm. Ví dụ, tất cả mọi
người đều trải nghiệm khoảng cách xã hội từ các nhóm bên ngoài (một yếu tố etic). Tức
là, họ cảm thấy gần gũi
hơn với gia đình, người thân của họ và những người người mà họ cho là tương tự với họ hơn là những
người mà họ cho là khác mình. Nhưng cơ sở của khoảng cách xã hội thường là một thuộc tính
emic: Trong một số nền văn hóa, nó chỉ có cơ sở ở bộ lạc hay chủng tộc;
ở những nền
văn hóa khác nó lại
dựa trên sự kết hợp của tôn giáo, tầng lớp xã hội, và dân
tộc tính; ở Ấn Độ, đẳng cấp và ý tưởng về sự
bất tịnh trong nghi thức là rất quan trọng. Tóm lại, khoảng cách xã hội là etic; tình
trạng bất tịnh về nghi
thức là một cơ sở của
khoảng cách xã hội, là emic. ...
Để tóm tắt về emics và
etics, khi chúng ta nghiên cứu các nền văn hóa vì mục
đích riêng của chúng, chúng ta có thể tập trung vào các yếu tố emic
[người trong cuộc], và khi chúng ta
so sánh các nền văn hóa, chúng ta phải nhìn nhận bằng các yếu tố văn hóa etic
[người ngoài cuộc].
[Triandis 1994: 20]
Tuy nhiên, còn có một cách suy nghĩ khác, có thể có hiệu quả hơn cho sự hiểu biết
về các ảnh hưởng văn hóa đối
với hành vi của con người.
Thay vì xem xét liệu có bất kỳ hành vi nào là etic [ngoài cuộc] hoặc emic [trong cuộc], chúng ta có thể hỏi làm thế nào mà
hành vi đó
có thể đồng
thời vừa là etic lại
vừa là emic. Có lẽ các bộ phận hoặc
các khía cạnh này của hành vi đó là etic còn các bộ phận khác lại là emic. Chẳng hạn, giả sử
bạn đang có một cuộc trò
chuyện với một người từ một nền văn hóa khác với văn
hóa của bạn. Trong khi bạn nói chuyện với
người này, bạn nhận thấy rằng cô ấy không nhìn thẳng vào mắt bạn khi nói, và cô
ấy cũng không nhìn vào bạn
khi bạn nói. Có đôi
lần khi mắt
cô ấy bắt gặp cái
nhìn của bạn, lập
tức cô ấy
hướng mắt về một phía nào đó khi gặp ánh mắt của bạn. Từ nền tảng văn hóa, bạn có thể giải thích rằng, cô không cảm thấy rất
chủ động về bạn hoặc
sự tương tác của bạn. Thậm
chí bạn còn có thể bắt đầu cảm thấy muốn
dừng lại hoặc không muốn cố giao tiếp nữa. Bạn không cảm thấy tin tưởng hoặc gần gũi với cô ấy. Nhưng nền
văn hóa của cô ấy
lại không chấp nhận lối nhìn trực diện hoặc thậm chí coi đó là một dấu hiệu của sự kiêu căng hay khinh
thường. Cô ấy có thể thực sự
tránh tiếp xúc bằng mắt không phải vì bất kỳ cảm xúc tiêu cực nào, mà chỉ vì lòng tôn kính và
lịch sự với bạn
mà thôi. Tất nhiên, những khác
biệt về hành vi này đều có những ý nghĩa hiện thực và thực tế trong cuộc sống hàng ngày; hãy
suy nghĩ về kịch bản này
xảy ra trong một cuộc phỏng vấn tìm việc làm, trong tình
huống dạy-học tại một trường tiểu
học, tại một cuộc đàm phán kinh doanh, hoặc thậm chí trong khi
gặp gỡ bác sĩ chuyên khoa để
khám bệnh.
Nếu xem xét hành
vi này từ một cực etic-emic, chắc chắn chúng ta sẽ đi đến kết luận rằng hành vi nhìn
trực diện phải là một emic về
phương diện văn hóa; có nghĩa là, các nền văn hóa có
các quy tắc khác nhau liên
quan đến sự phù hợp của cách nhìn chằm chằm vào người khác khi tương tác với họ.
Nhưng, chúng ta hãy tự hỏi mình một câu hỏi: Liệu có bất kỳ khía cạnh nào
về hành vi này có thể được mô tả là etic
không? Câu trả lời cho câu hỏi
này có thể nằm trong những nguyên nhân hay nguồn gốc của sự khác biệt văn hóa trong cách
nhìn khi giao tiếp. Trong ví dụ mô
tả ở đây, đối tác của bạn muốn thể hiện sự tôn kính hoặc lịch sự đối
với bạn. Vì vậy, cô ấy
thể hiện hành vi nhìn
theo đúng chuẩn mực mà nền văn hóa của cô ấy cho là phù hợp với những gì tỏ ra kính trọng và lịch sự. Nếu bạn là một
người Mỹ, thì
nền văn hóa của bạn lại
ấn định một mô thức ánh mắt nhìn khác, thậm chí với cùng mong muốn bày tỏ sự kính trọng và lịch sự. Nền văn hóa của bạn ấn định rằng bạn phải nhìn trực diện vào đối tác của bạn khi
nói chuyện và thể hiện sự
quan tâm và tôn trọng bằng cách nhìn trực diện vào họ khi họ nói. Tuy
nhiên đó chỉ là
biểu hiện hành vi bên
ngoài khác nhau giữa các đại diện của hai nền văn hóa; lý do cơ bản là giống hệt
nhau. Vì vậy, trong khi các hành vi bên ngoài mà chúng ta có thể quan sát một cách chính
xác có thể được gọi là emic, thì
các thuộc tính bên trong làm cơ sở cho các hành vi đó lại có thể thực sự là etic.
Bằng cách này mà etics và emics có thể cùng tồn tại trong mối quan
hệ với các hành vi của chúng ta. Hiểu biết của chúng ta về các nền văn hóa và các
ảnh hưởng văn hóa đối
với hành vi sẽ được cải thiện
đáng kể nếu chúng ta tránh các khuynh hướng phân chia các hành vi này thành thể
loại này hoặc thể loại
khác,
thay vào đó, hãy
tìm kiếm các cách thức mà
bất kỳ hành vi nào cũng thực sự đại diện cho cả hai loại
tình trạng căng thẳng.
[Matsumoto 1996: 21-2]
____________________________________________________________
Nguồn:
Spencer-Oatey, H. 2012. What is culture? A compilation of quotations. GlobalPAD Core
Concepts.
Tác
giả: Helen Spencer-Oatey, giáo sư đại học University of Warwick, Vương quốc Anh, giám đốc Trung tâm Ngôn ngữ học
ứng dụng, đại học University of Warwick. Được đào tạo như
một nhà tâm lý học và một nhà ngôn ngữ học, sau một thời gian ngắn làm việc tại
doanh nghiệp, Helen
ra nước ngoài để dạy tiếng Anh. Công việc giảng dạy đầu tiên của bà là ở Hồng Kông,
và đó là nơi lần đầu tiên Helen gặp phải một số vấn
đề ngôn ngữ có thể được sử dụng trong các nền văn hóa khác nhau. Càng ngày Helen càng quan tâm đến lĩnh vực này, và
một vài năm sau đó, bà
đến làm việc tại Đại học Giao thông Thượng Hải và dạy một khóa học về ngôn ngữ
và văn hóa. Helen bắt đầu thu thập các kinh nghiệm ở Trung Quốc và đã viết cuốn sách đầu tiên
về phong tục tập
quán và ngôn ngữ tương tác xã hội. Khi trở về Anh vào năm
1988, Helen làm nghiên
cứu sinh tiến sỹ tại Đại học Lancaster về quan niệm của người Trung Quốc và người Anh trong mối
quan hệ giữa giáo viên
hướng dẫn và thực tập sinh sau đại học. Sau đó bà trở thành giảng viên của Đại học
Bedfordshire. Helen
bắt đầu một dự án hợp tác nghiên cứu với Trường Đại học Kinh tế Quốc tế tại
Bắc Kinh về các mối quan hệ kinh doanh Trung Quốc-Anh, và điều này đã làm nảy sinh một số vấn đề giao tiếp hấp dẫn, kích thích sự
quan tâm của bà về lĩnh vực này hơn nữa. Năm 2002, Helen đã được bổ nhiệm (thay mặt cho
Vương quốc Anh) quản
lý Chương trình eChina-UK
Programme, và bắt
đầu đặt trụ sở tại Đại học Cambridge. Bà làm việc cho Đại học Warwick
từ năm 2007, và
trở thành giám đốc của Trung tâm Ngôn ngữ Ứng dụng của Đại học Warwick.
Helen đã được công bố nhiều công trình về lĩnh vực truyền
thông liên văn hóa. Các
cuốn sách liên quan bao gồm Tương tác liên văn hoá: Một cách tiếp cận đa ngành (đồng tác giả
với Peter Franklin, Palgrave, 2009), Diễn ngôn Văn hoá: Văn hóa, Truyền
thông và Lịch sự (Continuum, 2000 và 2008), Sổ tay Giao tiếp Liên văn hóa (đồng biên tập với Helga
Kotthoff, Mouton de Gruyter, 2007), và Các sáng kiến học
tập bằng điện ở Trung Quốc:
Sư phạm, chính sách và Văn hóa (Hồng Kông University
Press, 2007). Bà
còn công bố hang loạt bài
viết trong các tạp chí, bao gồm cả Tạp chí Pragmatics, Tạp chí
Intercultural Studies, Multilingua, tạp chí Truyền thông Châu Á Thái Bình Dương và Tạp chí Tâm lý học Liên
văn hóa. Mới đây, bà
đã tham gia nghiên cứu giảng dạy các kỹ năng liên văn hóa trong các trường
học ở một loạt quốc
gia châu Âu.
References
Adler, N. (1997) International
Dimensions of Organizational Behavior. 3rd ed. Ohio: South-Western College
Publishing.
Apte, M. (1994) Language in
sociocultural context. In: R. E. Asher (Ed.), The Encyclopedia of Language and
Linguistics. Vol.4 (pp. 2000-2010). Oxford: Pergamon Press.
Avruch, K. (1998) Culture and Conflict
Resolution. Washington DC: United States Institute of Peace Press.
Ferraro, G. (1998) The Cultural
Dimension of International Business. 3rd Edition. New Jersey: Prentice Hall.
Hofstede, G. (1991/1994) Cultures and
Organizations: Software of the Mind. London: HarperCollinsBusiness.
Hofstede, G. (2001) Culture's
Consequences. Comparing Values, Behaviors, Institutions, and Organizations across
Nations. 2nd ed. London: Sage.
Lustig, M. W., & Koester, J.
(1999) Intercultural Competence. Interpersonal Communication across Cultures. 3rd
ed. New York: Longman.
Matsumoto, D. (1996) Culture and
Psychology. Pacific Grove, CA: Brooks/Cole.
Saville-Troike, M. (1997) The
ethnographic analysis of communicative events. In: N. Coupland and A. Jaworski
(eds) Sociolinguistics. A Reader and Coursebook. pp.126–144. Basingstoke:
Macmillan.
Smith, P. B., & Bond, M. H. (1998)
Social Psychology across Cultures. London: Prentice Hall Europe.
Schein, E. (1984) Coming to a new
awareness of organizational culture. Sloan Management Review 25(2): 3–16.
Schein, E. (1990) Organizational
culture. American Psychologist 45(2): 109–119.
Spencer-Oatey, H. (2008) Culturally
Speaking. Culture, Communication and Politeness Theory. 2nd edition.
London: Continuum.
Triandis, H. C. (1994) Culture and
Social Behavior. New York: McGraw Hill.
Trompenaars, F., & Hampden-Turner,
C. (1997) Riding the Waves of Culture. Understanding Cultural Diversity in
Business. 2nd ed. London: Nicholas Brealey.
Žegarac, V. (2007). A cognitive
pragmatic perspective on communication and culture. In H. Kotthoff & H.
Spencer-Oatey (Eds.), Handbook of Intercultural Communication. Berlin: Walter
de Gruyter, 31–53.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét