Phương pháp
Địa lý-Lịch sử và Cấu
trúc luận trong Nghiên cứu
Văn hóa Dân gian: Thách đố Thư dây chuyền
Elo-Hanna Seljamaa
Người
dịch: Hà Hữu Nga
Bài viết này kết nối loại
hình thư dây chuyền và lịch sử của nghiên cứu văn hóa dân gian - một sự kết hợp có cái gì đó bất thường,
tuy nhiên dường như lại đem đến một số vấn đề rất đáng thảo luận. Hầu
hết độc giả có lẽ đều
đã từng trải qua trò chơi thư dây chuyền từ thời thơ ấu, hoặc trong những năm
gần đây, bằng việc sử dụng e-mail. Mặc dù vậy, việc xem xét loại hình thư dây chuyền, về
nhiều phương diện, có lẽ vẫn rất hữu ích. Một thư dây chuyền bảo cho người nhận bản
sao thư đó phải nhân lên một số lượng nhất định để
chuyển tiếp các bản sao đó
cho cùng một số lượng
người nhận tiếp theo; sự tiếp tục của chuỗi thư
dây chuyền theo cách đó, như đã được ấn định bởi bức thư, yêu cầu phải có được một kết
quả tích cực, ngược
lại, việc làm đứt dây
chuyền bị buộc cho
là gây ra rắc rối. Để thuyết phục người đọc, thư dây chuyền thường bao gồm những câu chuyện được cho là đúng vận may khiến cho người ta ngoan ngoãn tuân thủ việc tiếp nối dây chuyền, cũng như việc
viện dẫn những bất hạnh khiến
cho những người không tuân thủ
các chỉ dẫn của bức
thư phải lo lắng. Ngoài ra, một số thư
dây chuyền có thể kết thúc với một danh sách người gửi trước đó của nó mà người ta kỳ vọng là người nhận mới sẽ bổ sung với cái
tên và nơi cư trú của mình.
Bằng một sự trùng hợp thú vị mặc dù có lẽ ngẫu nhiên, thư dây chuyền đã thu hút sự chú ý của hai nhà nghiên cứu
văn hóa dân gian quan trọng của thế kỷ 20 - Walter Anderson (1885- 1962)
và Alan Dundes (1932-2005). Trong khi Anderson là một thành viên tận tâm và
trung thành của phương pháp lịch sử-địa lý, "luật sư bảo vệ cuối
cùng" của nó (Kuusi 1980: 25), thì mặt khác, Dundes, từ những năm
1960 trở đi đã lập chương
trình giới thiệu cấu trúc luận và phân tâm học vào nghiên cứu văn hóa dân gian.
Anderson đã bắt đầu quan tâm đến loại
hình thư dây chuyền trong những năm 1930 với tư cách là một giáo sư về văn hóa dân gian và văn hóa dân gian so sánh tại Đại học Tartu, Estonia. Năm 1937, ông đã trình bày một bài viết về thư dây chuyền tại Đại hội lần
thứ 3 của Hiệp hội Quốc tế về Dân tộc học và Văn hóa Dân gian châu Âu được tổ
chức tại Edinburgh (Tuneld 1978: 68) và trong cùng năm đó, ông đã công bố một bài viết giới thiệu các loại hình thư dây chuyền mà ông đã tìm thấy
ở Estonia ( Anderson 1937). Alan Dundes lần đầu tiên bàn về thư dây chuyền vào năm 1966 trong một bài viết có tựa đề "Thư
dây chuyền: Một cấp
số nhân Dân gian" và sau đó ông đã quay trở lại với vấn đề liên quan đến văn hóa dân gian văn
phòng và sao chép (Dundes, Pagter 1975; Dundes 1983).
Cách
xử lý lịch sử-địa lý của Anderson và cấu trúc luận của Dundes về thư
dây chuyền đã tạo thành một cặp thú vị cho phép theo dõi và thảo luận
về những thay đổi phương pháp luận trong nghiên cứu văn hóa dân gian
từ những năm 1930 đến những
năm 1970. Dựa vào Thomas Kuhn (1970), phương pháp lịch sử-địa lý và cấu
trúc luận có thể được coi là các
hệ mẫu [paradigm] nghiên cứu liên tục thể hiện một cách
"nhìn" cụ thể vào
văn hóa dân gian và công
việc nghiên cứu lĩnh
vực này. Kuhn khởi xướng khái niệm hệ
mẫu trong cuốn sách Cấu trúc các cuộc cách mạng khoa học của ông năm
1962, trong đó ông lập luận chống lại định nghĩa thực chứng về khoa học có cội rễ sâu xa với tư cách là một quá trình tích lũy các
sự kiện, lý thuyết, phương pháp và tiến tới
một chân lý khách quan và xác định. Dựa vào các ví dụ chủ
yếu rút ra từ lịch sử vật lý
học, để thay thế, Kuhn đã khái niệm hóa
khoa học bằng khuôn khổ cấu trúc hồi quy của mô thức phát triển của nó: các
quá trình chuyển tiếp liên tục từ một hệ mẫu này đến một hệ mẫu khác thông qua khủng hoảng và cách mạng khoa học. Các cuộc cách mạng
khoa học với tư cách là
các gián đoạn và thay đổi triệt
để về các cách thức
nghiên cứu luôn
giới thiệu các lý thuyết, khái niệm, và các câu hỏi mới, trong khi đó lại đồng thời đặt các lý
thuyết, khái niệm, và các câu hỏi cũ vào một bối cảnh mới. Bằng các thuật ngữ của Kuhn, các
kết quả này trong tính
vô ước của các
hệ mẫu kế tiếp nhau, trong sự
truyền đạt sai lệch giữa các
môn đệ của các
hệ mẫu khác nhau, và ở chính tình thế cách mạng - các học giả làm việc bang các hệ mẫu khác nhau
"nhận thấy những sự
vật khác nhau khi họ có
cùng một điểm nhìn,
theo cùng một hướng" (ibid .: 150), vì họ nhìn những sự vật ấy "bằng các mối quan hệ khác nhau" (ibid).
Cấu trúc luận
theo cách truyền bá của Dundes lại có nghĩa là một cách nhìn
nhận và nghiên cứu khác nhau về văn hóa dân gian, như
một phản ứng quyết
định đối với các phương pháp trước đó và đặc biệt là phương pháp lịch sử-địa lý. Sau đây,
tôi sẽ phân tích cách
xử lý lịch sử-địa lý
của Anderson và cấu trúc luận của Dundes về loại hình thư
dây chuyền để so sánh quan niệm của họ về văn hóa dân gian và nghiên
cứu văn hóa dân gian. Mặc dù Kuhn nhằm vào việc phê phán sự cách nhận thức thực chứng về sự phát triển của
khoa học, nhưng tôi lại cho rằng khái niệm hệ
mẫu của ông vẫn tiếp tục hữu ích để suy tư
về những phương pháp nghiên cứu văn hóa dân gian đã được mô hình hóa theo những lý tưởng
khoa học về tính khách quan, tính
có thể kiểm chứng, và tính có thể nghiên cứu đến thấu triệt được. Ngoài ra, điều
mà các hệ mẫu với tư cách là "các cách nhìn nhận thế giới" có
thể được tách ra khỏi các giai đoạn đặc biệt trong lịch sử nghiên cứu và được sử dụng để thảo
luận về các tiền đề cơ sở được chia sẻ bằng các cách
tiếp cận khác nhau, mà trong trường hợp này là phương pháp lịch
sử-địa lý và cấu trúc luận. Việc đánh giá lại đối
với trường hợp cấu trúc luận mới được Perti Antonen - người kêu gọi coi
các hệ mẫu không phải là "các xu hướng nghiên
cứu hoặc phát triển của họ, mà
là các tiền đề cơ bản trong quá trình lý thuyết hóa và trong phương
pháp luận - đề xuất
gần đây" (Antonen 2007: 17-18).
Lịch sử và địa lý học của thư dây
chuyền
Nghiên
cứu Văn hóa Dân gian như một khoa học gốc
Phương pháp lịch sử-địa lý được phát triển bởi các nhà nghiên cứu Bắc Âu vào những thập niên 1870-80 của thế kỷ 19, với vai trò hàng đầu của
hai cha con học giả Phần Lan, Julius và đặc biệt là Kaarle Krohn. Vì
vậy phương pháp này còn được gọi là phương pháp Phần Lan cũng có thể gọi cách khác, phương
pháp địa lý - lịch sử hoặc, nói bằng
một khuôn khổ khái quát hơn, là phương pháp so
sánh. Trong những thập kỷ đầu của thế kỷ 20 nó đã được hưởng thụ một thành công
gần như chưa từng có, như Bengt Holbek đã xác định (Holbek 1992:
4), có thể giải thích được, trong số những sự vật khác, bằng cách
nhất quán nội tại
của mình và một sự kết hợp hiệu quả của cả những ý tưởng và các lĩnh vực đã thành hay còn mới mẻ. Theo Mati Kuusi
(1980: 25), phương pháp tổng hợp các tiền đề và các thực hành phê phán văn bản ngữ văn và ngôn
ngữ học so sánh với các
xung lượng rút ra từ lý thuyết tiến hóa và với những quan sát về sự phân bố địa lý
của văn hóa dân gian. Do các thành phần này, phương pháp lịch sử-địa lý đã
thành công trong việc thực hiện các tiêu chí thực chứng phổ biến trong khoa học
hiện đại (Hautala 1954: 174), trong khi đồng thời còn cung cấp sự trợ
giúp cho việc thiết lập các
nền văn hóa quốc gia
riêng biệt, một dự án mà quá nhiều khu vực ở châu Âu đã cùng tham gia.
Như đã được
chỉ định bằng tên
gọi của nó, phương pháp lịch sử- địa lý tiếp cận văn hóa dân gian từ quan điểm lịch
sử và phân bố địa lý
của nó, tức là nguồn gốc không gian và thời gian của văn hóa
dân gian. Phù hợp với quan điểm lịch sử của thế kỷ thứ 19, trọng tâm của phương
pháp lịch sử-địa lý là trong quá khứ. Văn hóa dân gian đã được gắn liền với
truyền thống, với một nền văn hóa truyền khẩu được coi là tĩnh tại và đang biến mất, và do
đó tương phản với nền văn minh và văn học, với nền văn hóa đô thị hiện đại.
Việc sáng tạo ra văn hóa dân gian đã được giải thích bởi duy nhất một căn nguyên và sự phân bố của nó bằng phương pháp
truyền bá. Điều đó có nghĩa là mỗi câu chuyện thần
kỳ hay bài hát dân gian đã được tuyên bố là
được tạo ra tại một thời điểm nhất định và ở một địa điểm nhất định với tư cách là một tổng thể nghệ thuật độc đáo mà trong diễn trình thời gian đã lan
rộng ra bằng phương tiện vay
mượn, bằng cách là tại mỗi điểm khớp
nối địa lý liên tiếp đều có một biến thể mới của hình
thái nguyên gốc được tạo ra trên cơ sở của các biến thể trước đây. Vì vậy
tất cả các biến thể của cùng
một bài hát gốc hay câu chuyện thần
kỳ đều được xem là có liên quan và đại diện cho cùng một loại đã được thể hiện
trong nội dung phổ biến của chúng (xem ví dụ Aarne 1913; Krohn 1926; Kuusi 1980; Holbek 1992; Antonen 1997;
Virtanen 1997).
Xuất
phát từ các tiền đề này, nhiệm vụ và mục tiêu của nghiên cứu văn hóa dân gian là theo dõi nguồn
gốc của mỗi hạng mục văn hóa dân gian nhất
định - bằng cách so sánh chi tiết các biến thể để lập bản đồ quỹ đạo của nó, xác định thời
gian và địa điểm tạo ra cũng như hình thái ban đầu gần đúng hoặc nguyên mẫu, Urform, của nó. Chất lượng của
các kết luận được
rút ra, tính
chính xác, khách quan và khả năng kiểm nghiệm của chúng, đều liên quan tương ứng đến số lượng dữ
liệu thực nghiệm, đến lượng văn bản văn học dân gian được nhà nghiên cứu sử dụng. Theo những lý tưởng thực chứng của thời đại, "tính khoa học" phụ thuộc
vào tính khách quan và tính
không ổn định trong kiểm soát, bằng việc phân tích tiến
hành chặt chẽ từ việc xem xét các dữ liệu thực nghiệm. Bằng cách thực hiện các
tiêu chí này, phương pháp lịch sử-địa lý cung cấp một khuôn khổ để xử lý với văn hóa dân gian
và với các vấn đề chuyên đề về nguồn gốc và tính độc đáo của các văn hóa trong khuôn khổ khoa học thuần
túy. Niềm tin của những những người theo phương pháp về
tính đúng đắn của nó được thể hiện một cách sinh động trong tuyên bố táo bạo sau
của Walter Anderson vào năm 1923: "Ở những nơi mà ảnh hưởng của “trường phái” phương pháp Phần
Lan chưa được thâm nhập, thì
việc nghiên cứu về văn hóa dân gian vẫn quay theo vòng tròn luẩn quẩn và không sản sinh được bất cứ điều gì
ngoài các giả thuyết nông nổi và kỳ quái" (Anderson
1923b: 197).
Cách tiếp cận của Anderson đối với thư dây chuyền Estonia là theo đúng với các tiền đề và quy định bắt buộc của phương pháp
lịch sử-địa lý. Tuy nhiên, ông áp dụng phương pháp này với một sự hiển nhiên im
lặng cứ như thể là không cần thiết phải
giới thiệu về các nguyên tắc của nó. Với những động cơ ẩn dấu, bài viết đã để lại sự tiềm ẩn, độc giả
"tự nhiên" khám
phá ra bản thân mình trong số các loại hình, các biến thể, và các
khái niệm quan trọng khác của phương pháp lịch sử-địa lý. Việc phân tích dựa trên
các văn bản thư dây chuyền được chính Anderson thu thập và các
văn bản được tìm thấy trong các bộ sưu tập của các hồ sơ lưu trữ Văn hóa Dân gian Estonia, nhưng ông còn
dựa trên nguồn tư liệu đã được công bố bằng cả báo chí và các
ấn phẩm văn hóa dân gian Estonia và quốc tế. Phấn đấu để
có được một bộ sưu tập dữ liệu được khai thác triệt để, Anderson đã đưa vào đó cả các văn bản bằng tiếng Estonia và
tiếng Đức cũng như bằng
cả tiếng Anh, tiếng Nga và tiếng Pháp. Trong khi dữ liệu đa ngôn ngữ này thể hiện rất rõ sự tinh thông các ngôn
ngữ khác nhau của Anderson, nó còn là một ví dụ rất ấn tượng về tầm quốc tế của
phương pháp lịch sử-địa lý: các
ranh giới không gian phân tích đã được xác định bởi chính các nguồn dữ liệu thực
nghiệm.
Anderson có
thừa độc giả của mình từ giai đoạn phân loại loại hình học nguồn tư liệu của mình, và đi thẳng
vào "các loại
hình thư dây chuyền đã được biết đến tại Estonia cho đến nay"
(Anderson 1937: 23). Cách trình bày đó làm cho các loại hình thư dây chuyền có vẻ là những hiện tượng tự nhiên, là
những thực thể tự độc
lập, một điều kiện tiên quyết tiềm
ẩn để phát hiện mục tiêu của chúng. Nếu có thể, Anderson cố gắng chọn ra những bản khởi thảo, tức là những độ lệch khỏi hình thức ban
đầu mà trong một lãnh thổ hoặc khoảng thời gian nhất định đã phát triển thành những tiêu chuẩn mới. Xem xét từng loại hình một, Anderson so sánh các biến
thể với nhau, các dấu vết quan hệ di truyền của chúng và xây dựng bản đồ truyền bá để đưa ra kết
luận và gợi ý về thời gian và địa điểm của sự sáng tạo và hình thức ban đầu ước
tính của các thư đó. Vì mỗi bức thư tạo thành một sự
vật cụ thể, thậm chí hữu hình, nên
dường như có thể thu thập và phân tích chúng với "sự can
thiệp của con người" một
cách tối thiểu, chí
ít là khi so sánh với các văn bản văn hóa dân gian được viết ra từ loại hình truyền miệng. Hơn
nữa, vì độ chính xác trong việc sao chép các lá thư dây chuyền ấy là một trong
những điều kiện tiên quyết của sức mạnh ma thuật của loại hình thư này, nên các bức thư, từ trong bản chất của chúng,
đều đóng góp cho công việc học
thuật nhằm tái dựng hình thức nguyên gốc của chúng. Tương tự như
vậy, danh sách người gửi trước đó đôi khi được thêm vào ở cuối thư dường như đã đưa lại bằng chứng thành văn của các tuyến
lịch sử và địa lý của mối
bức thư. Mặc dù Anderson nghi ngờ về sự tham gia của Bernard Shaw,
Walter Scot và Henry Ford vào
loại hình thư dây chuyền này (1937: 16), tuy nhiên, ông vẫn dựa trên
tên tuổi của các nhân vật và những vị trí địa lý được dẫn ra trong các danh mục này.
Nhìn từ viễn
cảnh này, loại hình thư dây
chuyền ở đây dường như phù hợp hoàn toàn về các tiền đề và các thực tiễn của
phương pháp lịch sử-địa lý, và theo
các đặc trưng của chúng để khiến cho các thực hành ấy
chính là sự biện minh mang tính thực nghiệm. Mặc
dù các thảo luận và kết luận của Anderson đã được cẩn thận đúc rút từ các dữ liệu
thực nghiệm tùy ý sử dụng của mình, nhưng
đôi khi ông vẫn
chuyển sang một mức độ trừu tượng vượt ra ngoài các đặc trưng về thời gian, ngôn
ngữ và địa điểm. Vượt qua ngôn ngữ và các biên giới quốc gia, thư dây chuyền, đối với Anderson đã
đại diện cho một hiện tượng thực sự mang tính quốc tế: các loại
hình thư dây
chuyền được tìm thấy ở Estonia thuộc về nguồn vốn chung của loại hình thư
dây chuyền quốc tế, do đó thể hiện các quan hệ quốc tế của người Estonia, sự tham
gia của họ vào việc trao đổi văn hóa dân gian quốc tế.
Tính
liên tục về thể loại
Anderson xử lý thư dây chuyền như là một lớp con hoặc một hiện tượng sót của Himmelsbriefe. Himmelsbrief hoặc "thư từ thiên đường" - đó là một loại thư được cho cho là do Thiên Chúa hay Chúa Giêsu viết ra và vì vậy mà có đủ quyền năng che chở cho chủ nhân của nó tránh được lửa, đạn, bệnh tật, cái chết, và các bất hạnh khác (Stube 1931 / 1932b). Mặc dù Himmelsbriefe đã được đề niên đại sớm đến thế kỷ thứ 6, ở vùng Baltic chẳng hạn, sự phổ biến của loại hình thư này đạt đến đỉnh cao vào thế kỷ 19, đặc biệt liên quan đến Giáo hội Moravian (Poldmäe 1938: 530). Bao gồm cả việc khai trí và những điều răn Kitô giáo, Himmelsbriefe thường nhấn mạnh đến bổn phận tuân thủ ngày nghỉ lễ Sa-bát; cam kết cứu rỗi vì lòng mộ đạo và rang đe những kẻ sống trong tội lỗi. Theo định nghĩa của Anderson, thư dây chuyền khác với "Himmelsbriefe thông thường trước hết là ở tính súc tích và thứ hai là ở mức độ hấp dẫn trong việc phát tán thư và việc viết lại đã được biến đổi thành một chỉ dẫn nghiêm ngặt trong việc sao chép các bức thư đến chín lần (ba lần, bốn lần) trong một khoảng thời gian ngắn và phải gửi nó đến cùng một số người quen biết; nếu người nhận thư làm như vậy, thì vận may sẽ đến với họ, nếu không - bất hạnh sẽ theo về" (Anderson 1937: 1).
Cách mô
tả của Anderson về
các thư dây chuyền thông qua những bức thư từ thiên đường đã chỉ ra rằng vào thời điểm ông viết bài nghiên cứu của mình, trong
những năm 1930, các học giả nghiên
cứu văn học dân gian có thể được cho là quen thuộc với thể loại Himmelsbriefe đến nỗi không cần phải giải thích thêm: Himmelsbriefe là một tiêu chuẩn và
các bức thư dây
chuyền là một ngoại lệ mới đối với nó. Phương pháp xác định thư dây chuyền của Anderson có thể được cho là phù hợp và có thể lý giải bởi quan điểm
lịch sử của cách tiếp cận lịch sử-địa lý: trong khi phương pháp đó hướng đến xây dựng lại
lịch sử văn bản và phát hiện nguồn gốc của văn hóa dân gian, thì Anderson lại khái niệm hóa loại hình thư dây
chuyền như là
hậu duệ trực tiếp của Himmelsbriefe,
do đó đề cập đến nguồn gốc của chúng. Việc mô tả một thể loại có
nghĩa là định vị nó trong lĩnh vực các
thể loại đã tồn tại thông
qua việc cuộc thảo luận về sự phát triển lịch sử nội thể loại. Từ thể loại này, một thể loại khác có thể được khơi nguồn
và nó sẽ được xác định thông qua các đặc tính phân biệt nó
với hiện tượng nguyên
gốc. Tuy nhiên Anderson đã không truy tìm nguyên do dẫn đến sự phát triển của thư dây chuyền, và ông cũng
không quan tâm đến những
biến đổi mà thư dây chuyền
có thể gây ra trong truyền thống Himmelsbrief. Đối với ông, cái có vẻ có tầm quan trọng quyết
định chính là thực tế của tự thân tính liên tục, mức độ liên quan của thể loại thư dây chuyền với thể loại
thư thiên đường. Đó là, nếu như các thể loại và các phụ loại hình thành
một hệ thống trật tự niên đại của các mối quan hệ di truyền, thì một loại cây phả hệ của những thể
loại phát triển một cách độc lập của các thực hành thực tế của các vật mang truyền thống.
Động cơ ẩn sau mối quan tâm đến loại hình thư dây
chuyền
Anderson hy vọng độc giả của mình phải quen thuộc với "bản chất và tính cách" (Anderson 1937: 1) của Himmelsbriefe. Tuy nhiên, còn đáng ngờ hơn nữa là mối liên quan giữa Himmelsbriefe và thư dây chuyền có ý nghĩa quan trọng hơn hết đối với người gửi và người nhận của chính những bức thư mà ông phân tích. Động lực cho việc phát tán thư dây chuyền vẫn nằm ngoài phạm vi quan tâm của Anderson và dường như ông đã tránh việc phán xét những người tham gia vào quá trình chuyển tiếp thư dây chuyền. Tuy nhiên người ta vẫn có thể tìm thấy một ghi chú đáng chú ý trong bài viết của ông, trong đó ông khẳng định tên tuổi của những nhân vật nổi tiếng trong danh sách người gửi thư dây chuyền có thể được thêm vào mà không cần kiến thức của họ. Theo Anderson, vì vậy mà các nhân vật nổi tiếng này "là hiện thân cực kỳ ngây thơ của những người tham gia vào chuỗi thư dây chuyền đó. Tuy nhiên những người nhận “lừng danh” khác cũng có thể thực sự chơi cùng, mặc dù không hề mê tín, mà chỉ để cho vui! "(Ibid .: 6). Nhận xét của Anderson phản ánh một thái độ kẻ cả đối với việc phát tán thư dây chuyền. Về cơ bản ông loại trừ khả năng là các chính trị gia, nhà văn, diễn viên nổi tiếng và những người nổi tiếng khác - thành viên của tầng lớp công chúng tinh hoa - có thể tha thiết truyền đi các bức thư dây chuyền đó hoặc hành động một cách thực sự mê tín. Liên quan đến một ghi chú, các phán đoán này hầu như không mang bất kỳ ý nghĩa phân tích nào, mà chỉ phản ánh một cách sinh động mối quan hệ được chấp nhận giữa các tầng lớp, học vấn và tính duy lý.
Phác
thảo cùng bài viết của mình, Anderson đề cập đến khả năng các loại hình thư dây chuyền khác lưu hành ở Estonia và yêu cầu độc giả của mình gửi các tư liệu bổ sung cho Cục lưu trữ Văn hóa Dân gian Estonia. Những kêu gọi hỗ trợ tương tự có thể được tìm thấy trong những nhận xét kết luận của các nghiên
cứu khác của Anderson (ví dụ như Anderson 1925-1926), nhấn mạnh tính chất luôn luôn có thể điều chỉnh
của chân lý khoa học và vì sự tiến bộ không ngững của công cuộc nghiên cứu (ví
dụ như Anderson 1935: 10-11; Kuusi 1980 : 66). Vì các dữ liệu kinh nghiệm mới
có thể chứng minh các
kết luận trước đó là
sai, nên kết quả của chính
các nghiên cứu chi tiết nhất cũng
vẫn cần phải duy trì ở
tình trạng có thể điều chỉnh. Lý tưởng của việc ngày càng đi sâu
hơn vào các câu hỏi luôn hẹp hơn là theo quan điểm điển hình của Kuhn về khoa học chuẩn thường, cho phép
tăng mức độ chính xác của nó và làm
cho các dữ liệu thực nghiệm phù
hợp hơn với các
tiền đề lý thuyết. Những thách đố dựa trên hệ mẫu [paradigm] đều hướng tới củng cố vị trí của chính hệ mẫu đó, trong khi đó đồng thời kiểm nghiệm các ranh giới và khả năng của nó. Trong phạm vi và
thực chất khác nhau, những thách đố này đặt ra các mục đích khác nhau: mục
đích của Kaiser und Abt -
Hoàng đế và Cha xứ của Anderson, chẳng hạn, cũng như các
chuyên khảo khác của ông xử lý những
mảng văn bản khổng lồ, có thể được cho là để bất tử hóa phương pháp lịch sử-địa
lý và cung cấp cho bằng chứng cơ bản độ tin cậy của nó, trong khi các bài viết ngắn về
các chủ đề khác nhau, mặt khác, lại góp phần vào việc mở rộng
lãnh thổ của chính
cái hệ mẫu [paradigm] đó và do đó cũng chính là ngành học này. Bài viết về thư dây chuyền ấy có thể được
chính xác xem như một nỗ lực quy mô nhỏ, nhằm mở rộng phạm vi của cả hai phương pháp lịch
sử-địa lý và ngành nghiên cứu
văn hóa dân gian.
Các
ranh giới cứng và mềm của văn hóa dân
gian
Như đã đề cập ở trên, một trong những cấu phần của phương pháp lịch sử-địa lý là ý tưởng tiến hóa-văn hóa của tất cả các nền văn hóa đều đi tới trải nghiệm cùng một quá trình phổ quát. Tính truyền khẩu và mức độ biết chữ được coi là hai giai đoạn phát triển khác nhau và loại trừ lẫn nhau; truyền thống, cùng với văn hóa dân gian, đã được gắn liền với văn hóa truyền khẩu, và đi đến biến mất với sự tiến bộ của nền văn minh (ví dụ như Antonen 2005: 48-51). Cùng với những ý tưởng này, Anderson khẳng định, chẳng hạn, các tuyến truyền bá văn hóa dân gian trùng với "các tuyến đường chung của văn hóa" (Anderson 1923a: 408), có nghĩa là các tuyến thuộc địa: văn học dân gian, giống như toàn bộ nền văn hóa, chỉ có thể lan truyền từ các nền văn hóa phát triển cao đến các văn hóa vẫn còn ở mức độ phát triển thấp hơn, từ những người thực dân đến những kẻ thuộc địa (ibid .: 408-410).
Đồng thời Anderson tự coi mình là một trong số
ít các thành viên của cộng đồng lịch sử-địa lý nhấn mạnh tính tương đối của các
ranh giới giữa viết
và truyền khẩu. Khi thu hút sự
quan tâm đến thực tế là những câu chuyện văn chương tác động ảnh hưởng đến những câu chuyện truyền khẩu, và ngược lại, Anderson đã yêu cầu mỗi trường hợp phải được xử lý riêng
và theo đúng với nguồn dữ liệu thực nghiệm (Anderson 1923a: 4, 11; 1930/1933; 1935: 45-46) . Ông
biết quan điểm của mình về
phương diện này là một một ngoại lệ, và thậm chí còn tự coi mình là nhà văn hóa dân gian đầu
tiên đã thu hút
sự chú ý đến ranh giới mềm
này (Anderson 1923a: 411). Đánh giá từ các tuyên bố này, người ta có thể kết
luận rằng đối với Anderson, tính truyền
khẩu và mức độ phát triển của văn bản viết thực sự tồn tại
bên cạnh nhau trong một mối quan hệ hằng xuyên, chứ không phải
là đánh dấu các giai đoạn
riêng biệt của sự tiến hóa văn hóa. Đến lượt mình, điều này cho phép
gợi ý thêm rằng Anderson đã không nhất thiết đánh đồng tính truyền khẩu với tình trạng mù chữ và trình độ phát triển văn hóa thấp hơn. Hơn nữa, mối quan tâm của ông đối với loại hình thư dây chuyền cũng như đối với tin đồn (Anderson 1925-1926) dường như chỉ ra rằng ông không coi truyền thống cũng như văn hóa dân gian là độc quyền liên
quan với quá khứ, với tất cả mọi thứ phải đi đến biến mất trong sự
tiến bộ của nền văn minh. Khi
xử lý các hiện tượng văn hóa dân gian được tìm thấy ở các thành
phố và trong giới biết chữ và có
giáo dục trong môi trường đô thị hiện đại, Anderson quy về sự hiện diện sống
động và sự thực hiện chức năng của văn hóa dân gian trong cuộc sống hiện đại hàng ngày (xem thêm
Seljamaa 2005, esp. 162-163). Trong khi sẽ được phóng đại để đọc ý định đề xuất một khái niệm văn
hóa dân gian rộng lớn hơn theo các quy chiếu này, nó vẫn cho thấy
cách tiếp cận sáng tạo của
Anderson đối với văn học dân gian, cũng như tính khả thi của việc nghiên cứu các hiện tượng
như vậy trong khuôn khổ của phương pháp lịch sử-địa lý.
__________________________________
Nguồn: Elo-Hanna Seljamaa 2008. Remarks on the Historic - Geographic Method and
Structuralism in Folklore Studies: the Puzzle of Chain Letters. Estonian Literary Museum, Estonian National Museum,
University of Tartu, Vol. 1(2): 83–98.
Tác
giả: Elo-Hanna
Seljamaa, Khoa Văn học Dân gian Estonia và So sánh Văn học Dân gian, Đại học
Tartu. Trọng tâm nghiên cứu hiện tại của cô là về chủ nghĩa
dân tộc và bản sắc dân tộc trong thời hậu Xô Viết Estonia. Luận án tiến
sĩ của cô tại Đại học bang Ohio tập
trung khảo
sát các mối tương tác giữa các tộc thuộc láng giềng và trang trí đô thị ở Tallinn, bằng cách tiếp cận kết hợp các
phương pháp dân tộc học và nghiên cứu văn học dân gian với khoa học chính trị
và xã hội học. Trong những năm gần đây, cô cũng đã nghiên cứu
những bản ballad giết trẻ sơ sinh thu thập được ở Estonia trong thế kỷ 19
và đầu thế kỷ 20 và các tác phẩm nghệ thuật,
cũng như các công trình của Kristjan Raud, một
trong những nghệ sĩ chuyên nghiệp đầu tiên của Estonia. Trong cả hai trường
hợp, cô đều quan tâm đến mối tương quan giữa việc nghiên cứu văn hóa dân gian và hệ tư tưởng dân tộc
chủ nghĩa.
Lĩnh vực quan trọng khác mà cô theo đuổi là lịch sử nghiên
cứu văn hóa dân gian, đặc biệt là phân tích phê phán phương pháp lịch sử-địa
lý và tác động của nó đến sự hình thành của ngành nghiên cứu văn hóa dân gian - Folkloristics với
tư cách là một bộ
môn nghiên cứu ở Estonia. Cô đã công bố nhiều bài viết về Walter
Anderson, một trong những nhà phương pháp lịch sử-địa lý ưu việt và giáo sư đầu
tiên về Văn hóa Dân
gian So sánh Estonia tại Đại học Tartu. Quan tâm của cô về lịch sử của ngành
học khởi đầu từ nghiên cứu lịch sử thể loại thư dây chuyền và tác động của
Internet và thông tin điện tử đối
với loại hình thư dây chuyền. Hoạt động gần đây: Vào mùa hè năm 2009, cô bắt đầu nghiên
cứu thực địa tại Tallinn,
cô còn là đồng biên tập viên của mạng thảo luận H-Folk quốc tế.
Trong khoảng thời
gian 2005-2009, cô là thư ký của Hiệp hội Quốc tế Nghiên cứu Văn hóa Dân gian Tự sự.
REFERENCES
Aarne,
Anti 1913. Leitfaden der vergleichenden Märchenforschung. FF
Communications 13. Hamina: Suomalaisen Tiedeakatemian kustantama.
Anderson,
Walter 1923a. Kaiser und Abt. Die Geschichte eines Schwanks. FF
Communications 42. Helsinki: Academia Scientiarium Fennica.
Anderson,
Walter 1923b. Prof. Kaarle Krohn ja tema uurimismeetod. – Eesti Kirjandus, 5–6,
193–197.
Anderson,
Walter 1925–1926. Die Marspanik in Estland 1921. – Zeitschrift des Vereins
für Volkskunde (Berlin) 35/36, 229–252.
Anderson,
Walter 1930/1933. Buchvariante. – Lutz Mackensen (Hrsg.). Handwörterbuch des
Deutschen Märchens. I Band. Berlin und Lepzig: Walter de Gruyter & Co,
347–349.
Anderson,
Walter 1935. Zu Albert Wesselski’s Angriffen auf die finnische folkloristische
Arbeitsmethode. – Acta et commentationes Universitatis Tartuensis
(Dorpatensis). B. Humaniora. XXXVIII: 3.
Anderson,
Walter 1937. Kettenbriefe in Estland. Eesti Rahvaluule Arhiivi toimetused 7.
Tartu: K. Mattieseni trükikoda.
Antonen,
Perti 1997. Philological Approach. – Thomas A. Green (ed.). Folklore. An
Encylopedia of Beliefs, Customs, Tales, Music, and Art. Volume II. Santa
Barbara, California; Denver, Colorado; Oxford, England: ABC-Clio, 641–647.
Antonen,
Perti 2005. Tradition through Modernity: Postmodernism and the Nation-State
in Folklore Scholarship. Studia Fennica Folkloristica 15. Helsinki: Finnish
Literature Society.
Antonen,
Perti 2007. Notes on Lauri Honko’s Discussion on Paradigms in the History of
Folklore Studies. – FF Network for the Folklore Fellows. No. 33,
December 2007, 12–13, 16–20.
Dégh,
Linda 2001. Legend and Belief. Dialectica of a Folklore Genre. Bloomington
and Indianapolis: Indiana University Press.
Dundes,
Alan 1964. The Morphology of North American Indian Folktales. FF
Communications 195. Helsinki: Academia Scientiarum Fennica.
Dundes,
Alan 1975a (1966) The American Concept of Folklore. – Analytic Essays in
Folklore. The Hague/Paris/New York: Mouton Publishers, 3–16.
Dundes,
Alan 1975b (1963). Toward a Structural Study of the Riddle. – Analytic
Essays in Folklore. The Hague/Paris/New York: Mouton Publishers, 95–102.
Dundes,
Alan 1975c (1970). On the Structure of the Proverb. – Analytic Essays in
Folklore. The Hague/Paris/New York: Mouton Publishers, 103–118
Dundes,
Alan 1975d (1964). On Game Morphology: A Study of the Structure of Non-Verbal
Folklore. – Analytic Essays in Folklore. The Hague/Paris/New York:
Mouton Publishers, 80–87.
Dundes,
Alan 1975e (1961). The Structure of Superstition. – Analytic Essays in
Folklore. The Hague/Paris/New York: Mouton Publishers, 88–94.
Dundes,
Alan 1976. Structuralism and Folklore. – Juha Pentikäinen, Tuula Juurikka
(eds.). Folk Narrative Research: Some Papers Presented at the VI Congress of
the International Society for Folk Narrative Research. Studia Fennica 20.
Helsinki: Suomalaisen Kirjallisuuden Seura, 75–93.
Dundes,
Alan 1980 (1964). Texture, Text, and Context. – Interpreting Folklore.
Indiana Univeristy Press, 20–32.
Dundes,
Alan 1983. Offi ce Folklore. – Richard M. Dorson (ed.). Handbook of American
Folklore. Bloomington: Indiana University Press, 115–120.
Dundes,
Alan, Carl R. Pagter 1975. Work Hard and You Shall Be Rewarded. Urban
Folklore from the Paperwork Empire. Bloomington, London: Indiana University
Press.
Dundes,
Alan, Carl R. Pagter 1987. When You’re Up To Your Ass in Alligators: More
Urban Folklore from the Paperwork Empire. Detroit: Wayne State University
Press.
Dundes,
Alan, Carl R. Pagter 1991. Never Try to Teach A Pig To Sing: Still More
Urban Folklore from the Paperwork Empire. Detroit: Wayne State University
Press.
Hautala,
Jouko 1954. Suomalainen kansanrunoudentutkimus. Suomalaisen Kirjallisuuden
Seuran Toimituksia 244. Helsinki: Suomalaisen Kirjallisuuden Seura.
Holbek,
Bengt 1992. On the Comparative Method in Folklore Research. With contributions
from Hermann Bausinger, Lauri Honko, and Roger D. Abrahams. – NIF Papers No.
3. Turku: Nordic Institute of Folklore.
Hoppál,
Mihály 1986. Chain Leter: Contemporary Folklore and the Chain of Tradition. –
Irma-Riita Järvinen (ed.). Contemporary Folklore and Culture Change.
Finnish Literature Society Editions 431. Helsinki: Suomalaisen Kirjallisuuden
Seura, 62–80.
Krohn,
Kaarle 1926. Die folkloristische Arbeitsmethode begründet von Julius Krohn
und weitergeführt von nordischen Forschern. Insitutet for sammenlignende
kulturforskning. Ser.B. Skrifter 5. Oslo:Aschehoug.
Kuhn,
Thomas S. 1970. The Structure of Scientific Revolutions. Second Edition,
Enlarged. International Encyclopedia of Unified Science. The University of
Chicago Press.
Kuusi,
Mati 1980. Suomalainen tutkimusmenetelmä. – Mati Kuusi, Lauri Honko, Leea
Virtanen, Juha Pentikäinen. Perinteentutkimuksen perusteita.
Porvoo-Helsinki-Juva: Werner Söderströmosakeyhtiö, 21–73.
Preston,
Michael J. 1976. Chain Leters. – Tennessee Folklore Society Bulletin Volume XLII,
Number 1, March, 1–11.
Propp,
Vladimir 1968. Morphology of the Folktale. Austin: University of Texas
Press.
Põldmäe,
Rudolf 1938. Üks haruldane tüüp eestikeelseist taevakirjadest. Äratrükk
Õpetatud Eesti Seltsi Toimetustest XXX. Tartu: [K. Matieseni trükikoda].
Seljamaa,
Elo-Hanna 2005. Walter Anderson: A Scientist beyond Historic and Geographic
Borders. – Kristin Kuutma, Tiiu Jaago (eds.). Studies in Estonian
Folkloristics and Ethnology. A Reader and Reflexive History. Tartu: Tartu
University Press, 153–168.
Seljamaa,
Elo-Hanna 2007. Täiustatud tõde ehk Walter Andersoni rahvajutude enesekontrolli
seadus. – Keel ja Kirjandus, 11, 888–906.
Stübe,
Rudolf 1931/1932a. Himmelsbrief. – Hanns Bächtold-Stäubli, Eduard
Hoffmann-Krayer (Hrsg.). Handwörterbuch des deutschen Aberglaubens. Band
IV. Berlin und Leipzig, 21–27.
Stübe,
Rudolf 1931/1932b. Ketenbrief, -gebet. – Hanns Bächtold-Stäubli, Eduard
Hoffmann-Krayer (Hrsg.). Handwörterbuch des deutschen Aberglaubens. Band
IV. Berlin und Leipzig, 1286–1287.
Tuneld,
John 1978. Walter Anderson. – Kungl. Gustav Adolfs Akademiens MINNESBOK 1957–1972
I. Uppsala : Gustav Adolfs akad., 57–79.
Virtanen,
Leea 1997. Historic-geographic Method. – Thomas A. Green (ed.). Folklore. An
Encylopedia of Beliefs, Customs, Tales, Music, and Art. Volume II. Santa
Barbara, California; Denver, Colorado; Oxford, England: ABC-Clio, 442–447.
Phương pháp lịch sử-địa lý, nghiên cứu văn hóa theo cả chiều không gian và thời gian. Hay. Thanks anh
Trả lờiXóaRất vui là Thu quan tâm đến Trường phái lịch sử - địa lý, còn gọi là trường phái Phần Lan do Julius Leopold Fredrik Krohn (1835 - 1888) sáng lập. J. Krohn là một nhà nghiên cứu thơ ca dân gian của Phần Lan, giảng viên văn học Phần Lan, nhà thơ, nhà văn, dịch giả và nhà báo. Ông sinh ra ở Viipuri và có nguồn gốc Baltic của Đức. J. Krohn là giáo sư ngôn ngữ Phần Lan tại Đại học Helsinki. Ông là một trong những nhà nghiên cứu đáng chú ý nhất về thơ ca dân gian Phần Lan trong thế kỷ 19. Ngôn ngữ mẹ đẻ của ông là tiếng Đức. Krohn cũng là người đầu tiên phát triển phương pháp nghiên cứu văn hóa dân gian, phương pháp lịch sử-địa lý. Con trai ông, Kaarle Krohn (1863 - 1933) nối nghiệp cha, là một nhà nghiên cứu văn hóa dân gian nổi tiếng của Phần Lan, giáo sư và người tiếp tục phát triển phương pháp địa lý-lịch sử của cha mình trong nghiên cứu văn hóa dân gian. Nhà Krohn nổi tiếng cả ở ngoài Phần Lan vì những đóng góp của họ cho trường phái lịch sử - địa lý trong nghiên cứu văn hóa dân gian. Ông dành phần lớn cuộc đời mình cho việc nghiên cứu các sử thi, tạo lập cơ sở cho nghiên cứu sử thi quốc gia Phần Lan - Kalevala.
Trả lờiXóa