Định nghĩa
về các giá trị văn hóa
Rodney
Frey
Người dịch: Hà Hữu Nga
Các
giá trị có thể được định nghĩa là những gì học
được, tương đối lâu dài, cảm tính, có cơ sở tri thức luận, và thể hiện các quá trình khái
niệm hóa về đạo
đức, hỗ trợ chúng
ta trong việc
đưa ra các đánh giá và chuẩn bị cho chúng
ta hành động. Nói cách khác, khi đưa ra
các ưu tiên và lựa chọn, để thực hiện, hầu hết chúng ta đều dựa vào các giá trị mà ta tin tưởng và duy trì.
Quan niệm và cách
sử dụng khái niệm này cũng bao gồm các
giá trị cá nhân của một con người
cũng như các giá trị tập thể của một cộng đồng.
1.
Tất cả mọi giá trị đều là những giá trị học được.
Không giống như việc biết được một
ngôn ngữ cụ thể, các giá trị được trao truyền
và khắc ghi thông qua
một mạng phức tạp của
các tác nhân
và các tương tác xã hội. Vấn đề chính yếu đối với mạng tương tác này
là sự học tập giữa các thành
viên gia đình, đồng nghiệp
xã hội, học qua trường
lớp, qua các trò chơi, qua công
việc, qua
các hoạt động tôn giáo, các lễ
thức, và hôn nhân. Và đan xen khắp mạng tương
tác này là phương tiện truyền
miệng và / hoặc bằng văn bản, bằng các
tích truyện của một cộng đồng người.
Sự ảnh hưởng của mạng tương tác này
đặc biệt quan trọng trong thời thơ ấu của mỗi
con người khi các thông số giá trị cơ bản được thành lập. Đến lượt mình, các thông
số này giúp định hướng cho việc đạt được
và tái khẳng định các giá trị
trong suốt cuộc đời của
một con người. Bởi vì
các giá trị có được thông qua học hỏi,
nên chúng có
thể bị lãng quên, và có thể học hỏi lại.
Nhưng các giá trị cũng có
thể thay đổi. Con người
không phải bẩm sinh có các giá trị
nhất định; cũng không phải là nội dung của các giá trị nhất định được ấn định về mặt di truyền. Trong thực tế, những người đã trưởng thành về mặt sinh học và các thiên hướng ảnh hưởng đến việc thụ đắc ngôn
ngữ và tính cách phải được xem xét trong bất kỳ thảo luận nào về việc thụ đắc các giá trị. Hoàn toàn có cơ sở để
nói rằng, sự hình thành của một cấu
hình giá trị cho mỗi
cá nhân là một quá trình vô cùng phức tạp.
2.
Các giá
trị đều tồn tại tương
đối lâu dài: Các giá trị đều có gốc rễ trong các di sản văn hóa của một xã hội và đều có căn nguyên trong
các thiết chế xã hội, trong các mạng tương tác xã hội.
Và các giá trị đều được xác lập từ thời
thơ ấu. Một cá nhân có thể quyết định từ bỏ
một giá trị cụ thể, chỉ phải chạm trán
với nó tại mỗi thời điểm giao nhau trong
mạng quan hệ xã
hội và được xác định nền tảng theo
các thông số được hình thành sớm trong cuộc đời của cá
nhân đó. Các giá trị của một xã hội hay của một cá nhân không dễ dàng
thay đổi.
3.
Các giá
trị không nhất thiết phải được biết
đến một cách có ý thức bởi cả
cá nhân, hoặc xã
hội. Không giống
như ngữ pháp ngôn ngữ hàng ngày của chúng ta,
các giá trị hiếm được khớp nối công khai, mặc dù chúng ta phụ
thuộc vào cả hai trong việc lĩnh hội
hành động của người khác và trong việc tạo sinh hành
động của mỗi chúng ta. Việc tìm kiếm các giá trị của riêng bạn và các giá trị của người khác chỉ có thể được thực hiện với nỗ lực rất lớn.
4.
Giá trị có xu hướng nhất quán,
tức là, những giá trị như nhau thu hút như các giá trị như nhau. Tập hợp các giá
trị của một cá nhân hoặc một cộng
đồng phấn đấu cho sự liên kết, khả
năng tương thích và tích hợp giữa các giá trị đó. Nếu một giá trị cụ thể không nhất quán với tập hợp các giá trị đã được tổ
chức, thì không dễ
dàng được tích
hợp và thường bị bỏ qua, bị loại trừ. Điều này không
phải là để cho thấy rằng chúng ta sẽ luôn luôn tìm thấy sự nhất quán giữa các giá trị được tổ chức bởi
bất kỳ cá nhân nào hoặc được thể hiện trong một cộng đồng nhất
định. Các giá
trị luôn phấn
đấu để đạt được tính nhất quán. Tập hợp các giá trị riêng của một cá nhân hay cộng đồng
thường bao gồm các giá trị khác nhau và thường mâu thuẫn lẫn nhau. Thậm chí có
thể có trường hợp một cấu hình cụ thể của các giá trị không chỉ điều chỉnh các giá trị cho thích hợp, mà còn tán thành cả những
giá trị mâu thuẫn nữa. Vấn đề ở
đây không phải là việc sắp xếp không
nhất quán các
giá trị cá nhân đang được thảo luận,
mà là cấu
trúc tổng thể của các mối quan hệ và các tính cách của
sự tích hợp trong
tất cả các giá trị đó. Để hiểu được bất kỳ giá trị nào, người ta cần phải xem xét cấu trúc hình thức lớn
hơn mà nó bao hàm trong đó. Một mâu thuẫn như vậy sẽ được
quan sát thấy khi chúng ta thảo luận về các giá trị của người Da đỏ Crow về nhất tính và sự thống nhất,
cũng như sự khác biệt
và tính độc
đáo. Tính không nhất
quán rõ
ràng bị giải thể khi
sự tích hợp theo ngữ cảnh cụ thể, trong trường hợp này là hình ảnh của "vòng tròn"
và "bánh xe", được đưa vào xem xét.
5.
Giá trị lưu giữ và truyền
đạt các khái niệm về khát vọng
đạo đức của một xã hội.
Các giá
trị đặt ra các tiêu chí xã hội cho các giả định văn hóa để căn cứ vào đó cái tốt và cái xấu, đúng và
sai, thiện và ác, cao thượng
và thấp hèn được xác lập. Giá trị
cung cấp một tập hợp chuẩn mực đạo đức và
tạo dựng
cơ sở cho tất cả các đánh giá đạo đức, cho dù nhắm vào những người khác, vào tự nhiên hay vào bản thân mình.
Các giá
trị hướng dẫn hành xử
của con người, cung cấp một "lộ trình" cho hành động. Tất nhiên,
những gì người ta có thể đánh giá là thích hợp, thì người khác có thể coi là vô đạo đức và không thích hợp. Kết quả là, các giá trị thường là tiêu điểm của sự xung đột.
6.
Các giá trị luôn tràn
ngập những cảm xúc tình cảm và được tổ chức với một niềm tin mạnh mẽ. Không thể có các giá
trị trung tính thụ động. Cảm xúc sợ
hãi, đồng cảm, thù hận, yêu thương,
giận dữ, đam mê, khinh miệt: tất cả đều là
những biểu hiện chủ quan của các giá trị. Các giá trị được cảm nhận một cách chắc chắn
nhất. Bởi vì yếu tố
cảm xúc này, mà các giá trị còn hơn cả một bộ quy tắc ứng
xử. Bằng cách truyền cho các phán xét với niềm
đam mê, các giá trị thiết lập sự khát
vọng. Tốt và xấu không chỉ đơn giản được đặt ra; "tốt"
được mong
muốn cháy bỏng còn
"xấu" thì luôn luôn bị xa lánh.
Giá trị là những động lực lớn trong một xã hội và mỗi cá nhân; là chiều hướng hướng đến mọi mục đích.
Từ cách thức xác định một
"người giàu có" đến cái
"đáng sợ" nhất trong
cuộc sống: tất cả đều căn cứ vào các giá trị. Nhưng chính niềm đam mê này lại cũng có thể kiềm chế việc đánh giá cao đối với các giá trị khác nhau với hệ giá trị của mình. Cảm
xúc có thể che khuất một
tầm nhìn rõ ràng.
7.
Các giá
trị xác lập một khuynh hướng để hành
động. Giá trị ảnh hưởng đến các hành
vi của cong người
bằng cách chuẩn bị cho con người hành động theo một số cách thức định hướng đạo đức. Khi
một phản ứng hành vi nhất định được kêu
gọi trong một bối cảnh tương tác xã hội cụ thể,
thì những hành vi
đó có thể một phần dựa trên các giá trị đã được tổ
chức. Sở dĩ
"một phần" là vì giá trị, trong khi thuộc về những ảnh hưởng chủ yếu, thì lại không phải là ảnh
hưởng duy nhất đối với các hành
vi của chúng ta. Những ảnh
hưởng khác bao gồm mức độ tự trọng cá
nhân, các định nghĩa về vai trò xã hội, luật pháp, hành vi tập thể tự phát và tính
thuyết phục của thứ khác, chẳng hạn. Do đó, bản thân các giá trị xác
định không nhất thiết phải là những kẻ
báo trước chính xác về hành vi. Trong khi chúng luôn họ song hành bên nhau, thì các giá trị mà chúng ta tổ chức ra và các hành vi mà chúng ta thể hiện đều không phải là mặt trái của một đồng xu, mà mỗi mặt đều đồng nghĩa với mặt kia.
8.
Bất kỳ giá trị nào cũng đều dựa
vào/và thể hiện bằng khuôn khổ của các
tiêu chí tri thức luận
nhất định. Dựa vào tiêu
chuẩn tri thức nào để thừa nhận vàthể hiện một giá
trị đặc biệt? Làm thế nào mà người
nắm giữ giá trị định giá được một giá trị
cụ thể? Một giá trị được khuôn theo và thể hiện
công khái bằng những khuôn khổ nào?
Để khẳng định, chẳng hạn,
"tình trạng hoang dã là một nguồn tài nguyên thiên nhiên to lớn nhưng vẫn chưa được khai thác"
ám chỉ một giá trị dựa vào khuôn khổ các tiêu chí tri thức luận và
được thể hiện bằng khuôn khổ các tiêu chí
tri thức luận, về thực chất đó chính là giá trị "kinh
tế". "Tình trạng hoang
dã" được biết đến thông qua khuôn khổ một
loại "hàng
hóa" có "giá trị sản xuất," và có thể được phân phối và tiêu
thụ. Trong khi có một loạt các tiêu chí tri
thức luận khả thể tạo thành cơ sở cho các giá trị, mà đối với các mục đích
diễn giải của chúng ta, chỉ có ba tiêu chí sẽ được phân lập: i) tiêu chí biểu hiện theo nghĩa đen,
ii) tiêu chí ẩn
dụ - theo nghĩa rộng, và iii) tiêu chí diễn giải-ngụ ý.
Loại hình học này mắc nợ chủ yếu ở các tác phẩm của Ananda
Coomaraswamy 1934. Mỗi tiêu chí tri
thức luận đều được hiểu là
bổ sung cho/và không loại
trừ những tiêu chí khác,
tức là, mỗi tiêu chí đều là một
con đường "hợp thức"
đối với nhận thức.
Mỗi chúng ta vẫn luôn
dựa vào cả ba cách nhận thức ấy,
mặc dù thường nhấn mạnh một cách thức
này nhiều hơn những cách thức
kia. Làm thế nào
mà một dân tộc bắt đầu hiểu biết thế giới, để rồi lịa
tác động ảnh hưởng đến cách thức mà
dân tộc đó nhìn nhận thế
giới, ảnh hưởng đến bản
thể luận của
họ. Trong khi một số nền văn hóa coi mình là một phần của thế giới xung quanh
họ, thì những nền văn
hóa khác lại xem mình, về cơ bản, tách biệt khỏi thế giới "ngoài đó." Đến lượt mình, tri thức có thể “được tiếp nhận” bằng
trực giác từ các “tác nhân” bắt nguồn trong
thế giới hoặc "phát
hiện" hoàn toàn bằng kinh nghiệm một
ứng dụng khắt khe của logic của con người. Kết quả là tầm quan trọng và ý nghĩa
của một "bông hoa", một "cầu vồng" hoặc đối với vấn đề đó,
tự thân "hiện thực" cũng có thể khác biệt một hoàn toàn và triệt để.
Do
tầm quan trọng cơ bản của
nó, những khác biệt về tri thức luận
như vậy cũng sẽ gây được tiếng vang thấu
suốt và tự biểu hiện trong mỗi chủ đề khác nhau được xem xét trong quá trình này. Để cho chúng ta đánh giá chính xác hơn
về những khác
biệt cơ bản giữa các tôn giáo khác nhau, và hiểu chúng các tôn giáo đó theo những khuôn khổ riêng của chúng, mà không áp đặt các giá trị của
chúng ta, thì mỗi cách tiếp cận đều được
dựa trên những tri
thức luận của chính họ.
Mỗi
cách nhận thức đều được
hiểu là bổ sung cho những cách
khác, và không có cách nào "cao
cấp" hơn hoặc "chân thực" hơn so với những cách khác. Không có tiêu chí nào, trong nó và thuộc về chính nó, lại thích hợp
hơn hoặc cao hơn về
mặt đạo đức so với những tiêu chí
khác. Mỗi thể loại có hiệu lực, đều đóng góp
ngang nhau vào
điều kiện của
con người, mặc dù theo những cách khác nhau. Đây không phải là một chuỗi phát
triển thông qua đó một cá nhân tiến bộ từ hết giai
đoạn này đến giai đoạn kế
tiếp. Các giá
trị bao hàm nghĩa đen chính là
những giá trị
được phổ biến dựa vào các giác quan vật chất và
có ý nghĩa rõ
ràng, theo đúng nghĩa
đen. Các loại giác quan mà những giá trị này dựa vào đều là những kiểu loại được thừa nhận công
khai là khả thể và thường được chia sẻ giữa một nhóm nhất định, ví dụ như, thị giác và âm thanh.
Những giá trị này được nhận thức căn
cứ vào/và có tính
hợp thức vì một cái
gì đó có tính hiện thực trong thế giới kinh nghiệm.
Có thể đưa ra hai ví dụ về các phán đoán giá trị biểu hiện theo nghĩa đen tập
trung vào "tình trạng
hoang dã." "Tình trạng hoang dã
được tạo thành từ một số lượng nhất định và các loại
cây cối, động vật,
thực vật, trong một địa hình vật lý nhất
định." Như đã đề cập trong Cựu Ước, tình trạng
hoang dã là một "sa mạc" và "hoang vu", một vùng đất "bị
nguyền rủa", đầy "gai nhọn và
cây tật lê." Trong cả hai trường hợp, các phán đoán giá trị đều căn cứ theo nghĩa
đen, có thể tiếp cận
thông qua các giác quan. Ta có thể chạm
vào các bụi cây
và cảm nhận gai góc.
Các từ miêu tả cảnh "hoang
dã" cố gắng gợi
ra các biểu hiện chính
xác, theo nghĩa đen. Từ "cây" có một đối trọng vật lý ít nhiều chính xác trong bối cảnh "hoang dã" đó. Kinh nghiệm luận và
thống tín luận [fundamentalism] tôn
giáo, chẳng hạn,
được kết hợp với các giá trị biểu hiện
theo nghĩa đen. Các giá
trị ẩn dụ theo nghĩa rộng là
những giá trị dựa
trên sự khái niệm hóa về tinh thần và có nghĩa tiềm
ẩn, ẩn dụ. Các giá trị này có
thể bao hàm từ
các giá trị định hướng logic, tức là, dựa trên sự đồng thuận
của các quy tắc chung cho tư duy, đến các giá
trị trung tâm điển mang tính phi lý, tức là, hình thành mà
không có sự đồng thuận của các quy tắc chung cho tư duy và dựa trên các giả định nguỵ biện. Chúng thường được xác định cơ sở và được hợp thức hóa vì một lối diễn dịch từ các giá trị khác, hoặc
so sánh với các giá trị khác. Chúng
không phụ thuộc vào nền tảng của thế
giới kinh nghiệm. Các phán đoán giá
trị ẩn dụ theo nghĩa rộng cung cấp hình ảnh bóng bẩy hơn và trừu tượng hơn, thường là hình ảnh về các phẩm chất, và lại càng không phải theo nghĩa đen trong
các biểu hiện của
chúng.
Có thể minh họa loại giá trị này bằng ba ví dụ khác nhau. "Tình trạng
hoang dã là phản đề của nền văn minh." "Tình trạng hoang dã là một vùng đất
không sử dụng." "Tình trạng
hoang dã là nơi chim chóc tự
do bay lượn và vẻ đẹp của những bông hoa tỏa rạng
cùng các sắc
màu của cầu vồng." Những phán đoán
giá trị hoang dã đặc biệt này được
diễn dịch ngầm
ẩn và so
với các giá trị khác
đã tổ chức, tức là các giá trị của
nền văn minh xã hội, giá trị của việc sử
dụng kinh tế và của vẻ đẹp thẩm
mỹ. Chúng
có rất ít đối trọng trực
tiếp và không có đối trọng theo nghĩa đen trong
tình trạng "hoang
dã" một cách kinh nghiệm,
nhưng lại quy về các hình ảnh có các phẩm chất trừu tượng. Chủ nghĩa duy
lý, phê bình văn học và thành kiến chủng tộc, chẳng hạn, tất cả đều được xây dựng trên những giá trị ẩn dụ- nghĩa rộng.
Các giá trị diễn giải ngụ ý là những giá trị bắt nguồn từ kinh nghiệm trực quan
hoặc huyền bí và có các ý nghĩa tiềm
ẩn, ẩn dụ. Đó thường là ý
nghĩa thuộc
"bản chất" bên trong một cái gì đó công khai và có tính vật chất, các
"hình thức bên trong." Trong khi sự phát
tiết ra
ngoài và hợp thức hóa bởi một
kinh nghiệm, không giống như các giá trị biểu hiện
theo nghĩa đen, thì kinh nghiệm lại càng mang tính riêng tư và chiêm
nghiệm từ trong bản chất, ví dụ như, sự mặc khải của Thiên
Chúa, và không phụ thuộc vào các giác quan nhất định
mà tất cả cộng đồng đều chia sẻ.
Mặc dù điều này không
nhằm gợi ý
rằng trong bất kỳ cộng đồng nào thì
tất cả các thành viên đều không
thể có quyền tiếp cận với một
kinh nghiệm như vậy. Tương tự như các giá trị ẩn dụ theo nghĩa rộng, các phán đoán diễn giải ngụ ý lại
cung cấp cho ta các hình
tượng, hình ảnh trừu tượng, và các ý
nghĩa. Nhưng đây là những hình ảnh thường ẩn dấu khỏi con người và thường bí truyền về thực
chất, như hình ảnh linh
hồn của một con vật chẳng hạn. Một ví dụ về một phán đoán giá trị
diễn giải ngụ ý sẽ là, "Tình trạng hoang dã là nơi Thiên Chúa và tất cả trí tuệ
đích thực phải được tìm thấy."
Một ví dụ khác là, "Hình ảnh trong đá là hình ảnh của ấn chứng, được khải lộ qua tảng đá bởi ấn chứng cho người thợ khắc đá khi ông ngồi ở những nơi quá hiu quạnh." Cả hai phán đoán đều cung cấp những ý nghĩa tượng trưng, nghĩa là hình ảnh của Thiên Chúa và của ấn chứng thánh linh, và được nhận biết một cách thần bí hoặc trực quan. Giá trị diễn giải ngụ ý không phụ thuộc vào các quá trình thực nghiệm hoặc logic. Cảm hứng nghệ thuật và tôn giáo, chẳng hạn, có liên quan với các giá trị diễn giải ngụ ý. Các giá trị hằn sâu này thể hiện trong suốt các tích truyện của chúng ta đã hình thành hầu hết cơ sở cho việc chúng ta là ai và là cái gì. Chúng giúp ta giải thích và thấu hiểu các hành vi của người khác cũng như hướng dẫn hành vi của chúng ta thông qua cái mê lộ tồn tại của con người.
Một ví dụ khác là, "Hình ảnh trong đá là hình ảnh của ấn chứng, được khải lộ qua tảng đá bởi ấn chứng cho người thợ khắc đá khi ông ngồi ở những nơi quá hiu quạnh." Cả hai phán đoán đều cung cấp những ý nghĩa tượng trưng, nghĩa là hình ảnh của Thiên Chúa và của ấn chứng thánh linh, và được nhận biết một cách thần bí hoặc trực quan. Giá trị diễn giải ngụ ý không phụ thuộc vào các quá trình thực nghiệm hoặc logic. Cảm hứng nghệ thuật và tôn giáo, chẳng hạn, có liên quan với các giá trị diễn giải ngụ ý. Các giá trị hằn sâu này thể hiện trong suốt các tích truyện của chúng ta đã hình thành hầu hết cơ sở cho việc chúng ta là ai và là cái gì. Chúng giúp ta giải thích và thấu hiểu các hành vi của người khác cũng như hướng dẫn hành vi của chúng ta thông qua cái mê lộ tồn tại của con người.
____________________________________________
Nguồn: Rodney Frey 1994. Eye
Juggling: Seeing the World Through a Looking Glass and a Glass Pane (A workbook for clarifying and interpreting
values). University Press of America: Lanham, New York, London. 1994. pp. 19-24
Tác giả: Rodney
Frey là một nhà giáo dục và tác giả viết về các tôn giáo trên thế giới,
nhưng đặc biệt là về các truyền thống Da đỏ Bắc
Mỹ. Giáo sư Frey giải thích rằng các quan
tâm chuyên nghiệp của ông đều tập trung vào "vai trò và tầm
quan trọng của các truyền thống
truyền khẩu, đặc biệt là những truyền thống ảnh hưởng đến mối quan hệ của một dân tộc đối với "cảnh
quan" của họ, và điều hòa các tác động thay đổi
của người Mỹ gốc Âu." Ông là giáo sư chuyên nghiên cứu người Mỹ Da đỏ và là nhà nhân học tại Đại học Idaho. Giáo sư Frey nhận bằng Tiến sĩ Nhân học văn hóa của trường Đại học
Colorado vào năm 1979. Ông dạy tại Carroll College ở Helena, Montana 1980-1986,
và Lewis-Clark State College ở Coeur d'Alene, Idaho từ năm 1987 đến năm 1998,
nơi ông cũng từng là Giám đốc Các chương
trình Bắc Idaho của
trường đại học này. Trong khi cộng tác với
Lewis-Clark State College và với Coeur d'Alene Tribe, ông đã tham gia vào việc trợ giúp để thiết lập và điều phối DeSmet
Higher Education Program - chương trình giáo
dục cao cấp DeSmet, một trung tâm tiếp cận đại học cộng đồng thành công dành riêng cho người Da đỏ Bắc Mỹ. Các công trình
của Rodney Frey bao gồm Rodney Frey's books include The World of
the Crow Indians: As Driftwood Lodges (University of Oklahoma Press 1987), Stories
That Make the World: Oral Literature of the Indian Peoples of the Inland
Northwest as Told by Lawrence Aripa, Tom Yellowtail and other Elders
(University of Oklahoma Press 1995) and Landscape Traveled by Coyote and
Crane: The World of the Schitsu'umsh - Coeur d'Alene Indians, in collaboration
with the Schitsu'umsh (University of Washington Press 2001; 2005).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét