Văn hóa là gì? (III)
H. Spencer-Oatey
Người
dịch: Hà Hữu Nga
9. Văn hóa được học hỏi mà có
Văn hóa được học hỏi từ những người mà
ta tương tác khi
ta được xã hội hóa. Việc
quan sát người lớn phản ứng và nói chuyện với trẻ em là một cách thức tuyệt vời để thấy được cách trao truyền biểu tượng văn hóa thực sự của con người. Hai đứa trẻ được sinh ra vào cùng một lúc ở hai nơi khác nhau của trái đất có thể được dạy dỗ để đáp ứng với
các kích thích vật lý và xã hội theo những cách thức rất khác nhau. Ví
dụ, một số đứa trẻ được dạy nhoẻn cười với người lạ, trong khi những trẻ em khác lại được dạy chỉ cười trong những
trường hợp rất cụ thể. Tại Hoa Kỳ, hầu hết trẻ em được yêu cầu từ một độ tuổi
rất sớm để đưa ra các
quyết định về những gì chúng muốn làm và những gì chúng thích; trong nhiều nền văn hóa khác, cha mẹ sẽ không bao giờ hỏi một đứa trẻ những gì nó muốn làm mà chỉ đơn giản bảo nó phải làm gì mà thôi.
Văn hóa cũng được giảng dạy bởi những lời giải thích mọi
người nhận cho thiên nhiên và con người các sự kiện xung quanh họ. Mọi người từ
các nền văn hóa khác nhau sẽ hoàn thiện phần còn bỏ trống bằng những cách thức tương phản với
nhau. Những người mà trẻ em giao tiếp sẽ khen ngợi và khuyến khích các loại hành vi cụ thể (như khóc hay
không khóc, im lặng hoặc nói nhiều). Chắc chắn có những khác biệt về những gì mà một đứa trẻ học được từ gia đình so với gia đình khác trong bất kỳ nền văn
hóa nào. Tuy nhiên, mối
quan tâm của chúng ta
không phải là về
những khác biệt này,
mà là về các tương đồng trong hầu hết hoặc là tất cả các gia
đình, tạo thành cơ sở cho một nền văn hóa. Vì mối
quan tâm cụ thể của chúng ta là quan hệ giữa văn hóa
và giao tiếp liên cá nhân, nên
chúng ta tập trung vào cách
thức mà một nền văn hóa cung cấp cho các thành viên của mình một tập hợp các giải thích mà họ sử dụng như là các bộ lọc để tạo ra ý nghĩa của thông điệp và
kinh nghiệm. [Lustig và Koester 1999: 31-2]
Quan
niệm cho rằng văn hoá có
được thông qua quá trình học tập có một số hàm ý quan trọng đối với hành vi
quan hệ quốc tế. Trước
hết, một nhận thức như vậy có thể dẫn đến
khoan dung hơn với những khác biệt văn hóa, một điều kiện tiên quyết cho các giao tiếp liên văn hóa một cách hiệu quả trong bối cảnh quan
hệ quốc tế. Thứ hai, bản chất học hỏi được của văn hóa được sử dụng như một lời nhắc nhở
rằng chúng ta đã làm chủ được nền văn hóa của mình thông qua quá trình học
tập, cũng có thể (mặc dù khó khăn hơn) học hỏi để thực hành trong các nền văn
hóa khác. Vì vậy, việc
phát triển kỹ năng liên văn hóa cho các doanh nhân phương
Tây có thể được thực hiện thông qua các chương trình đào tạo hiệu quả. Và cuối cùng,
bản chất của văn hóa học dẫn chúng ta đến một kết luận hiển nhiên là lực lượng lao động nước ngoài, mặc dù có lẽ thiếu các kỹ năng liên quan đến các công việc nhất định trong
thời điểm hiện tại, vẫn
hoàn toàn có khả năng học hỏi những kỹ năng đó trong tương lai, miễn là họ tiếp xúc với các
chương trình đào tạo phù hợp về
phương diện văn hóa. [Ferraro 1998: 19]
10. Văn hóa tùy thuộc vào quá trình biến đổi dần dần
Bất kỳ cách diễn giải nhân học nào về văn hóa của bất
kỳ xã hội nào cũng
đều là một kiểu quan
niệm tức thời về một thời gian cụ thể. Vài năm sau khi hoàn thành việc
nghiên cứu một văn hóa, nhà dân tộc học nên quay trở lại và người đó sẽ không còn thấy chính xác
tình huống tương tự, vì không có nền văn hóa nào
vẫn hoàn toàn tĩnh
tại năm này qua năm khác. Các nhà nhân học đầu thế kỷ XX - đặc biệt là những người theo trường phái cấu trúc/chức năng thường
có xu hướng giải nhấn động lực học văn hóa bằng cách gợi ý
rằng một số xã hội đang ở trong trạng thái cân bằng ở điểm zero trong đó các động lực thay đổi đã bị phủ nhận bởi
những động lực của chủ
nghĩa bảo thủ văn hóa. Mặc dù quy mô nhỏ, công nghệ đơn giản, nhưng các xã hội tiền văn tự vẫn có xu hướng bảo thủ hơn (và, do đó, biến đổi không nhanh) so với các xã hội hiện đại, công
nghiệp hoá, và có tính phức tạp cao, giờ đây người ta thường chấp nhận rằng, ở một mức độ nhất định, sự biến đổi là một đặc điểm không đổi của
tất cả các nền văn hóa.
Các
nhà nghiên cứu biển đổi văn hóa công nhận rằng sự đổi mới
văn hoá (có nghĩa là, việc đưa
vào những cách tư duy, chuẩn mực, hoặc các hạng mục vật chất mới) diễn ra như là kết quả của cả nội
lực lẫn ngoại lực. Cơ chế của sự biến đổi vận hành trong một
nền văn hóa nhất định được gọi là phát hiện và sáng tạo. Mặc dù phát hiện và sáng tạo là quan trọng,
nhưng hầu hết các đổi mới được đưa vào một nền văn hóa đều là kết quả của
việc vay mượn từ các nền văn hóa khác. Quá trình này được gọi là truyền bá văn hóa, sự lan truyền của các hạng mục văn hóa từ một
nền văn hóa này đến một nền
văn hóa khác. Tầm quan trọng của việc
vay mượn văn hóa có thể được nhận thức tốt hơn nếu được xem xét trong khuôn khổ của các nỗ lực kinh tế. Nghĩa là, việc
vay mượn phát minh, sáng tạo của người khác sẽ dễ dàng hơn nhiều so với việc khám phá hoặc phát minh thêm một lần nữa. Trong thực tế, các nhà nhân học đều đồng ý
rằng đến 90 phần trăm của tất cả mọi thứ, các ý tưởng và các mô thức hành vi tìm thấy
trong bất kỳ nền văn hóa nào
cũng đều có nguồn gốc ở một nơi nào đó khác. Các cá nhân
trong mọi văn hóa, giới hạn bởi bối cảnh và thời gian, đều giảm bớt nỗ lực khi họ có được các ý tưởng mới bằng phương
thức vay mượn. Tuyên bố này cũng đúng đối với nền văn hóa của
chúng ta cũng như các nền văn hóa khác, vì thực tế là Bắc Mỹ thường
có xu hướng bỏ qua
vấn đề này. Vì hầu hết biến đổi văn hóa đều là kết quả của truyền bá, nên nó xứng đáng được xem xét kỹ hơn. Khi biết rằng truyền bá văn hóa xảy ra trong những tình huống rất
khác nhau, nên
chúng ta có thể xác định những
qui tắc nhất định cho phép đưa
ra một số phán đoán khái quát chính xác cho tất cả các nền văn
hóa.
Trước
hết, truyền bá văn hóa là một quá trình chọn lọc. Bất cứ khi nào hai nền văn
hóa bắt đầu tiếp xúc, thì
mỗi nền văn hóa đều không chấp nhận một cách bừa bãi tất cả mọi thứ từ
nền văn hóa kia. Nếu xảy ra tình trạng
như vậy, thì
các khác biệt lớn
về văn hóa tồn tại cho
đến ngày nay có lẽ đã biến mất từ lâu rồi. Thay vào đó, các hạng mục được vay mượn từ nền văn hóa khác chỉ xảy ra khi chúng chứng tỏ là hữu ích và /
hoặc tương thích. ... Nói
cách khác, một sự đổi mới có khả năng được truyền bá vào một nền văn
hóa tiếp nhận khi: i) nó được xem là vượt trội so với những gì hiện tồn tại; ii) nó phù hợp với các mô thức văn hóa hiện có;
iii) nó dễ hiểu; iv) có thể được kiểm tra trên cơ sở thực nghiệm; và v) đổi mới đó đem lại lợi ích có thể thấy rõ đối
với số lượng dân
cư tương đối. Năm biến số
trên cần được các nhà chiến lược kinh doanh quốc tế xem xét khi có ý định giới
thiệu các khái niệm quản lý và tiếp thi mới vào một nền văn
hóa bên ngoài.
Thứ hai, vay
mượn văn hóa là một quá trình hai chiều. Các nhà nghiên cứu sớm về biến đổi văn hóa tin rằng sự tiếp xúc giữa các xã hội "nguyên thủy" và các xã hội "văn
minh" làm cho các “xã
hội nguyên thủy” chấp nhận các đặc trưng văn hóa của các “xã hội văn minh”. Lập trường này được dựa trên giả định là các xã hội nguyên thủy "thấp kém" không có gì để cung cấp cho các xã hội văn minh
"cao đẳng". Tuy nhiên ngày nay, các nhà nhân học đều
từ chối một lập
trường như vậy, vì người ta đã phát hiện đi phát hiện lại rằng các đặc trưng văn hóa được truyền
bá theo cả hai hướng.
Sự tiếp xúc giữa người châu Âu với người Da đỏ châu Mỹ là một trường hợp điển hình. Người Mỹ bản địa, chắc
chắn, đã tiếp nhận vô số thứ từ người châu Âu, nhưng việc
truyền bá theo hướng ngược
lại cũng rất đáng kể. Ví dụ, người
ta đã ước tính (Driver 1961: 584) rằng các loại cây trồng
chiếm gần một nửa nguồn cung cấp lương thực của thế giới là do người Da đỏ châu Mỹ thuần hóa. Chúng bao gồm ngô, đậu, bí, khoai lang, và cái gọi là "khoai tây
Ailen"...
v.v.
Thứ ba, rất
hiếm khi các mục vay
mượn được chuyển vào nền văn hóa tiếp nhận trong dạng thức
nguyên gốc của
chúng. Thay vào đó, những ý tưởng mới, các hiện vật, hoặc kỹ thuật thường được tái diễn giải và làm lại sao cho có thể được tích
hợp một cách hiệu quả hơn vào cấu hình tổng thể của nền văn hóa tiếp nhận. Lowell
Holmes đã cung cấp một ví dụ soi
sáng cách thức của một sự đổi mới đặc biệt từ Ý (pizza) đã được biến đổi sau khi nó
sát nhập vào nền văn hóa Hoa Kỳ. "Ban đầu, chiếc bánh Ý này đã được làm bằng phô mai mozzarella hoặc
scamorza, cà chua, gia vị rất xúc xích có nhiều gia vị, rau thơm hoa môi [Origanum vulgare], và một lớp vỏ làm bằng bột mì, nước, dầu ô liu và men bia. Mặc dù loại
bánh pizza vẫn còn tìm thấy trong hầu hết các thành phố miền Đông, cũng như trong các thành phố miền Trung Tây,
trong nhiều trường hợp, món ăn này
đã được giải thích là để đáp ứng sở thích hương vị miền Trung Tây đối với loại thực phẩm
nhạt nhẽo. Bánh pizza Ý đích thực trong các tiểu bang như Kansas, Missouri,
Iowa, Nebraska, hoặc Dakota thường được xem là quá cay; do đó, có thể mua tại các
nhà hàng hoặc tại các siêu thị loại
bánh pizza đầu bảng
với loại pho mát theo quy trình Mỹ, không hề
có vị rau môi, và thay vì xúc xích gia vị, hamburger hay thậm chí cá ngừ cắt tròn theo phiên bản Mỹ hóa.
Trong nhiều công thức nấu ăn gia đình, lớp vỏ được làm bằng bánh quy hỗn hợp.
Mặc dù những người Ý sẽ khó nhận ra nó, nhưng nó vẫn còn mang tên pizza
và đã trở nên cự
kỳ phổ biến "(1971: 361-2). ...
Thứ tư, một số đặc điểm văn hóa dễ dàng truyền bá hơn so với các đặc điểm khác. Nhìn chung các đổi mới công nghệ có nhiều khả năng được vay mượn hơn là các mô thức xã hội, hoặc các hệ thống tín ngưỡng, phần lớn là vì tính
hữu dụng của một đặc điểm công nghệ đặc biệt có thể được công
nhận một cách nhanh chóng. Ví dụ, một người đi bộ năm dặm mỗi ngày để làm việc
không cần phải thuyết phục nhiều
cũng nhận ra rằng một chiếc ô tô có thể đưa anh ta đến chỗ làm việc nhanh
hơn và cần ít sức lực hơn. Tuy nhiên thực tế
lại rất khó thuyết phục một người Hồi giáo trở thành một người Ấn
giáo hay một doanh nhân Mỹ
thuộc tầng lớp trung lưu trở thành một người theo chủ nghĩa xã hội.
Điều quan trọng đối với một doanh nhân quốc
tế để hiểu rằng ở
một mức độ nào
đó, tất cả các nền văn hóa đều
liên tục trải qua sự biến đổi. Ba thành phần cơ bản của văn hóa (sự vật, ý tưởng và các mô thức hành vi) có thể
trải qua các bổ sung, xóa
bỏ, hoặc biến đổi. Một số thành phần mất đi, những thành
phần mới được chấp nhận, và những thành phần hiện tồn có thể biến đổi theo một cách thức nào đó có thể quan sát được. Mặc dù tốc độ của sự biến đổi văn hóa của
mỗi xã hội đều khác nhau, nhưng khi nhìn nhận các nền văn hóa theo
thời gian, thì không có gì là vĩnh
hằng ngoài sự biến đổi. Cái nhìn sâu sắc và trực tiếp mang tính nhân học này cần nhắc nhở các doanh nhân quốc tế biết rằng i) bất kỳ môi trường văn hóa nào ngày nay cũng đều không chính xác
giống hệt như nó đã tồn tại năm ngoái hoặc sẽ trở thành vào năm sau. Vì vậy môi trường văn hóa cần được
giám sát liên tục;
ii) mặc dù không có sự phù hợp giữa nền văn hóa của một công ty Mỹ hoạt động ở nước ngoài và lực
lượng lao động ở nước ngoài, nhưng
thực ra thì văn hóa có thể làm thay đổi và cung cấp một biện pháp lạc
quan nhất định là các khoảng cách văn hoá cuối cùng có thể được lấp đầy.
Hơn nữa, quan niệm về truyền bá văn hóa có những hàm ý quan trọng cho hoạt động kinh doanh quốc tế. Dù ta
đang cố gắng tạo ra thị trường mới ở nước ngoài hoặc làm cho lực lượng lao
động địa phương thấm nhuần thái độ và hành vi mới thì buộc phải hiểu rằng truyền bá văn hóa là mang tính chọn lọc. Việc biết với một mức
độ nhất định về tính
dự đoán trước mà
các sự vật, ý tưởng, và hành vi có khả năng được một nền văn hóa cụ thể chấp nhận, thì
các biến quyết định tác
động ảnh hưởng đến việc
truyền bá như lợi thế tương đối, tính tương thích, và khả năng có thể quan sát cần phải được nhận thức rõ. Việc hiểu rõ rằng truyền bá văn hóa thường liên quan đến một số biến đổi hạng mục văn hóa chính là một ý tưởng
quan trọng đối với những ai quan tâm đến
việc tạo ra thị trường sản phẩm mới
trong các nền văn hóa
khác. Để minh họa, trước khi một loại bột giặt - thường được đóng
gói trong một bao
bì màu xanh lá cây ở
Hoa Kỳ - sẽ được chấp nhận tại một số địa phương Tây Phi, thì cần phải thay đổi màu sắc của bao bì,
bởi vì tại một số nền văn hóa Tây Phi, màu xanh lá cây làm người ta liên tưởng đến cái chết.
Ngoài ra, ý tưởng cho rằng một số thành phần nhất định của một văn hóa dễ dàng được chấp nhận hơn so
với những thành phần khác trong những môi trường văn hóa khác nhau chí ít là nên cung cấp một
số hướng dẫn chung cho việc
đánh giá những loại thay đổi nào trong nền văn hóa địa
phương có nhiều khả năng xảy ra. Bằng cách đánh giá những loại sự vật, ý tưởng
và hành vi nào đã được tích hợp vào một nền văn hóa trong những
năm gần đây, các nhà hoạch định chiến lược cần hiểu rõ hơn về thực trạng khó khăn hay dễ dàng liên quan đến
những biến đổi khởi đầu trong thói quen của người tiêu
dùng hoặc hành vi nơi làm việc. Ferraro 1998: 25-9
11. Tất cả các bộ phận khác nhau của
một nền văn hóa, ở một mức độ nào đó, đều có quan hệ tương liên với nhau
Các nền văn hóa cần được quan niệm như là
các tổng thể tích hợp - có nghĩa là, các nền văn hóa đều là các hệ thống logic và mạch lạc, mà
các bộ phận của
nó ở một mức độ nhất định đều
tương liên với nhau. ... Khi chúng ta nói rằng một nền văn hóa được tích
hợp có nghĩa là chúng ta đang nói rằng các thành phần của nó không đơn giản là một sự phân loại ngẫu nhiên về các tập tục. Hơn thế, đó chính là một hệ thống có
tổ chức, trong đó các thành phần cụ thể đều tương liên với các thành phần
khác. Nếu có thể xem văn hóa như các hệ thống tích hợp, thì chúng ta cũng có thể bắt đầu nhận thấy các đặc điểm
văn hóa cụ thể phù hợp với tổng
thể tích hợp ra sao, và kết quả là làm thế nào mà
chúng có xu hướng tạo
ra ý nghĩa trong bối cảnh đó. Và tất nhiên, được trang bị với một sự hiểu
biết như vậy, các doanh nhân quốc tế có thể có lập trường tốt hơn để đối
phó với những tập
tục "kỳ lạ" mà
họ gặp phải trong vũ
đài kinh doanh quốc tế. ...
Nếu, trong thực tế, các nền văn hóa là các hệ thống mạch
lạc, với các bộ phận cấu thành của chúng quan hệ tương liên với nhau, thì logic chắc chắn phải là bất cứ sự thay đổi nào trong một phần
của hệ thống cũng đều có khả năng tạo
ra sự thay đổi tương
ứng trong các bộ phận khác của hệ thống. Việc giới thiệu một đổi mới công nghệ duy
nhất có thể đặt ra một loạt các thay đổi liên quan. Nói cách khác, văn hóa thay
đổi làm cho nền văn
hóa khác cũng thay đổi theo.
Để minh họa, chúng ta cần phải nhìn vào những
ảnh hưởng sâu rộng đối
với nền văn hóa Mỹ do
một đổi mới công nghệ, đã trở thành phổ biến trong những năm 1950 - đó là truyền hình. Việc bổ sung công nghệ duy nhất
này vào vốn văn hóa vật chất của chúng ta đã gây ra hậu quả sâu sắc về
các khía cạnh phi vật chất cho nền văn hóa đó, bao gồm chính trị, giáo dục, và các hệ thống tôn giáo của chúng ta, mà ở đây mới chỉ nói đến ba lĩnh vực. Ví dụ, chiến dịch vận động chính trị cho chức
tổng thống năm 1948 và trước đó đã được thực hiện chủ yếu từ đoạn cuối cùng của một toa xe đường sắt trên cái gọi là tuyến lữ hành "ga xép". Đến năm 1960, năm của những cuộc tranh cử chức tổng thống đầu
tiên trên truyền hình, truyền hình đã mang lại những ý tưởng, lập trường, phong cách nói
chuyện, và những dáng vẻ thể
chất của các ứng viên trực tiếp vào phòng khách của đa số cử tri. Ngày nay các ứng viên chính trị, vì sức
mạnh của truyền hình, cần phải chú
ý đến trang điểm, quần áo, và các
cử chỉ phi ngôn ngữ vì
tất cả đều là các vấn đề trọng yếu của chiến dịch tranh cử. Trong giáo dục chính thức, một
trong những hậu quả của việc sử dụng rộng rãi của truyền hình là để hạ thấp độ tuổi
mà trẻ em phát triển "tính
sẵn sàng đọc" với tư cách là một kết quả trực tiếp của các chương trình như "Phố Vừng". ...
Truyền hình đã được nhiều
nhà bình luận xã hội mô tả vừa
là một phước lành lại
vừa là một lời nguyền
rủa. Nhưng tuy nhiên, chúng ta có thể cảm nhận về các ưu điểm và nhược điểm của nó, và khó có thể phủ
nhận rằng nó đã góp phần thay đổi sâu sắc trong nhiều bộ phận khác của hệ thống văn
hóa Hoa Kỳ. Và lý do của những thay đổi này là ở chỗ các nền văn hóa đều có xu hướng trở thành những hệ thống tích hợp với một số bộ phận kết nối với nhau, đến mức là bất cứ sự thay đổi nào trong một phần
của nền văn hóa đó cũng đều có khả năng gây
ra những thay đổi trong các bộ phận khác. [Ferraro 1998: 32-5]
12. Văn hóa là một khái niệm mô tả, không phải là một khái
niệm đánh giá
Đôi khi mọi người nói về văn hóa "cao" và văn hóa "thấp".
Các định nghĩa liên quan đến "văn hóa cao" như sau: '[Văn hóa là] i)
một trạng thái phát triển cao trong nghệ thuật & suy tư hiện tồn trong một xã hội
và được đại diện ở các cấp độ khác nhau trong các thành viên của nó; ii) việc phát triển và cải
thiện của tư duy hoặc cơ thể bởi giáo dục, hoặc
đào tạo. ' [Longman Dictionary of Contemporary English]
Giải thích này
về văn hóa thường được liên kết với các thuật ngữ và các khái niệm như là
văn minh hóa, có học thức, được
tinh lọc, có văn hóa, và được kết hợp với các kết quả của sự tinh lọc như vậy - một nền nghệ thuật, văn
học, âm nhạc, …v.v, của một xã hội. Tuy nhiên, quan niệm của chúng ta về văn hóa không phải là
một cái gì đó độc nhất đối với các thành viên
nhất định; đúng hơn nó liên quan đến toàn bộ xã hội. Hơn nữa, nó không chuyên chở giá trị. Không phải là một
số nền văn hóa thì
tiên tiến và một số thì
lạc hậu, một số văn minh hơn và lịch sự hơn trong khi những nền văn hóa khác thì thô lậu. Thay vào đó, chúng là tương tự hoặc
khác nhau mà thôi.
Những quan niệm không đầy đủ về văn hóa
[Có] ít nhất sáu ý tưởng liên quan đến nhau về văn hóa mà chúng
ta gọi là không đầy
đủ. Những ý tưởng này
thường được thấy trong các bài viết và thực hành của các cá nhân, bao gồm
cả những người trong việc
giải quyết xung đột, bằng cách vay mượn một cái nhìn
nhân học đã lạc hậu về văn hóa, tìm cách sử dụng một cách tiếp cận văn hóa
trong các công trình của họ.
1. Văn hóa là đồng nhất. Ý tưởng này giả định
rằng một nền văn hóa (địa phương)
thì không có những nghịch lý và mâu thuẫn nội tại chẳng hạn như: i) nó cung cấp các “chỉ dẫn” hành vi rõ ràng
và không mơ hồ cho các cá nhân - một chương trình về cách thức hành động - hoặc
ii) một khi đã nắm bắt hoặc học hỏi được bởi một người ngoài
cuộc, nó có thể được đặc trưng bằng
những cách thức
tương đối minh
bạch ("người Dobuans mắc chứng hoang tưởng "). Một quan điểm đồng nhất về văn hóa làm cho các ý tưởng
không đầy đủ thứ hai dễ dàng duy trì hơn, cụ thể là:
2. Văn hóa là một sự vật. Việc vật chất hoá văn hóa - coi văn hóa như là
một sự vật - dẫn đến một quan niệm cho rằng "nó" là một sự vật có thể hành động, gần như
độc lập của các tác
nhân con người. Không có ẩn
ý về tác nhân cá thể ở đây. Một ví dụ đương
đại rõ rang về loại suy tư này là lập luận trong Cuộc đụng độ của các
nền văn minh của
Samuel Huntington. Nó rất dễ dàng để rơi vào cái bẫy ngữ nghĩa của sự đồ vật hoá. Ta hãy đọc nhận xét trước
đó trong bài tiểu luận này về sức mạnh cấu thành của văn hóa để xây dựng một
định nghĩa của chính nó! Thuật ngữ này được sử dụng như là một cách ghi tốc ký, như chúng ta sẽ
thấy, đề cập đến hành mớ các quá trình tri giác và nhận thức phức
tạp, và nó là một loạt bước
đi ngắn (nhận thức) từ cách
ghi tốc ký đến sự hoán dụ đến đồ vật hoá. Nhưng chúng ta nên cảnh giác, đặc biệt là bởi
việc đồ vật hóa văn hóa rất dễ dàng bỏ qua tính đa dạng nội văn hóa, bảo lãnh cho quan niệm không đầy đủ của ý tưởng thứ ba:
3. Văn hóa được phân bố đồng đều giữa các thành viên của một nhóm. Ý tưởng này quy
tính đồng dạng về nhận thức, tình cảm, và hành vi cho tất cả các
thành viên của nhóm. Sự thay đổi
nội văn hóa, dù ở cấp độ cá nhân hay nhóm, đều bị bỏ qua hoặc bị bác bỏ, xem như là
"lệch lạc". Gắn
kết với quan niệm này là quan niệm sai lầm khác
cho rằng:
4. Cá nhân sở hữu không phải một văn hóa duy nhất. Cá nhân đó đơn
giản là một người Somali, một người Mexico, hoặc một người Mỹ. Vì vậy văn hóa đồng nghĩa
với tính đồng nhất [bản sắc] của nhóm. Gốc rễ của quan niệm sai lầm này xuất phát từ đặc quyền
của cái mà chúng ta có thể gọi là văn hóa bộ lạc, văn hóa tộc người, hoặc văn hóa
dân tộc, so với các nền văn hóa được kết nối - như chúng ta sẽ thấy - với các loại nhóm, các
cấu trúc, hoặc các thể
chế khác nhau. Một phần điều này xuất phát từ môi trường xã hội mà trong đó các nhà nhân học trước hết phát triển các ý
tưởng về văn hóa: các nhóm bộ lạc
hoặc tộc người có quy mô nhỏ và tương đối không khác biệt về phương diện xã hội. Sau đó
nó được pha trộn bởi các nhà khoa học chính trị - những người đã giương cao khái niệm văn
hóa (như "văn hóa chính trị") và ban đặc quyền cho nhà nước-dân tộc như là một đơn vị phân tích của họ - vì thế mà ban đặc quyền
cho ý tưởng "tính cách dân tộc". Trong thực
tế, như chúng ta sẽ thảo luận, đối với bất kỳ cá nhân nào, thì văn hóa luôn luôn
xuất hiện số nhiều. Một người sở hữu và kiểm soát một số văn hóa theo cùng một cách,
như các nhà ngôn ngữ
học xã hội cho chúng ta biết rằng ngay cả cái gọi
là người nói độc ngữ
cũng kiểm soát các "phạm
vi từ vựng" khác
nhau của cùng một ngôn ngữ hoặc phương ngữ.
5. Văn hóa là phong tục. Ý tưởng này cho
rằng văn hóa không khác biệt
về cấu trúc, nên
những gì ta thấy cũng chính là những gì ta có được. Và phần
lớn những gì ta nhìn thấy (đặc biệt là trong một nền văn hóa khác với nền văn hóa của ta), tất nhiên có ngây thơ, chính là phong tục. Văn hóa ở đây
là gần như đồng nghĩa với "truyền thống", hoặc những cách hành xử theo phong tục. Những điều quan
trọng cần biết, nếu ta là người ngoài cuộc, là những quy tắc theo
đúng phong tục để xử sự đúng. Trong trường hợp này văn hóa quy giản thành một loại nghi thức ở cấp độ bề mặt. Biến đổi văn hóa, như Peter Black đã từng nói, chỉ đơn
thuần là một vấn đề "nghi thức khác biệt". Một lần nữa, tác tố cá nhân bị xem nhẹ. Theo
quan điểm này không có ý thức đấu tranh, có lẽ ngoại trừ trường hợp ý thức đấu tranh với những kẻ lầm lạc (xem mục 3 ở trên), những kẻ không thể hoặc sẽ
không tuân theo truyền thống và phong tục: trên hết, việc san phẳng sự khác biệt và
việc giảm thiểu tranh đấu
chính xác là những gì mà
các quy tắc và nghi thức đại
diện.
6. Văn hóa là vô tận. Liên quan chặt chẽ với quan điểm văn hóa-là-phong tục (thực ra, liên quan đến tất cả các quan
điểm trên), ý tưởng cho rằng văn hóa là vô tận quy một phẩm chất không thay
đổi cho văn hóa, đặc biệt là cho
những cái gọi là truyền thống. Ở đây, chúng ta nói đến, chẳng hạn như, về "tư duy Ả Rập" như thể là một yếu tố nhận thức đơn nhất đã được truyền lại cho chúng ta từ Mecca của Muhammed.
Sáu ý tưởng không đầy đủ về văn hóa là có liên quan và
củng cố lẫn nhau. Việc
sử dụng các ý tưởng đó, như chúng ta đã thảo luận, sẽ làm giảm đáng kể tính tiện ích của
khái niệm văn hóa
với tư cách là một công cụ phân tích để hiểu hoạt động xã hội, mà trong trường hợp này, là xung đột và giải
quyết xung đột. [Avruch 1998: 14-16]
Các cấp độ phân tích và các ngụy biện cần tránh
Nhiều vấn đề nghiên cứu được thảo luận ở
đây sẽ so sánh các
đặc trưng của các nền văn hóa dân tộc cụ thể với hành vi trung bình
của một mẫu nhỏ các đối tượng được rút ra từ bên trong các nền văn hóa đó. Nói cách khác,
chúng ta có thể tìm thấy chính mình bằng cách khẳng định rằng chủ nghĩa tập thể của, chẳng hạn như, văn hóa quốc gia
Indonesia làm cho một nhóm nhà
nghiên cứu Indonesia gán ghép vào một bảng hỏi về các nguyên do cho sự thành
công hay thất bại trong
công việc của họ. Khi thể hiện theo cách này, rất dễ thấy rằng ngụ ý của quan hệ
nhân quả là quá mạnh nên
khó có thể coi là hợp lý. Theo một ý nghĩa
chung, chúng ta có thể mong đợi nền
văn hóa quốc gia Indonesia phải
được thể hiện trong hệ thống giáo dục của nước đó, trong loại sinh viên
được tuyển dụng, trong
loại giảng dạy, và loại đánh giá. Nhưng nếu chúng ta muốn thực hiện một phép kiểm tra chắc chắn hơn về các liên kết nhân quả
với hành vi cá nhân, tốt
hơn hết, chúng ta nên biết nhóm các nhà nghiên cứu Indonesia cụ thể này có tính tập thể chủ nghĩa
đến mức nào. Nói cách khác, chúng ta nên sử dụng những cách đặc trưng hóa của toàn bộ các nền văn hóa (ví
dụ như các giá trị tập thể
chủ nghĩa) để giải thích các thuộc tính cụ thể của nền văn hóa đó như một toàn thể
(ví dụ như loại hệ thống chính trị được phát hiện ở đó, tỷ lệ bệnh
tật, chi tiêu quân sự,…vv). Nhưng chúng ta nên sử dụng các đặc trưng hóa về các giá trị của các cá nhân, hoặc các nhóm cá nhân cụ thể nếu chúng ta
muốn dự đoán các cá nhân cụ thể ấy sẽ hành xử
như thế nào.
Các
phương pháp đo lường cấp độ văn hóa có thể được sử dụng tốt nhất để giải thích sự
biến đổi về cấp độ văn hóa; các phương pháp
đo lường cấp độ cá nhân tốt nhất có thể được sử
dụng để giải thích các biến đổi
ở cấp độ cá nhân. Vì hầu hết các nghiên cứu tâm lý xã hội được tiến
hành với các cá nhân, nên
nhiều nhà nghiên cứu có nhu cầu cấp bách trong việc sử dụng các biện
pháp đo lường ở cấp độ cá nhân như vậy, hơn
là dựa vào các đặc trưng
hóa cấp độ-văn hóa chẳng hạn như những đặc
trưng hóa được Hofstede cung cấp (Bond, 1996b). ...
Sự
nhầm lẫn về các
cấp độ phân tích có lẽ là vấn đề lớn nhất duy nhất trong sự phát triển hiện tại của môn tâm lý học liên văn hóa. Khó khăn là nhiều
nhà nghiên cứu trở thành nạn nhân với những gì Hofstede (1980) và những người
khác đề cập đến như những sai lầm sinh thái. Giả sử vấn đề rõ rang là các quốc gia chi tiêu phần lớn tiền vào
y tế nên dân cư khỏe mạnh
nhất. Liệu có phải
là các cá nhân chi
tiêu phần lớn số tiền cho thuốc men có
phải là những người khỏe mạnh nhất không? Hầu hết có lẽ không; thực sự ra thì có thể ở cấp độ cá nhân mối
quan hệ ló lẽ ngược lại: hầu
hết những người đau ốm nhất sẽ chi tiêu nhiều nhất. Bây giờ ta hãy xem xét một ví dụ
xuất phát trực tiếp từ các khái niệm mà chúng ta đã thảo luận. Các quốc gia mà giá trị của họ thiên về khoảng cách
quyền lực thấp bao gồm hầu hết các quốc gia giàu có nhất thế giới. Liệu có phải là các cá nhân đối lập với hệ thống phân
cấp có thể là người
giàu có? Chắc chắn là không: nhiều doanh nhân thành công nhất đã đạt được thành
công thông qua việc
sử dụng quan điểm phân cấp mạnh về quản lý. Các ngoại lệ đối với
mô thức này chẳng hạn như Steve Jobs tại tập
đoàn Apple Computer ở Hoa Kỳ, Richard Branson ở Virgin thuộc Vương quốc Anh và Ricardo
Semler ở Brazil có thể đạt được vị thế anh hùng-dân gian như là các trường hợp ngoại
lệ đối với quy tắc đó, nhưng danh tiếng của họ lại
không làm chúng ta lóa
mắt với tần số thành
công lớn hơn nhiều so
với các nhân vật tán thành các giá trị ít bình quân chủ nghĩa hơn.
... Nếu chúng ta quan tâm đến việc giải thích các khác biệt giữa
các nền văn hóa quốc gia, thì chúng ta phải xử lý với mỗi văn hóa như là một đơn vị duy nhất, và chỉ dựa trên các chỉ số đặc trưng
cho mỗi quốc gia như
một tổng thể, chẳng hạn như các thước đo phản ánh các giá trị trung
bình, sự giàu có, sức khỏe, khí hậu hay nhân khẩu học. Điều đó cho thấy rằng chúng ta chỉ nghiên cứu thành công loại
hình này nếu chúng ta có sẵn dữ liệu từ vài
chục quốc gia, vì
chúng ta đã thực hiện các nghiên cứu đã được thảo luận trước đó trong
chương này.
Nếu chúng ta đang quan tâm đến việc giải thích các tương đồng và
khác biệt trong hành vi của các
cá nhân, cho dù tất
cả các cá nhân
đó đều thuộc cùng một nhóm văn hóa hoặc lan
truyền qua nhiều nhóm, thì cần phải tiến hành việc phân tích cấp độ cá nhân. Tuy nhiên, sẽ không thể tiến hành phân tích các các cấp độ cá nhân trong tất cả các nền văn hóa quốc gia, trừ khi người ta giải thích các khác biệt ở cấp độ văn hóa. Vì vậy, nếu chúng ta muốn nghiên cứu mối quan hệ giữa các giá trị của người làm công và tình trạng vắng mặt ở
chỗ làm việc trong
toàn bộ các nền văn hóa quốc gia, thì trước hết chúng ta có thể giải thích một thực tế là tình trạng nghỉ việc ở một số quốc gia là thường xuyên hơn so
với một số quốc gia khác. Tình
trạng nghỉ việc của mỗi cá nhân ở một số quốc gia thường xuyên hơn hơn so với những quốc gia khác. Vì vậy mỗi điểm số vắng mặt
của mỗi cá nhân phải được thể hiện trong mối quan hệ với số điểm trung bình của quốc gia đó trước khi giả thuyết ấy có thể được kiểm
tra. Ngoài ra, chúng ta có thể kiểm tra mối liên hệ giữa các giá trị và tình trạng vắng mặt ở chỗ làm trên toàn bộ mẫu,
và sau đó kiểm tra xem liệu
độ vững chắc của mối liên hệ này có thay đổi theo từng quốc
gia hay không. Nếu mối quan hệ đó
không thay đổi, thì nó sẽ cần phải
xác định xem liệu điều đó có phải là do
việc đo lường hay không (Bond, 1996).
Triandis et al. (1985) cho rằng để tránh nhầm lẫn
giữa các phân tích được
tiến hành ở cấp độ của các nền văn hóa và các phân tích dựa vào cấp độ cá nhân,
chúng ta nên sử dụng những
cặp khái niệm khác nhau nhưng có liên quan với nhau. Đề xuất của nhóm tác giả này là chúng ta sử dụng thuật ngữ 'vị tha - allocentric' để mô tả một
thành viên văn hóa ủng hộ các giá trị tập thể, nhưng vấn đề tạo ra sự phân biệt là ở chỗ cũng sẽ có một thiểu số người như vậy thuộc các nền văn hóa theo chủ nghĩa cá nhân. Tương tự như vậy nhóm
tác giả Triandis đề nghị sử dụng thuật ngữ 'vị kỷ - idiocentric' để mô tả một thành viên văn hóa ủng hộ các giá trị cá
nhân chủ nghĩa. Đề nghị này đem
lại một thuật ngữ chính xác, nhưng các thuật ngữ ở cấp độ thích hợp lại
chưa được các nhà nghiên cứu khác chấp nhận. [Smith và Bond
1998: 60-2]
Văn hoá và thuật ngữ liên quan
Văn hóa và Dân
tộc: Trong ngôn ngữ hàng ngày của chúng ta, mọi người thường xử lý vấn đề văn hoá và dân
tộc như những thuật ngữ tương đương. Mặc dù một số quốc gia trong thực tế chủ yếu là nơi
sinh sống của những
cư dân thuộc một nhóm văn hóa duy nhất, nhưng hầu hết các quốc
gia đều thuộc về các
quốc gia đa văn hóa. Dân
tộc là một thuật ngữ chính trị đề cập đến một chính phủ và một tập hợp các cơ chế chính thức và hợp pháp được thành
lập để điều chỉnh hành vi chính trị của người dân. Các quy định này thường bao
gồm các khía cạnh của tập
hợp dân cư như cách thức lựa chọn các nhà lãnh đạo, bởi
những quy tắc mà các nhà lãnh đạo phải
chi phối, các bộ luật ngân hàng và tiền tệ, các phương tiện để thành lập các nhóm quân sự,
và các quy tắc thực
thi hệ thống pháp luật. Các
chính sách đối ngoại, chẳng
hạn, được quốc gia chứ
không phải là một nền văn hóa xác định. Nền văn hóa, hoặc
các nền văn hóa, tồn tại trong ranh giới của một nhà nước dân tộc chắc chắn ảnh
hưởng đến các quy định mà một quốc gia phát triển, nhưng thuật
ngữ văn hóa lại không đồng nghĩa với dân
tộc.
Dân
tộc Nhật Bản thường được coi là đồng nhất vì vậy mà từ người Nhật thường
được sử dụng vừa để chỉ dân tộc Nhật vừa để chỉ nền văn hóa
Nhật. Mặc dù văn hóa Yamato
của Nhật Bản là văn hóa chiếm ưu thế áp
đảo trong dân tộc Nhật Bản, nhưng
ở đó vẫn có các
nền văn hóa khác. Các nhóm này bao gồm người Ainu, một nhóm người bản
địa có nền văn
hóa riêng, tôn giáo và ngôn ngữ riêng; chủ yếu là từ Okinawa,
Hàn Quốc, và Trung Quốc; và những
người nhập cư gần đây đang sinh sống ở đó. Hoa Kỳ là một ví dụ tuyệt
vời về một dân tộc có nhiều nhóm văn hoá lớn sống trong ranh giới địa lý của nó; người Mỹ gốc Âu, người Mỹ gốc Phi,
người Mỹ bản địa, người
Latinos, và các nền văn hóa
châu Á khác nhau tất cả đều hiện diện tại Hoa Kỳ. Tất cả
các thành viên của các nhóm văn hóa khác nhau đều là công dân của dân tộc Hoa Kỳ.
Văn hóa và Chủng tộc
Chủng
tộc thường thuộc về các tương đồng dựa trên cơ sở di truyền hoặc
dựa trên cơ sở sinh học của con người, có thể phân biệt, vừa duy nhất vừa có chức năng đánh
dấu hoặc riêng biệt các
nhóm người với nhau. Tuy nhiên, chủng tộc là một thuật ngữ ít mang tính sinh học so với tính chính trị hay xã hội. Mặc dù các thể loại chủng tộc không
chính xác là một hệ thống phân loại, nhưng
người ta thường đồng ý rằng
chủng tộc là một thuật ngữ mang tính bao trùm toàn bộ hơn so với thuật ngữ văn hóa hoặc dân tộc. Không phải toàn
bộ người da trắng, chẳng
hạn, là một bộ phận của cùng một nền văn hóa hoặc dân
tộc. Nhiều quốc gia tây Âu chủ yếu bao gồm những người thuộc chủng tộc da trắng. Tương
tự như vậy, trong số những
người da trắng cũng có những khác biệt nhất định về văn hóa. Hãy xem xét những khác biệt văn
hóa giữa các quốc gia chủ yếu là
người da trắng
của Vương quốc Anh, Na Uy, và Đức để hiểu sự khác biệt giữa
văn hóa và chủng tộc.
Đôi khi chủng
tộc và văn hóa dường như phải sát
cánh bên nhau để tạo ra các khác biệt rõ ràng và quan trọng
giữa các nhóm trong một xã hội lớn hơn; và đôi khi chủng tộc đóng một phần vai trò trong việc thành
lập các nhóm văn hóa riêng biệt. Một ví dụ tuyệt vời về sự tương tác văn
hóa và chủng tộc là trong lịch sử của người Mỹ gốc Phi tại Hoa Kỳ. Mặc dù chủng tộc có thể
đã được sử dụng ngay
từ đầu để tách người Mỹ gốc Phi
khỏi người Mỹ da
trắng, còn nền văn hóa Mỹ gốc Phi lại
cung cấp một nguồn bản
sắc mạnh mẽ và độc đáo cho
các thành viên của chủng tộc da đen ở Hoa Kỳ. Giờ đây nhiều học giả thừa
nhận rằng nền văn hóa Mỹ gốc Phi, với gốc rễ của nó trong các
nền văn hóa châu Phi truyền thống, là riêng biệt và độc đáo và đã phát
triển một tập hợp các mô thức văn hóa riêng. Mặc dù một người có
gốc Nigeria và một người Mỹ gốc Phi đều từ cùng một chủng tộc, nhưng họ lại xuất phát từ hai nền văn hóa khác
biệt. Tương tự như vậy, không tất cả những người Mỹ da đen đều là một phần của nền văn hóa người Mỹ
gốc Phi, vì nhiều người có một quá
trình xác lập bản sắc văn hóa chủ
yếu với các nền văn hóa trong vùng biển Caribbean, Nam Mỹ, hoặc châu Phi.
Tuy
nhiên chủng tộc có thể tạo thành cơ sở cho các
hoạt động truyền thông có hại có thể là một trở ngại chủ yếu cho quá trình giao tiếp liên văn hóa. Việc
phân loại con
người theo chủng tộc ở Hoa Kỳ, chẳng hạn, đã trở thành cơ sở cho sự phân biệt đối xử và đàn áp có hệ thống đối với người da màu.
Văn hóa Tộc người
Nhóm
tộc người là một thuật ngữ khác
thường được sử dụng thay thế cho thuật ngữ văn hóa. Tộc người thực sự là thuật ngữ được dùng để chỉ một loạt các nhóm người có thể có chung một ngôn ngữ,
nguồn gốc lịch sử, tôn giáo, quá
trình đồng nhất với một hệ thống văn hóa hoặc nhà nước dân tộc chung. Bản chất của mối quan hệ của một nhóm tộc người với nền văn hóa của nó sẽ
thay đổi rất nhiều tùy thuộc vào một số đặc trưng quan trọng khác. Ví dụ,
nhiều người ở Hoa Kỳ vẫn duy trì lòng trung thành với nhóm tộc người của tổ tiên họ,
những người di cư từ các quốc gia và các nền văn hóa khác. Rất nhiều người vẫn nói rằng họ là người Đức, Hy Lạp hay
Armenian khi tính
tộc người được chỉ định bởi cái nhãn gắn liền với tổ tiên và có lẽ với
một số phong tục tập quán và
thực hành có nguồn gốc từ nhóm tộc người được đặt tên.
Thực tế, nhiều người trong số các
cá nhân này không phải thành viên tiêu biểu của nền văn hóa Mỹ gốc Âu. Trong các
trường hợp khác, việc đồng
nhất tính tộc thuộc
có thể hoàn toàn trùng khớp với nền văn hóa. Ở Nam Tư cũ, chẳng hạn, có ít nhất ba
nhóm tộc người chủ yếu - Slovenia, Croatia, và
Serbia - mỗi tộc người đều
có ngôn ngữ riêng và nền văn hóa khác biệt, bị buộc phải gắn với một nhà nước dân tộc sau Chiến tranh Thế giới II. Vì các thành viên của một nhóm tộc
người có thể là
một phần của nhiều nền văn hóa và / hoặc quốc gia khác nhau. Ví dụ,
người Do Thái có
chung một quá
trình đồng nhất hóa tộc người, mặc dù họ thuộc về những
nền văn hóa rất khác nhau và là công dân của nhiều quốc gia [nation] khác nhau.
Văn hóa, tiểu văn hóa, và Đồng văn hóa
Tiểu văn hóa cũng
là một thuật ngữ đôi khi được dùng để chỉ các nhóm dân tộc thiểu số và chủng tộc có chung một nhà nước-dân tộc phổ biến với các
nền văn hóa khác và một số khía cạnh của nền văn hóa lớn hơn. Thông thường,
ví dụ, người Mỹ gốc Phi, người Mỹ gốc Ả Rập, người Mỹ gốc Á, người Mỹ bản địa,
Latinos, các nhóm khác được gọi là các tiểu văn hóa tại Hoa Kỳ.
Tuy nhiên thuật ngữ này, có những nghĩa rộng mà chúng ta thấy có vấn đề, bởi vì nó cho thấy sự lệ thuộc vào nền văn hóa Mỹ gốc Âu lớn hơn.
Tương tự như vậy, thuật ngữ đồng văn hóa, thỉnh thoảng cũng được sử dụng nhằm nỗ lực tránh hàm
ý về một mối quan hệ thứ bậc giữa nền văn hóa Mỹ gốc Âu và các nhóm văn hóa quan
trọng khác hình thành nên thể
khảm văn hóa Hoa Kỳ. Đối với chúng ta
thuật ngữ này cũng có
vấn đề. Đồng văn hóa cho thấy có một tổng thể văn
hóa duy nhất tại Hoa Kỳ, hoàn
toàn làm nổi bật quá mức nhóm văn hóa Mỹ gốc Âu. Trong một thế giới ngày càng thu hẹp và phụ thuộc lẫn nhau, hầu hết các nền văn hóa phải cùng tồn tại bên cạnh các nền văn hóa
khác. Chúng tôi muốn xem người Mỹ gốc Phi, người Mỹ gốc Ả Rập, người Mỹ gốc Á, người Mỹ bản
địa, người Latinos, và các nhóm người
tương tự là các nền văn hóa thực sự của riêng họ. Do đó thuật ngữ đồng văn hóa làm cho chúng ta trở nên dư thừa. [Lustig và Koester 1999: 33-36]
Văn hóa và bản sắc
Văn hóa không đồng
nhất với bản sắc. Các
bản sắc bao gồm các câu trả lời của mọi người cho câu hỏi: Tôi
thuộc về đâu? Chúng có
cơ sở trên những
hình ảnh và khuôn
mẫu chung và những cảm xúc liên kết với các lớp quan niệm bên ngoài, chứ không phải với các giá trị. Các quần thể cư dân tranh đấu với nhau dựa trên cơ sở những bản sắc được “cảm nhận” khác nhau của họ có thể lại
có chung các giá trị như nhau. Điển
hình là các khu vực ngôn ngữ học ở Bỉ, các tôn giáo ở Bắc Ireland, và
các nhóm bộ lạc ở châu Phi. Một bản sắc chung cần một cái chung khác: Ở nhà, tôi
cảm thấy Hà Lan lại rất khác với
những người châu Âu khác, chẳng hạn như người Bỉ và người Đức; ở châu Á hay
Hoa Kỳ, tất cả chúng ta đều
cảm thấy giống như người châu Âu. [Hofstede 2001: 10]
Đối
với một nhóm sắc tộc hoặc chủng tộc, không có bất cứ một chiếc hộp nào về bất kỳ một hình thức
chính phủ nào được gọi
là "Cablinasian"
[da trắng, da đen, da đỏ, da vàng]. Nhưng, tuy nhiên, ít
nhất cũng có một người Mỹ có thể kiểm tra chỗ đó. Tên của anh ấy là Tiger
Woods. Woods, tay
gôn trở thành hiện tượng, trả lời trong một cuộc phỏng vấn
rằng chính anh đã phát minh ra từ đó
khi còn là một đứa trẻ để mô tả cấu chủng tộc của mình: da trắng,
da đen, da đỏ và da vàng.
Trong việc xác định tổ tiên của mình, Woods đã mở
rộng cuộc thảo luận về chủng tộc ở người Mỹ, bằng cách làm nổi bật các sắc thái vô
tận của màu xám bắc
nhịp cầu nối liền sự phân chia giả tạo giữa "đen" và
"trắng". Đây là một bước đi táo bạo. Nhiều chức năng chính phủ - điều
tra dân số, hành động khẳng định, các chương trình giảm nghèo,
và bản vẽ của các khu
vực bàu cử Quốc hội - đều dựa trên số lượng của
bốn nhóm chủng tộc được
công nhận chính thức: Mỹ Da đỏ hoặc Alaska bản địa,
châu Á Thái Bình Dương hoặc Islander, đen và trắng. Những người
"Tây Ban Nha" có thể kiểm tra chiếc hộp để biết được xứ sở gốc của họ.
... Có lẽ các vấn đề quan trọng hơn,
sâu sắc hơn về bản sắc văn hóa - và lịch sử bất công chủng tộc của quốc gia - đã được đặt cơ sở trên những phân biệt chủng
tộc đã hình thành từ lâu đời. Nhưng đó chính
là cái cách mà Woods đã
thất bại trong việc làm cho phù hợp với những ý
tưởng đã được thiết lập từ
lâu đời về chủng tộc làm cho anh trở nên thú vị đến như vậy. [Barton 1997; được trích dẫn bởi Lustig và Koester 1999: 139]
______________________________________________
Nguồn: Spencer-Oatey, H. 2012. What is culture? A compilation of quotations.
GlobalPAD Core Concepts.
Tác giả: Helen Spencer-Oatey, giáo sư đại học University
of Warwick, Vương quốc Anh, giám đốc Trung tâm Ngôn ngữ học ứng dụng, đại học
University of Warwick. Được đào tạo như một nhà
tâm lý học và một nhà ngôn ngữ học, sau một thời gian ngắn làm việc tại doanh
nghiệp, Helen ra nước ngoài để dạy tiếng Anh. Công việc giảng dạy đầu tiên của bà là ở Hồng Kông,
và đó là nơi lần đầu tiên Helen gặp phải một số vấn
đề ngôn ngữ có thể được sử dụng trong các nền văn hóa khác nhau. Càng ngày Helen càng quan tâm đến lĩnh vực này, và
một vài năm sau đó, bà
đến làm việc tại Đại học Giao thông Thượng Hải và dạy một khóa học về ngôn ngữ
và văn hóa. Helen bắt đầu thu thập các kinh nghiệm ở Trung Quốc và đã viết cuốn sách đầu tiên
về phong tục tập
quán và ngôn ngữ tương tác xã hội. Khi trở về Anh vào năm 1988, Helen làm nghiên cứu sinh tiến sỹ tại Đại học Lancaster về quan niệm của người Trung Quốc và người Anh trong mối
quan hệ giữa giáo viên
hướng dẫn và thực tập sinh sau đại học. Sau đó bà trở thành giảng viên của Đại học
Bedfordshire. Helen
bắt đầu một dự án hợp tác nghiên cứu với Trường Đại học Kinh tế Quốc tế tại
Bắc Kinh về các mối quan hệ kinh doanh Trung Quốc-Anh, và điều này đã làm nảy sinh một số vấn đề giao tiếp hấp dẫn, kích thích sự
quan tâm của bà về lĩnh vực này hơn nữa. Năm 2002, Helen đã được bổ nhiệm (thay mặt cho
Vương quốc Anh) quản
lý Chương trình eChina-UK
Programme, và bắt
đầu đặt trụ sở tại Đại học Cambridge. Bà làm việc cho Đại học Warwick
từ năm 2007, và
trở thành giám đốc của Trung tâm Ngôn ngữ Ứng dụng của Đại học Warwick.
Helen đã được công bố nhiều công trình về lĩnh vực truyền
thông liên văn hóa. Các
cuốn sách liên quan bao gồm Tương tác liên văn hoá: Một cách tiếp cận đa ngành (đồng tác giả
với Peter Franklin, Palgrave, 2009), Diễn ngôn Văn hoá: Văn hóa, Truyền
thông và Lịch sự (Continuum, 2000 và 2008), Sổ tay Giao tiếp Liên văn hóa (đồng biên tập với Helga
Kotthoff, Mouton de Gruyter, 2007), và Các sáng kiến học
tập bằng điện ở Trung Quốc:
Sư phạm, chính sách và Văn hóa (Hồng Kông University
Press, 2007). Bà
còn công bố hang loạt bài
viết trong các tạp chí, bao gồm cả Tạp chí Pragmatics, Tạp chí
Intercultural Studies, Multilingua, tạp chí Truyền thông Châu Á Thái Bình Dương
và Tạp chí Tâm lý học Liên
văn hóa. Mới đây, bà
đã tham gia nghiên cứu giảng dạy các kỹ năng liên văn hóa trong các trường
học ở một loạt quốc
gia châu Âu.
References
Adler,
N. (1997) International Dimensions of Organizational Behavior. 3rd ed. Ohio:
South-Western College Publishing.
Apte,
M. (1994) Language in sociocultural context. In: R. E. Asher (Ed.), The
Encyclopedia of Language and Linguistics. Vol.4 (pp. 2000-2010). Oxford:
Pergamon Press.
Avruch,
K. (1998) Culture and Conflict Resolution. Washington DC: United States
Institute of Peace Press.
Ferraro,
G. (1998) The Cultural Dimension of International Business. 3rd Edition. New
Jersey: Prentice Hall.
Hofstede,
G. (1991/1994) Cultures and Organizations: Software of the Mind. London:
HarperCollinsBusiness.
Hofstede,
G. (2001) Culture's Consequences. Comparing Values, Behaviors, Institutions,
and Organizations across Nations. 2nd ed. London: Sage.
Lustig,
M. W., & Koester, J. (1999) Intercultural Competence. Interpersonal
Communication across Cultures. 3rd ed. New York: Longman.
Matsumoto,
D. (1996) Culture and Psychology. Pacific Grove, CA: Brooks/Cole.
Saville-Troike,
M. (1997) The ethnographic analysis of communicative events. In: N. Coupland and
A. Jaworski (eds) Sociolinguistics. A Reader and Coursebook. pp.126–144.
Basingstoke: Macmillan.
Smith,
P. B., & Bond, M. H. (1998) Social Psychology across Cultures. London:
Prentice Hall Europe.
Schein,
E. (1984) Coming to a new awareness of organizational culture. Sloan Management
Review 25(2): 3–16.
Schein,
E. (1990) Organizational culture. American Psychologist 45(2): 109–119.
Spencer-Oatey,
H. (2008) Culturally Speaking. Culture, Communication and Politeness Theory. 2nd
edition. London: Continuum.
Triandis,
H. C. (1994) Culture and Social Behavior. New York: McGraw Hill.
Trompenaars,
F., & Hampden-Turner, C. (1997) Riding the Waves of Culture. Understanding
Cultural Diversity in Business. 2nd ed. London: Nicholas Brealey.
Žegarac,
V. (2007). A cognitive pragmatic perspective on communication and culture. In
H. Kotthoff & H. Spencer-Oatey (Eds.), Handbook of Intercultural
Communication. Berlin: Walter de Gruyter, 31–53.