Lịch
sử sâu và Thời đại đá cũ
Steven Mithen
Người
dịch: Hà Hữu Nga
Có thể bạn đọc những dòng này khi
đang thưởng thức tách cà phê buổi sáng? Hoặc cũng
có thể với ly vang chiều muộn? Bạn có theo dõi trận cầu phát trực tiếp trên TV đêm qua? Gần
đây bạn đọc được cuốn sách nào thú vị không? Ô, thế còn khoản ái ân của bạn độ
này ra sao? Theo Daniel
Lord Smail tất cả các hoạt động như
vậy đều là động lực thực sự của lịch sử. Hãy quên
đi những con người vĩ đại với những tư tưởng lớn lao, cuộc diễu hành của tiến bộ hay là “mầm mống của biến đổi”: bản chất của quá
trình lịch sử chính là thao tác của môn
hóa học con người bởi các chất
mà chúng ta tiêu
thụ, và chính các hoạt động
mà chúng ta tự nguyện can dự hoặc chúng ta
buộc phải can dự mà hoàn toàn trái với ý muốn của mình.
Một chủ đề đầy khiêu khích liên quan đến tầm quan trọng của
quá khứ lâu dài và liên
quan đến môn hóa học thần kinh tiến hóa của chúng ta, Về
lịch sử sâu và Trí não nhằm tái suy tư về mối quan hệ giữa sinh học và văn hóa,
đi ngược lại với giả định đề quen thuộc cho rằng văn hóa chỉ đơn giản phát sinh từ sinh học. Có vẻ như
con đường quay
trở lại vượt qua điểm khởi đầu thông thường của lịch sử,
các nền văn minh sớm nhất từ
năm ngàn năm trước, cho
đến thời kỳ đồ đá cũ
- Smail lập luận
– khi các đặc
điểm chủ chốt của môn hóa học thần kinh của chúng ta được phát triển. Vì vậy mà có thể cho rằng môn hóa học thần kinh đã định hình quá trình lịch sử nhân loại
cho đến tận ngày nay: “Những cái được coi là tiến bộ trong nền văn minh nhân loại”, ông
viết, “lại thường không có gì khác hơn những phát triển mới trong nghệ thuật thay đổi hóa học của cơ thể”.
Điều mà Smail đưa ra không phải
là một phiên bản khác của môn tâm lý học
tiến hóa thô sơ đã trở nên
phổ biến trong những năm gần đây: đó là Leda Cosmides, John Tooby, Steven
Pinker và các môn sinh của họ, những người cho rằng chúng ta vẫn khẳng định về phương diện sinh học về tư duy Thời đại đá được tạo lập bởi các
mô hình tâm thần tiến hóa để giải quyết
các vấn đề về môi trường Pleistocen, chủ yếu là các môi trường thảo nguyên
châu Phi từ ba triệu năm
trước. Smail đã xuất trình một bài phê bình xuất sắc về môn tâm lý học tiến hóa mà tôi đã từng đọc,
và sau đó tiến đến một lập luận
tinh tế hơn nhiều về ý nghĩa của quá khứ tiến hóa của chúng ta dưới ánh sáng của
lịch sử nhân loại.
Phần đầu của cuốn sách lập luận về sự tồn tại của môn
“lịch sử sâu”, bằng cách chê bai các sử gia còn đang bám víu lấy ý tưởng cho rằng
bất cứ những
gì xảy ra hơn
năm ngàn năm trước đều không liên
quan gì đến thế giới hiện đại và thân
phận con người. Trong
trường hợp này tôi phải dùng từ ngữ của Smail
chừng nào các sử gia vẫn tồn tại, vì sau hơn một thế kỷ khảo cổ học tiền sử mà họ vẫn
còn thụt lùi đáng kinh ngạc về
một thời đại khác. Ông giải thích cái
cách thức mà vào những năm
cuối thế kỷ 19, lịch sử đã
tạo dựng
một chỗ trú ẩn cho
riêng mình bằng cách ưu tiên cho việc nghiên cứu các tài liệu bằng văn bản viết hơn hẳn so với các dấu ấn khác mà quá khứ để lại: chủ yếu
là các hiện vật đã trở thành chất liệu cốt lõi của khảo cổ học tiền
sử. Điều đó cho phép các nhà sử học bám
víu vào tính chính thống Kinh thánh về quá khứ sâu,
và để tránh né những vấn
đề khó nhằn về các công cụ bằng đá và các
di vật mà con người để lại cùng với xương cốt
của các loài động vật đã tuyệt chủng (như voi ma mút
chẳng hạn) vốn được phát hiện từ các lớp sỏi cuội sông, đã thách thức tính xác thực của sách
Sáng thế của Kinh Cựu ước. Như vậy, lịch sử đã tự ly thân với việc nghiên cứu quá khứ trước khi
có các văn bản viết đầu tiên, và khiến cho
một số người tin (rõ ràng, một
số vẫn tin) rằng không hề có gì
trước lịch sử - không có gì hơn một
quá khứ tiền sử không hề biến đổi.
Với tư cách là một nhà
khảo cổ học, tôi bị hấp dẫn bởi quan
điểm của Smail về vai trò của các
tư liệu văn bản viết của lịch sử.
Ông lập luận rằng thông tin được
cung cấp một cách cố ý trong các văn bản viết thường ít đáng tin cậy
nhất. Các thông tin
đáng tin cậy hơn thường là loại thông tin
trôi nổi ngẫu nhiên vào các tài
liệu mà không cần tác giả phải
có ý thức rõ ràng về
chúng. Tính chất
không cố ý có nghĩa là chúng ta có thể tin tưởng các sự kiện xuất hiện từ phân tích [của họ] đúng theo cách mà chúng
ta có thể không bao giờ thực sự tin là các sự kiện đó cố ý truyền
đạt... Các ý nghĩa không định trước được phát hiện trong tất cả
các tài liệu cũng giống như các lớp trầm tích đã
kết tủa từ dung dịch. Hãy thu thập loại trầm tích đó.
Hãy đổ thêm nước và
khuấy vẩn nó lên. Giờ đây những gì bạn
có được hoàn
toàn tương tự như loại dung
dịch gốc, đó chính là
thứ mà người Pháp gọi là một loại
mentalité tâm tính và từ chất liệu đó chúng ta
có thể viết nên các bộ sử của mình.
Quá trình này, Smail lập luận, lại gần với cách
thức mà các nhà khảo cổ xử lý với các hiện vật hơn rất nhiều so với quan
điểm truyền thống về cách các
sử gia đọc các văn bản. Tuy nhiên gần đây, một số nhà
khảo cổ học, đã đưa ra lập luận ngược lại cho
rằng chúng ta nên giải thích các
mảnh gốm và mảnh đá như thể chúng là một phần của một văn bản được tạo ra một cách có chủ đích, chứ không
phải là loại rác thải vô tình bỏ đi.
Tôi chưa bao giờ thấy những lập luận này
có tính thuyết phục, chính vì Smail
rất quan tâm đến các vấn đề về tính chủ đích như vậy.
Không còn nghi ngờ gì nữa, lịch sử loài người bắt đầu từ
rất lâu trước khi có các văn bản viết ra đời từ năm ngàn năm trước và cần phải nghiên cứu tất cả các loại
dấu ấn mà con người để lại, chứ không chỉ là văn bản và các
hiện vật, mà còn là ngôn ngữ và các chuỗi ADN nữa. Các nhà cổ học và địa chất thế kỷ XIX thường ngoại suy về sự tương đồng giữa các bằng chứng trầm tích, hóa thạch
và hiện vật, còn các trang sách thì chúng ta chỉ cần
học chữ là đọc được. Phép ngoại suy này hiện được áp dụng mạnh mẽ cho nghiên cứu ADN, vì các chuỗi ADN cơ bản thực sự chứa đựng lịch sử tiến hóa của loài người, mặc dù bằng một thứ ngôn ngữ mà chúng ta chỉ mới bắt
đầu đọc.
Việc xác định chiều sâu của quá khứ buộc người ta
phải đi tìm sự khởi đầu của lịch sử nhân loại và điều đó đưa chúng ta
vào một tình thế khó khăn - có
thể khó khăn hơn những gì đã
được Smail đánh giá cao. Có lẽ không có gì phải tranh
cãi khi cho rằng những thành viên nào của loài
người không giữ bất kỳ một hồ sơ văn
bản viết về quá khứ của mình thì họ vẫn là con người lịch sử mà các xã hội, văn
hóa và hành vi của họ chỉ có thể được
hiểu biết một cách
đầy đủ bằng cách biết được
những gì đã xảy ra trước đó. Các bằng chứng vật chất còn lại của họ cho thấy
rõ ràng một ý thức về cả quá khứ lẫn tương lai.
Nhưng còn những loại Homo khác
sống trong thời đồ đá cũ, cũng như những loại đồng đại với
hoặc trước cả loại Homo sapiens đầu tiên có niên đại khoảng 200.000 năm cách
ngày nay thì sao? Các loại chẳng hạn như Homo neanderthalensis, Homo heidelbergensis
và Homo erectus có tâm tính và khả năng ngôn ngữ có lẽ hoàn toàn khác với
chúng ta. Liệu họ đã có ý thức về quá khứ của
mình chưa? Họ có tự đánh giá rằng
bản thân họ là những con người có lịch sử không?
Các tục lệ mai táng của người Homo neanderthalensis cho thấy rằng họ có thể đã nghĩ như vậy,
nhưng ngay cả loại Homo
này cũng đã thể hiện
tính lặp lại một cách chính xác trong kỹ nghệ chế tác công cụ đá trải qua hàng
thiên niên kỷ, mà chỉ có những biến đổi thứ yếu ở một số khía cạnh kỹ nghệ nhất
định. Thực tế thì nhiều nhà
khảo cổ học đã coi giai đoạn đồ đá cũ sơ kỳ là một giai
đoạn “không có
lịch sử”, một thuật ngữ
được Oswald Spengler đề xuất và được Smail dẫn ra để phủ nhận quan điểm cho rằng các giai đoạn như vậy đã từng tồn
tại. Smail có thể đã nghiên cứu nhiều về thời đại đồ đá cũ, và những gì mà ông gọi là “huyền thoại
về sự ngưng trệ
thời Đá cũ”, trên thực
tế, lại có thể là một hiện thực trước Homo sapiens.
Một số nhà khảo cổ học, trong đó có
tôi, lại nhận thấy một sự đột phá triệt để, cả
với sự xuất hiện của người
Homo sapiens hay
đúng ra là sau đó, vào 70.000 năm
trước, khi các hiện vật mang tính biểu tượng rõ ràng đầu tiên
và cũng như thuật trang điểm cơ thể đã được biết đến. Các hiện vật ấy được tìm thấy trong hang Blombos
tại Nam Phi, có niên đại ngay trước khi cả cộng đồng người người Homo sapiens đông
đảo từ
ngôi nhà châu Phi của mình – chuyển
đến sinh sống tại châu Á, châu Âu và cuối
cùng là châu Mỹ. Đây cũng là
khởi đầu của sự thay đổi văn hóa tích lũy, cùng
với hành vi mang tính biểu trưng trong tất cả
các biểu hiện nghệ thuật và tôn giáo của họ. Tôi đoán là 70.000 năm trước rất có thể thời gian khi các giai đoạn cuối cùng của quá trình tiến hóa ngôn ngữ đã
diễn ra, bản thân nó có lẽ
là “sự kiện xúc tác”,
đã khởi động loại
tiến trình lịch sử mới mà Smail đã đề phòng chúng ta chấp nhận.
Trong khi giai đoạn từ 200.000 đến 70.000 năm trước đây
chắc chắn đánh dấu sự khởi đầu của một tiến
trình lịch sử mới, thì nó lại không thể là
sự khởi đầu của bản thân lịch sử. Vì như Smail thừa
nhận một cách đúng đắn, ngay cả các
họ hàng não nhỏ của chúng ta, những con tinh tinh và khỉ đầu chó, cũng có lịch sử; mà trật tự xã hội hiện
tại của chúng chỉ có
thể được giải thích từ một chuỗi liên
tiếp các liên minh, tình bạn, thù hằn và mưu
toan trong quá khứ. Các
cá thể theo dõi các hành vi vị tha hay tự phục vụ của kẻ khác và điều chỉnh hành động
của mình cho phù hợp. Vì vậy, thực
sự phải có Homo não lớn hơn nhiều,
nhưng vẫn còn là Homo tiền hiện đại, đặc biệt là nếu thực sự áp lực chọn
lọc chủ chốt tạo ra được những bộ não
lớn ấy là áp lực để
theo dõi một thế giới xã hội ngày càng trở
nên phức tạp. Nhưng liệu người Neanderthal đã
biết rằng bản thân họ là những con người lịch sử hay chưa thì vẫn còn chưa rõ ràng, hệt như đối với người bà con linh trưởng
của chúng ta ngày nay.
Thật vậy, một vấn đề mà Smail
tranh luận là liệu việc có được một ý thức
lịch sử có phải là điều kiện
tiên quyết cho việc có một lịch sử hay
không.
Cái gọi là “Cuộc cách mạng Đá mới” là một ý tưởng có phần gây tranh cãi nhiều hơn cả
ý tưởng mà Smail thừa nhận. Ông
sử dụng thuật ngữ
mà Vere Gordon Childe đã
sáng tạo trong những
năm 1930 cho giai đoạn từ khoảng 10.000 ngàn năm đến 5000 năm trước, khi hầu như trên toàn thế giới,
các nhóm săn bắn hái lượm di động đã bắt đầu trở thành các cộng đồng
nông nghiệp định
cư, và từ đó nhanh
chóng chuyển sang thành lập các thị trấn, và ở một số vùng đã
bắt đầu xuất hiện các xã hội có nhà nước đầu tiên. Trên phạm vi toàn cầu, đây là một phản ứng của người Homo sapiens đối
với bước khởi đầu thời Holocene vào khoảng 11.600 năm trước, với khí hậu ấm và ẩm ướt
hơn so với thời Pleistocen trước
đó. Các con đường dẫn đến
định cư và làm nông rất khác nhau ở các vùng khác nhau của thế giới, trong đó định
cư và làm nông xuất hiện độc lập
với nhau, khi quá trình làm nông bắt đầu phát triển rộng khắp từ các trung tâm như vậy.
Các cuốn sách gần đây của Graeme và Clive Barker Gamble
lập luận chống lại quan niệm về một cuộc Cách mạng đá mới. Họ thiên
về chủ trương tính liên tục dài hạn: một sự thay đổi chậm và dần dần từ thời
Đá cũ đến thời
Đá mới mà không có các ngưỡng biến đổi rõ rệt. Tôi đứng
về phía Smail và tranh đấu cho sự hiểu biết
về cách thức mà các đồng nghiệp khảo cổ của tôi có thể khẳng
định rằng thời Đá mới mọi thứ khác chứ không phải là những thay đổi cơ
bản và không thể đảo ngược về nhân khẩu học, chính trị, xã hội và kinh tế. Mặc dù thuật
ngữ “Cách mạng” có thể không phù hợp cho một quá trình xảy
ra trong năm ngàn năm, và thuật ngữ “Đá mới” không nên được sử dụng bên ngoài châu Âu
và Cận Đông, cuộc “Cách mạng Đá mới”
thực sự là cái
mà Smail gọi là “điểm tựa của đại chuyển
đổi” trong lịch sử nhân loại.
______________________________________
Còn tiếp...
Nguồn: Steven Mithen 2008. When We Were Nicer (On
Deep History and the Brain by Daniel Lord Smail, California, 2007). London Review of Books.
1. Steve Mithen là giáo sư khảo cổ học tại Đại học Reading, Berkshire,
Vương quốc Anh. Ông đã viết một số cuốn sách trong đó có The Singing Neanderthals and The Prehistory of the
Mind: The Cognitive Origins of Art, Religion and Science (Người Neanderthal Ca hát và Tư
duy Tiền sử: Các nguồn
gốc nhận thức
của nghệ thuật,
tôn giáo và khoa học). Tính lưu động nhận thức là một thuật ngữ
phổ biến đầu tiên được Mithen sử dụng trong cuốn
sách Tư
duy Tiền sử: Các nguồn
gốc nhận thức
của nghệ thuật,
tôn giáo và khoa học của ông. Thuật
ngữ tính lưu động nhận thức mô tả cách thức
tiến hóa tư duy của động vật linh trưởng theo mô-đun trở thành tư duy của con người hiện
đại bằng việc kết hợp nhiều
cách xử lý
tri thức và sử dụng các công cụ để tạo ra một nền văn minh hiện đại. Vào thời điểm đạt đến những tư tưởng gốc, thường rất
sáng tạo, dựa trên phép
ẩn dụ và ngoại suy, người hiện
đại đã trở nên khác với con
người cổ xưa. Như vậy, tính lưu động nhận thức là một yếu tố chủ chốt của ý thức chú tâm của con người. Thuật
ngữ này được sử dụng chủ yếu để làm
tương phản giữa tư duy của người hiện
đại, đặc biệt là những người sau 50.000 năm cách
ngày nay, với những loại hình người cổ xưa như
người Neanderthal và Homo erectus.
Các loại hình
người Neanderthal và Homo erectus dường như đã có một loại tâm tính mang tính lĩnh vực cụ thể về cấu trúc; một loạt
các lĩnh vực nhận thức phần lớn bị cô lập để hoạt động trong các thế giới xã hội, vật
chất, và thế giới tự nhiên. Đó được gọi là “những
loại hình tư duy dao nhỏ Thụy Sĩ” với một tập hợp các mô-đun trí
tuệ đặc biệt cho các lĩnh vực cụ thể như lịch
sử xã hội, lịch sử tự nhiên, kỹ thuật và ngôn ngữ. Với sự ra đời của con người
hiện đại, rào cản giữa các lĩnh vực này dường như đã được loại bỏ phần lớn theo phương thức chú tâm và do đó nhận thức đã ít
bị phân cắt và lưu
động hơn. Ý thức tất nhiên có tính chú tâm, tự phản ánh, và vai trò
của trí tuệ mô-đun theo “phương
thức mặc định” thần kinh là một chủ đề cho các nghiên cứu hiện thời về ý thức tự phản ánh
của con người. Mithen sử dụng một cách tiếp cận liên ngành phù hợp, kết hợp các quan sát của khoa học nhận thức,
khảo cổ học, và các lĩnh vực khác, nhằm
cố gắng đưa
ra một mô tả hợp lý về sự tiến hóa trí
tuệ tiền sử.
2. Daniel Lord Smail là giáo sư và chủ nhiệm lâm thời của Khoa lịch sử tại Đại học Harvard, nơi
ông nghiên cứu về lịch sử và nhân chủng học của các xã hội
Địa Trung Hải trong khoảng thời gian từ năm 1100 đến năm 1600 và về lịch sử sâu của nhân loại. Về lịch sử thời trung cổ châu Âu, ông
khám phá lịch sử xã hội và văn hóa của các
thành phố châu Âu Địa Trung Hải,
với trọng tâm là Marseille vào giai đoạn muộn của thời Trung Cổ. Ông bao quát nhiều chủ đề khác nhau, từ phụ nữ và người
Do Thái đến lịch sử pháp lý và hình ảnh không gian; đó cũng chính là chủ đề của cuốn sách đầu tiên của ông, Thuật vẽ bản đồ ảnh: Sở hữu và Bản sắc của Marseille cuối thời Trung cổ (1999). Công trình nghiên cứu này tiếp cận các biến đổi về văn hóa vật chất thời Trung Cổ bằng
cách sử dụng sổ sách của các hộ gia đình và các ghi chép về việc thu hồi nợ từ Lucca và Marseille. Công
trình của Smail về lịch sử sâu và về
lịch sử thần kinh là nhằm giải quyết một số nền tảng phương pháp luận và
lý thuyết của các phương pháp tiếp cận này đối với quá khứ của con người. Bài báo gần đây
nhất của ông theo hướng tiếp cận này đã
đặt vấn đề liệu có thể có một lịch sử thực thi sự tích trữ bắt buộc không. Ông
đã xuất bản một số sách gồm:
Tiêu dùng Công lý: Các cảm xúc, tính công khai, và Văn hóa Pháp luật tại
Marseille, 1264-1423 (2003); Về lịch sử sâu và Trí não (2008); cùng với Andrew Shryock và những người khác là cuốn Lịch sử sâu: Kiến trúc quá khứ và
hiện tại (2011). Smail đã được trao các giải thưởng và học bổng của Quỹ Quốc
gia về các
Khoa học Nhân văn, Hội đồng các hội học giả Mỹ, Quỹ
Guggenheim Foundation, và Viện nghiên cứu cao cấp Radcliffe; ngoài ra các ấn phẩm của ông cũng
đã nhận được nhiều giải
thưởng. Năm 2007, ông đã được trao giải Joseph R. Levenson Memorial
Teaching Prize của nghiên cứu sinh đại học Đại học Harvard; và năm 2014
là giải Everett Mendelsohn Excellence in
Mentoring Award của Trường Nghiên
cứu sinh Nghệ thuật và Khoa học.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét