Đa dạng Khảo cổ học (I)
Pierre Dupont
Người dịch: Hà Hữu Nga
I. Tượng thần Vishnu có mũ lễ ở Đông Đông Dương
Chúng ta biết rằng nền
văn minh Ấn-Môn Dvaravati hưng thịnh ở khu vực Thái Lan vào khoảng thế kỷ XI -
XII, được đặc trưng bằng một lối nhìn mang tính tôn giáo gần như chiếm ưu thế
tuyệt đối là Phật giáo, đặc biệt là hệ thống tượng Phật mà nền nghệ thuật Dvaravati
đã sáng tạo ra. Nhưng một số trung tâm Ấn Độ giáo cũng vẫn tồn tại chuyên thờ
Linga và Visnu bốn tay. Tôn giáo này được phát hiện trong giai đoạn Tiền Angkor
ở Cambodia bên cạnh tục thờ cúng Uma và Hari-Hara vẫn chưa thấy ở Thái Lan.
Các Iinga thuộc nhiều
loại, đáng chú ý nhất là ở Si Maha P'ôt (tỉnh Prachinburi). Các tượng Visnu, tất cả
đều có mũ lễ, được chia
thành hai biến thể, biến thể Si T'èp, chưa được xác định niên đại một
cách chắc chắn, và một biến thể
thuộc vùng bờ biển Thái
Lan, có thể đảm bảo là thuộc giai
đoạn tiền Angkor Campuchia.
Trong bài viết này chúng tôi sẽ khảo sát biến thể thứ hai, không thấy ở nơi nào
khác, đặc biệt là đối với nghệ thuật Dvaravati, không chỉ thuộc giai đoạn tiền
Angkor, hoặc thậm chí nền nghệ thuật đã được phát triển ở bán đảo Malaysia
thuộc vùng Ligor và C'àiya, do đó có lẽ thuộc một khu vực bên ngoài ranh giới Dvaravati cổ. Bằng cách nghiên cứu
các mẫu vật đã biết, có thể thấy rằng sự phát tán của chúng là do ngẫu nhiên.
Nhưng vì hầu hết các hiện vật đều nằm trong biên giới Thái Lan hiện tại nên đều
được nghiên cứu dưới danh nghĩa khảo cổ học Thái Lan.
Mô tả và phân loại tượng
Hiện có mười chín tượng được kiểm kê, cho thấy một số khác biệt về chi tiết, nhưng cũng như một số đặc điểm chung, chúng chắc chắn thuộc về một nguyên mẫu tượng học và khảo cổ học duy nhất. Dù phải chịu mức độ gãy vỡ khác nhau, nhưng tất cả các bức tượng đều thể hiện hình tượng Vishnu đứng với bốn cánh tay. Trên đầu bức thượng thường được phủ bằng một loại mũ chóp cao - hình trụ. Mỗi cánh tay trên đều cầm đĩa và ốc xà cừ, cánh tay dưới thì cầm một viên hình tròn (hoa sen) và chiếc chùy. Tượng trần, bán thân, không có đồ trang sức. Một tấm vải hình chữ nhật quấn chặt quanh eo xuống gần đến mắt cá chân tượng; các đầu mút của tấm vải được túm lại, kẹp phía trước cơ thể và buông thõng giữa hai chân; đôi khi người ta chạm một chiếc đai lưng để thắt chặt vuông vải. Trong hầu hết các trường hợp, đều thấy một chiếc khăn dài quấn quanh hông và cột vào phía bên phải, phủ lên trên lớp quần. Cuối cùng, các cánh tay trên thường tiếp hợp với phía sau của chiếc mũ trụ bằng hai dây trang trí hình vòm, trong khi một đầu của chiếc khăn hoặc thanh đá, được đặt ở bàn tay dưới bên phải để giữ viên hình tròn, nối liền với bệ tượng và làm chiếc chùy “có được chiếc giá đỡ cho nó”, mặt dưới phần này không chạm khắc có một mộng dài hình chóp cụt đặt khít vào một chiếc bình để làm lễ tẩy rửa.
Còn
có hai đặc điểm kỹ thuật khác
nữa có thể được quan
sát. Trước hết là cách thức xử lý bốn cánh tay trong bức tượng bán
thân. Tượng chạm
khắc với nhiều khí
cụ luôn luôn là
một vấn đề khó khăn cho các nghệ sĩ Viễn Đông khi họ muốn làm
cho tác phẩm của
mình có được một dáng vẻ phù hợp với giải phẫu cơ thể con người. Họ đã phát hiện ra trong thực
tế, có hai giải pháp
cho trường hợp
của bức tượng bốn cánh tay. Đầu tiên là làm
mỗi bên hai cánh tay ngay
trước khi tạo vai. Thứ hai
là tạc hai vai riêng biệt sau đó mới hợp nhất lại. Phương pháp
thứ hai này đã được thực hành ở đây, đến
chừng mức mà trạng thái của các bộ phận cơ
thể làm cho nó có thể chấp nhận
được; trong khi đó người ta
sử dụng các phương pháp khác cho các
tượng Vishnu nguyên gốc
của Si T'èp.
Đặc điểm thứ hai là sự hiện diện của
các yếu tố dây trang trí
hình vòm nối hai cánh tay trên với phần đầu, và có hai dây
trang trí, một được cấu thành bởi chiếc
chùy Vishnu, che ngang bên sườn cơ thể. Chúng kết nối với mảnh vải giữa hai chân và gần
như tạo thành một bệ đỡ nữa. Tôi đã nghiên cứu các đặc tính này (1) ở Campuchia, không chỉ thấy đối với tượng Vishnu, mà còn cả ở một số bức tượng Uma. Chúng
đáp ứng được
một số nỗi sợ hãi của
người nghệ sĩ, không dám chạm trổ các tay trên riêng
rẽ và sợ rằng chân
không đủ làm bệ đỡ cho cơ thể; chúng cũng được thiết
kế để đảm bảo sự cân bằng và ổn định tổng thể. Về cơ bản đó là một giai đoạn trung gian giữa các bức tượng Ấn Độ cổ xưa,
một phần chạm khắc tượng
tròn, một phần là phù điêu, còn
các tượng Khmer thuộc
nghệ thuật Roluos thì lại hoàn toàn là tượng tròn. Chúng tôi cũng biết
rằng việc phát triển kỹ
thuật này đã diễn ra trong nghệ thuật Kulen (2), vào đầu thế kỷ
thứ chín. Vì vậy, nó trở thành một loại mục tiêu cuối cùng
cho bất kỳ thử nghiệm nào
trong việc định niên đại tượng Visnu có
mũ trụ của Campuchia và mục tiêu phái sinh cho những bức
tượng cùng loại được tìm thấy trong các vùng lân cận. Cần phải ghi nhớ điều này. Nguồn gốc chính xác của hầu hết các tượng mà chúng ta
có sẽ được đề cập đến ở phần dưới đây.
Thái Lan lục địa, từ năm bức tượng
được tìm thấy ở L’âmp'o thuộc Si Maha
P'ôt (tỉnh Prachinburi) (pl. XXVII-A, B XXVII-XXIX-A, B-XXIX, XXX-B)
(3). Hai trong số đó (pi. XXVII-XXVII-A và B) có sự tương đồng rất rõ ràng đến mức là chúng có vẻ do cùng một tác giả hoặc cùng
một xưởng tạo tác. Đặc biệt là chúng được đặc trưng bởi các chi tiết sau đây: mũ
trụ lớn và hơi loe
ra ở phần trên, khuôn mặt tròn, thân
hình vạm vỡ với chiếc khăn quấn ngang và có một nút thắt lớn bên phải, tay trái đặt trên hông tượng, dưới chiếc khăn, tay phải đặt trên
cái núm gồ lên. Bức tượng của bệ XXVII-B tạo thêm sự khác biệt bằng các nếp gấp xiên dài được chỉnh trang duyên
dáng bằng chiếc đai lưng. Mỗi một bức tượng có ba
cánh tay bị gãy và cánh
tay còn lại cũng không phải
là nguyên bản. Tuy nhiên, ở
Si Maha P'ôt gần bức tường bao của Mirang P'râ
Rot, có một bệ tượng vẫn còn hai chân tượng bị gãy mà
tôi đã nhìn thấy vào năm 1937 và không
nghi ngờ gì nữa, đó có thể là chân tượng Visnu. Hai bức tượng khác, mặc
dù thuộc loại cùng một loại, có chung một số biến thể đặc biệt (Pi XXIX-XXIX-A và B.): Mũ
trụ cao hơn và hẹp hơn, ngay
dưới vành dây
lưng có buộc chiếc khăn mỏng để nếp gấp kín hơi lệch
về bên phải, cơ thể thường ít cơ bắp. Không
còn bệ tượng. Ngoài ra, một bức tượng không còn đầu và cánh tay, còn
bức tượng khác thì mất các cánh tay
trước.
Ba bức
tượng trước đó, mà đầu vẫn được lưu trữ, có cùng một loại mũ
được cắt ở trước tai và che phần cổ, mà trên đó chiếc mũ được chỉnh
trang. Về phần bức tượng trên kệ XXX-B, nó chắc chắn có niên đại muộn hơn so với những tượng khác: ngoài tỷ lệ
khá hài hòa, chúng
tôi nhận thấy sự hiện diện của một
loại hào quang và các
hoa tai được điêu khắc; các chi tiết của quần áo,
khăn, dải vải buông thõng được thực hiện rất
tự nhiên, chiếc mũ trụ vẽ một điểm trên trán
không khó để gợi nhớ một
chiếc mũ đã bị lấy mất khỏi tượng (xem pl. XXIX-B ). Bức
tượng này bị mất đế và một phần các
trụ chống.
Bốn bức tượng khác đã được tìm thấy ở Malaysia thuộc vùng người Thái, tương ứng Vieng Sra (pl. XXVIII-XXXI-A và B), Pec'àburi (pl. XXVIII-B) và Surat (pl. XXXI-A) (4). Hai phiên bản đầu tiên (pl. XXVIII-XXXI-A và B) cho thấy hai hình tượng của Si Maha P’ot tái tạo lại trên kệ XXVII một quan hệ họ hàng trực tiếp và cùng với nó tạo thành một loại tiểu nhóm. Tất cả các chi tiết đã được ghi nhận có thể tìm thấy ở đây: mũ trụ thấp và loe, cơ thể nổi rõ cơ bắp, khăn quàng ngang, vị trí của các cánh tay. Hơn nữa, những bức tượng này được bảo quản tốt hơn so với những bức tượng trước đó: một trong những bức tượng đó vẫn có đầu, hai cánh tay, đế tượng vẫn lưu lại dấu tích trụ néo ngang (khăn và chùy), và y phục vẫn gần như nguyên vẹn với dải vải buông thõng lưng chừng; điều khác biệt là bức tượng được bảo quản rất tốt, nhờ có tấm bia được dung làm đế tượng. Nó bị mất một chút của bàn tay và cái khí cụ được nắm giữ ở bàn tay phía trên bên phải, nhưng chúng ta vẫn biết đó là một vật hình đĩa. Ở đây chúng ta nhận thấy rõ vị trí chính xác của mỗi cụm hoặc chi tiết của hình tượng, cho phép chúng ta giải thích một cách chắc chắn các vết vỡ vẫn tồn tại trên mỗi bức tượng khác và tái tạo lại mô hình thể hiện trong phụ nhóm này. Bao gồm cả cách thức chúng ta nhìn thấy đầu mút của chiếc khăn thắt bên phải bỏ thõng xuống nền và những gì tạo thành hình dạng của chiếc chùy. Tuy nhiên, có một chi tiết mà bạn cũng có thể mong tìm thấy ở đây, đó là những yếu tố trang trí kiểu dây vòm gắn kết hai tay phía trên chiếc mũ miện. Chúng không thể hiện nguyên do mà tôi không biết, nhưng dưới đây tôi sẽ trở lại vấn đề này, để cho thấy rằng sự hiện diện lâu đời của chúng trên những bức tượng khác ở Thái Lan vẫn hoàn toàn là có thể.
Thoạt
nhìn, không có lời giải thích nào cho sự hiện diện của tấm
bia này, vì thế mà lần
này chúng ta phải đương đầu với một bức
phù điêu chứ không phải
là một tượng tròn. Tuy
nhiên không có gì phải nghi ngờ
rằng bản gốc đã được sao chép một bức tượng tròn, sau đó các chi tiết biểu thị các
mối quan tâm kỹ thuật (dải y phục buông thõng giữa hai chân, đầu
mút khan thả vào phía bên phải) được tái
tạo một cách cẩn
thận, mặc dù không cần thiết,
với cùng độ dày, cùng
sự chắc chắn tương tự như
trên các tượng tròn. Trái lại, bức phù điêu tạo cho các chi tiết y phục linh hoạt hơn và phù hợp hơn với
tính chất nhẹ nhàng
của nó.
Bức
tượng Visnu trên kệ XXVIII-B hơi khác so với các
bức tượng trước đây: mũ trụ
được phủ bằng một đường cong đúp có xu hướng trở thành đa giác, đặc trưng riêng có của một số tượng Si T'èp (i); nó nằm
trực tiếp trên đầu và phủ
xuống cổ, thay
cho loại mũ của những bức tượng khác. Y phục buông thõng xuống giữa và hai chân của nhân vật tạo
thành một khối duy nhất. Chi tiết
này và cách
thức tạo tác ấy được chạm khắc tạo thành trụ đỡ (quả chùy và
đường xống thõng xuống) cho
thấy bức tượng này có niên đại tương đối muộn hơn so với các tượng trước đó. Cách tạo
tác đôi chân - khá
lúng túng, với chiều dài các
ngón bằng
nhau, gợi nhớ đến cặp chân của một loài chim nước, và không có mô
hình mẫu - gần với dáng
vẻ của y phục, ngắn hơn so với y
phục của các tượng trước đó và chỉ buông xuống đến giữa bắp chân,
khiến cho liên tưởng đến bức tượng Phật Ấn-Môn muộn. Cuối cùng, một đặc điểm độc đáo trong loạt tượng này, là vuông vải khoác chéo được thắt bằng một chiếc đai lưng lỏng lẻo, thể hiện một hình bán nguyệt ở phía trước của cơ thể (5).
______________________________________
Nguồn: Pierre Dupont 1941. Variétés
archéologiques, Bulletin de l'Ecole française d'Extrême-Orient. Tome 41,
1941. pp. 233-254.
Tác giả: Pierre Dupont (1908 - 1955), thành viên của
các trường học tiếng Pháp ở vùng Viễn Đông, Tổng thư ký Học viện Phật giáo. Cực kỳ toàn diện và được đào
tạo đa ngành:
Cử nhân Nghệ thuật, Cao
học Thực hành Viện Dân tộc học, thường trú tại Viện Pháp quốc Amsterdam
(1933-1935) và Berlin
(1935-1936), ông học tiếng Hà Lan và nghiên cứu nghệ thuật Java và, đặc biệt hơn,
các đồ đồng của
thời kỳ Ấn - Java tại Đại học Leiden.
Ông được bổ nhiệm làm thành viên của EFEO tháng
1 năm 1936 và sau đó ông đến
Angkor, và Thái Lan. Ông phát hiện khảo cổ học Mon Dvaravati, và nó đã trở thành chủ đề nghiên
cứu chủ yếu của ông. Cùng với Goloubew,
ông thu thập thông tin về các
nghi lễ liên quan đến việc sử dụng
các trống đồng Mường và tham quan các di tích của Campa
(BEFEO 36). Tháng Tư năm 1938, ông trở thành người phụ trách phần nghệ thuật và khảo cổ tại Bảo tàng Louis Finot Hà
Nội. Tháng Tám năm 1941, ông
được bổ nhiệm làm Tổng thư ký Học viện Phật giáo tại Phnom Penh. Sau hơn mười năm
tại Việt Nam và Campuchia, ông trở
về Pháp (1947-1948),
và quay trở lại Sài Gòn vào tháng
Sáu năm 1948, ông trở thành
người phụ trách bảo tàng Blanchard de la Brosse. Quay trở lại Pháp vào cuối
năm 1950, ông được bổ nhiệm làm Giám đốc Viện Văn minh Ấn Độ vào năm 1954. Tuy
nhiên, sau một chuyến viếng thăm Tích
Lan và Pondicherry, ông đột ngột qua đời tại
Bangkok, khi ông chuẩn bị để
tham gia nghiên cứu tại Miến Điện.
Chú thích
(1) La statuaire en ronde-bosse dans l'Asie du Sud-Est. RAA., X, 97 et suiv.
(2) Cf. Chronique du BE., XXXVIII, 1938, 433.
(3) Le Visnu de la pl. XXVII-A, provenant exactement de Mirong P'râ Rôt, a été signalé et étudié par le R. P.
Juglar (BE, V, 1905, 115), par Lunet de Lajonquière (BCAL, 1909, 214-215, pl. II, fig. 5, fig. 11), par Voretzsch (OZ; VI, ii fig. 25), par M.
Cœdès (Collections archéologiques
du Musée de Bangkok, pl. IX). La tête, transportée à Tàk'ien par le P. Juglar, puis à Pêtriu, avait été rapportée à Bangkok par Lunet de Lajonquière au cours de sa mission, mais le corps n'y parvint à son tour qu'en 1927, après que M. Cœdès l'eut fait rechercher (Cf. Chronique du BE., 1937, 690-691). J'ai d'autre part publié les Visnu des planches XXVII-B et XXIX-A dans le BE., 1937, 691, pl. CXXIII. Les deux autres images sont inédites.
(4) La première statue a été déposée au Musée d'Àyuth'ia avant d'être transportée à Bangkok. Elle a été signalée par Lunet de Lajonquière (BCAL, 1909, 228-229; 1912, 52). Elle est reproduite dans JSS, XIX, pl. XIII, et G. Cœdès, Collections archéologiques du Musée de Bangkok, pl. IX. La deuxième est encore au Musée d'Àyuth'ia (Cf. Lunet de Lajonquière, BCAL, 1909, 228-229, pl. Ill, fig. 9). La troisième statue est inédite. La quatrième a figuré dans Boranâvatthâsâthâi nui Suyďn, de Luáng Borïban Bjrïph'ân, tome I, pl. XIIÎ, 1.
(5) G. Cœdês, Note sur quelques sculptures provenant de Çrïdeb (Siam). Mélanges d'orientalisme... Raymonde
Linossier, I, 158 et
suiv.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét