Đạo đức học Khảo cổ
Viễn cảnh triết học về thực hành Khảo cổ học
Chris Scarre and Geoffrey Scarre (chủ biên)
Người
dịch: Hà Hữu Nga
Giới thiệu
Cuốn sách này nhằm mục đích thúc
đẩy đối thoại giữa các nhà khảo cổ
học, nhân chủng học và triết học
về các vấn đề đạo đức học
đáng suy ngẫm nổi bật trong thực hành khảo cổ học đương đại. Chúng tôi tin rằng đây sẽ là nỗ lực đầu tiên nhằm trao đổi tri thức giữa các nhà khảo cổ và nhân chủng học
có suy tư về triết học, và các nhà triết học quan tâm đến khảo cổ học. Nhưng trong
bối cảnh ý thức ngày càng tăng về
tầm quan trọng của đạo đức khảo cổ
học và nhiều nan đề
khác, chắc chắn đây chưa phải là cuộc
trao đổi cuối cùng.
Hai mươi mốt tác giả của
cuốn sách gồm có mười nhà khảo
cổ học, bốn nhà nhân học và
bảy nhà triết học. Hai chủ biên thì một là khảo cổ học
và một là triết học. Kể
từ những năm 1980 đã có
nhiều công trình
hay và sáng tạo đề cập đến đạo đức học
khảo cổ của chính các nhà khảo cổ và một số tuyển tập về chủ đề này đã được xuất bản. Chắc chắn điều đó là tất yếu, vì vấn đề
đạo đức trong khảo cổ học chính
là những vấn đề của các nhà khảo
cổ. Đó là các nhà nghiên cứu trong lĩnh vực này gặp phải những vấn đề đầu tiên,
và các mối suy
tư của họ lại chứa đựng thẩm quyền
của kinh nghiệm. Việc phải giải quyết nan đề đạo đức
là một điều rất khác so với việc
lý thuyết hóa một cách trừu tượng về nó trong công việc nghiên cứu,
và có thể liên quan đến một đường cong trong
biểu đồ tri thức dốc hơn rất
nhiều.
Nhưng trong khi các nhà
khảo cổ có thể có lợi thế về kinh nghiệm liên quan, thì một số ít
cũng được đào tạo thành nhà triết học đạo
đức, với các công cụ khái niệm và kỹ năng phân tích đã được phát triển theo truyền thống
đó qua nhiều thế
kỷ. Các nhà tư tưởng
đạo đức phương tây đã vật
lộn trong hơn hai thiên niên kỷ với những vấn
đề sâu sắc và hóc búa về những loại người mà chúng ta muốn trở thành, những loại
hành vi mà chúng ta nên
thực hiện hoặc cần phải tránh, và
chúng ta nên đối xử với đồng loại của
mình như thế nào. Trong những năm gần đây,
cộng đồng triết học rất chú ý đến các vấn đề
đạo đức nảy sinh trong các bối cảnh đặc
biệt như pháp luật, điều trị y tế, nghiên cứu, công nghệ di truyền,
kinh doanh, lĩnh vực thương mại,
và quản lý môi trường. Việc hợp tác giữa
các triết gia và các nhà chuyên môn thuộc các lĩnh vực
này và các
lĩnh vực khác nữa đã đưa lại những tri thức mới và nhiều hiểu biết vốn không dễ nắm bắt. Vì vậy chúng tôi tin rằng các kết quả hạnh
phúc tương tự sẽ được khơi
dòng từ một suối nguồn nỗ lực chung của các nhà
khảo cổ, nhân học và triết học.
Trong khi đó, cuốn sách này không nhằm mục đích để bao quát mọi vấn đề đạo đức quan trọng về mặt lý thuyết hay thực tế mà
các nhà khảo cổ
học hoặc những
người có quan tâm đến chủ đề này phải đối mặt, vì phạm vi của vấn đề rất rộng lớn. Trong số đó, các chủ đề cần giải quyết là: các mối liên hệ của các nhà khảo cổ học với các tộc người bản địa; các hành
vi đạo đức, các tiêu chuẩn chuyên môn và trách nhiệm của các nhà nghiên cứu; vai trò của các
luật tắc đạo đức; quan niệm về giá trị của khảo cổ học; các khái niệm về cương vị quản lý và trông coi; ý nghĩa và các dính líu đến phương diện đạo lý của “di sản”, vấn đề địa phương và toàn cầu; câu
hỏi ai “sở hữu” quá khứ hoặc có quyền diễn giải nó; vấn đề của “trộm cắp” và buôn bán cổ vật; việc
trả lại cho chủ nhân các vật liệu xương cốt và các hiện vật có ý nghĩa văn hóa; và vấn đề xử lý với người đã chết của các nhà khảo cổ học.
Mục đích chính của cuốn sách là chỉ rõ tầm quan trọng của các vấn đề đạo đức cũng như các vấn đề có thể được tiếp cận bằng cách phân tích phù hợp hơn với
những cách phân tích đã được thực hiện. Do đó, các
nhà biên tập
không chia sẻ quan điểm của
Karen Vitelli, trong phần
giới thiệu tập hợp “Đạo đức học Khảo cổ” năm 1996 của cô, cho
rằng “Người ta không cần phải được đào tạo về triết học, không cần đào tạo thành một chuyên gia về pháp luật tài sản
văn hóa, hoặc thậm chí đã theo
dõi chặt chẽ bộ văn liệu ngày càng nhiều về đề tài này, mới có đủ điều kiện để dạy một khóa học
về đạo đức khảo cổ”. Nhưng Vitelli đã
nhận xét một
cách đúng đắn rằng “Bất kỳ nhà khảo cổ học nghiêm túc và có lương tâm nào
cũng sẽ nhận ra rằng ông/bà ấy vẫn nuôi dưỡng một gia tài kinh nghiệm liên quan” (Vitelli1996b: 21).
Nhưng sẽ là ngây thơ khi nghĩ rằng chỉ có kinh nghiệm
không thôi, cũng có thể trả
lời được tất cả các vấn đề về đạo đức. Ai đó có thể vừa là một nhà nghiên cứu nghiêm túc và
tận tâm, vừa là một
con người tử tế trong hành động, mà không nhất thiết phải tìm cách dễ dàng thẩm định yêu cầu về đạo đức, cân
nhắc và quyết định giữa các
lợi ích xung đột, hoặc xác định đúng bổn phận hoặc hợp
đạo lý để làm - lại càng không mở một khóa học về đạo đức khảo cổ
học. Theo quan điểm của chúng
tôi, ý định tốt là chưa đủ và bất kỳ công trình có giá trị nào trong lĩnh vực
này cũng đều cần phải được cung cấp thông tin đầy đủ và nghiêm cẩm về phương diện triết học. Các chuyên gia,
chúng tôi đã mời đóng góp cho tập sách này tiếp cận chủ đề của họ từ nhiều quan
điểm khác nhau nhưng chúng tôi
tin rằng tất cả đều có đủ năng lực để đáp ứng được những tiêu chuẩn chính xác ấy.
Đạo đức
học liên quan đến
việc thẩm định quan trọng về hành vi và tính cách của con người.
Những phán xử về đạo đức rất khác biệt về mặt kiểu loại so với những phán xử mang tính sự kiện. Theo lời của J.H. Muirhead, tất cả mọi thứ đều
có thể được xem xét từ hai
quan điểm: “Chúng ta có thể coi
nó chỉ đơn giản như chính
bản nó, khi tìm cách khám phá làm
thế nào mà nó bắt đầu trở thành chính bản thân sự vật đó, và làm thế nào mà nó có liên quan đến những sự
vật khác; hoặc chúng ta có
thể so sánh nó với một lý tưởng nào
đó của những gì mà nó phải trở thành” (Muirhead 1912: 414). Chúng ta có thể nói rõ những gì mà một người đang làm (mô tả) hoặc
chúng ta có thể phán xét xem liệu cô ta phải làm việc đó hay không hoặc việc cô ta làm (đánh
giá) đáng tin đến mức độ nào. Đôi khi đạo đức học
được trình bày như thể nó chủ yếu liên quan đến
việc giảm chấn về hành động: những gì nên và không nên, các
quy tắc, giới hạn và những rào cản. Nhưng đó lại
là một ảnh tượng
méo mó.
Đạo đức học cũng còn thuộc về các nguồn mạch tích cực và
hấp dẫn của hành động: giá trị, mục tiêu và lý tưởng, nguyện vọng và sự hoàn thiện cá
nhân và xã hội. Chủ đề có lẽ của
những chuyên luận lớn nhất trong
số tất cả các chuyên luận đạo đức học - đạo đức học Nicomachean của Aristotle - lại chính là sinh kế của một đời người dưới hình
thức trọn vẹn nhất có thể
của nó. Đối với Aristotle, đạo đức học
chính là nói về sự định vị và sẵn có những loại hàng hóa chất
lượng nhất cho ta (được ông xác định bằng những phẩm chất tuyệt hảo của tư
duy và tính cách). Những con người giữ cho bàn tay đạo đức của mình sạch sẽ và thỏa mãn các yêu cầu
trần trụi của hành vi
chấp nhận được thì có thể được
mô tả như là các tác nhân tối thiểu về
đạo đức. Ngược lại, những người theo quan
điểm nhiều cảm hứng hơn trong đời sống đạo đức thì
không chỉ tránh cái xấu, mà còn hăng hái theo
đuổi cái tốt.
Những ý tưởng này bao trùm toàn bộ đạo đức nghề nghiệp, mặc dù có được một dự báo quan trọng. Các nhà khảo cổ nên tìm cách có được các loại hàng hóa cao cấp nhất trong nghề nghiệp của họ, bất cứ đó có thể là gì. Việc quyết định đó là những gì thì lại chính là một phần quan trọng của đạo đức khảo cổ học; việc xác định làm thế nào họ có thể đạt được một cách hợp pháp lại là chuyện khác. Mệnh đề thứ hai này là một mệnh đề truyển tải điều được báo trước. Vấn đề là những loại hàng hóa cao cấp nhất đối với nghề khảo cổ học có thể không phải lúc nào cũng tương thích với những loại hàng hóa cao cấp nhất đối với các nhóm người khác. Vì vậy, có thể lấy một ví dụ rõ ràng, một nghĩa địa cổ xưa mà cuộc khai quật khảo cổ học sẽ mang lại nguồn dữ liệu phong phú có thể là một địa điểm linh thiêng đối với một cộng đồng bản địa. Mục đích tri thức của các nhà khảo cổ lại mâu thuẫn với mục đích của người dân địa phương trong việc bảo vệ và tôn trọng những gì còn lại của tổ tiên họ. Từ xưa nay cho đến gần đây, các nhà nghiên cứu vẫn thường cho rằng lợi ích của khoa học đánh bạt tất cả các lợi ích khác.
Những ý tưởng này bao trùm toàn bộ đạo đức nghề nghiệp, mặc dù có được một dự báo quan trọng. Các nhà khảo cổ nên tìm cách có được các loại hàng hóa cao cấp nhất trong nghề nghiệp của họ, bất cứ đó có thể là gì. Việc quyết định đó là những gì thì lại chính là một phần quan trọng của đạo đức khảo cổ học; việc xác định làm thế nào họ có thể đạt được một cách hợp pháp lại là chuyện khác. Mệnh đề thứ hai này là một mệnh đề truyển tải điều được báo trước. Vấn đề là những loại hàng hóa cao cấp nhất đối với nghề khảo cổ học có thể không phải lúc nào cũng tương thích với những loại hàng hóa cao cấp nhất đối với các nhóm người khác. Vì vậy, có thể lấy một ví dụ rõ ràng, một nghĩa địa cổ xưa mà cuộc khai quật khảo cổ học sẽ mang lại nguồn dữ liệu phong phú có thể là một địa điểm linh thiêng đối với một cộng đồng bản địa. Mục đích tri thức của các nhà khảo cổ lại mâu thuẫn với mục đích của người dân địa phương trong việc bảo vệ và tôn trọng những gì còn lại của tổ tiên họ. Từ xưa nay cho đến gần đây, các nhà nghiên cứu vẫn thường cho rằng lợi ích của khoa học đánh bạt tất cả các lợi ích khác.
Một ví dụ điển hình là một loạt cuộc khai quật được nhà nhân học văn hóa Ales Hrdlicka* thực hiện tại vùng vịnh Larsen, Alaska, vào
đầu những năm 1930, trong đó có hàng trăm bộ xương và hàng ngàn hạng mục đồ tùy táng cùng vô số
hiện vật khác đã được đưa
về cho Viện
Smithsonian trong
khi phải
đương đầu với sự phản đối kịch liệt và
kiên trì của người dân địa
phương. Như Randall
McGuire đã nhận
xét, vì các nhà nhân học và khảo cổ học được
gán nhãn Hrdlicka, nên các hiện vật mà họ phát hiện được giờ đã “là dữ liệu, chứ không phải
là mẹ, cha, cô dì, chú bác nữa” (Mc Guire 1994b: 182). Một điều ngạc nhiên là sau đó, theo lời của một học giả gần đây, Hrdlicka
đã bày tỏ “một thái
độ thô lỗ và hiếu chiến đối với người dân bản địa đã xuất hiện tại địa điểm khai quật để phản đối việc
làm xáo trộn các bậc
tổ tiên của họ” (Fitz Hugh1994: viii).
Đạo đức học
của bất kỳ ngành nghề nào
cũng không thể được hình thành trong
sự biệt lập khỏi đạo đức học nói chung. Hơn nữa chúng ta
cần phải là người tốt trước khi là
nhà khảo cổ học, triết học, chính
trị gia hoặc người lái xe buýt tốt. Không còn
nghi ngờ gì nữa, một nhà nghiên
cứu như Hrdlicka
có một cái nhìn rõ ràng về những
gì mà ông hằng tìm kiếm. Ông đã đúng khi nghĩ rằng những kiến thức và sự hiểu biết ông tìm được
đều là những hàng hóa có giá trị. Nhưng Hrdlicka cũng là một
trường hợp nổi bật của tầm nhìn cuối đường hầm về
phương diện đạo đức. Cách
xử sự cộc cằn, nếu không nói là
tàn bạo với những người biểu tình địa phương không
chỉ phản ánh một trọng lượng
không cân xứng trong số các mục tiêu của mình, mà người ta còn ngờ rằng, niềm tin mù
quáng của ông vào ưu thế chủng tộc của người
da trắng so với người Anh Điêng và loại quyền tất yếu của loại người có ưu thế đó trong việc bóc lột người
yếu thế. Đầu óc phân biệt chủng tộc trắng trợn như vậy ở
các nhà khảo cổ học và
nhân học giờ đây, hạnh phúc thay, đã trở thành quá khứ. Tuy
nhiên chúng ta vẫn nên cảnh giác mà đừng thỏa thê với vòng nguyệt quế khai sáng và bình đẳng mà
chúng ta hằng tin tưởng. Như một số tác
giả trong cuốn
sách này nhắc nhở chúng ta, rất dễ mắc, ngay cả đối với các nhà nghiên cứu có thiện ý,
nhưng vì thiếu hiểu biết hoặc vô ý, vẫn
có thể
biểu hiện sự thiếu tôn trọng đối với người dân bản
địa và truyền thống của họ.
Những nỗ lực của các nhà
khảo cổ học trong
việc xây dựng các nguyên tắc đạo đức để hướng dẫn thực hành của họ đã thừa nhận tầm quan
trọng của việc điều
chỉnh các mục tiêu nghề nghiệp cho
tương xứng với các yêu cầu đạo đức rộng lớn hơn. Trong khi đôi khi chúng ta không khỏi ngờ rằng
liệu đạo đức khảo cổ học
có thể được tinh giản một cách thỏa
đáng thành một hệ thống
nguyên tắc chung rành mạch (xem, ví dụ
như, Hamilton năm 1995; Tarlow 2001b), các
bộ luật như đã được đề xuất bởi Hiệp hội Khảo cổ học Mỹ vào năm 1994 chí ít cũng gợi lên tư tưởng về các mối quan hệ
giữa mục tiêu của các nhà khảo
cổ và các lợi ích đạo đức to
lớn của những người bị ảnh hưởng
bởi các hoạt động khảo cổ học. Họ cũng phải có cơ hội để thể hiện những lợi ích giao cắt hoặc hội tụ giữa các nhà khảo
cổ học và những
người khác. Ví dụ, nguyên tắc thứ tư trong bộ luật của SAA [Hội Khảo cổ học Mỹ] có đầu đề là “Giáo dục công
cộng và tiếp cận cộng đồng” và khuyến
khích các nhà khảo cổ học phổ biến kết quả nghiên cứu của họ cho tất cả những
ai quan tâm đến việc bảo tồn và diễn
giải quá khứ, “bao gồm sinh
viên, giáo viên, các nhà lập pháp, người Mỹ bản địa, quan chức chính phủ, các
nhà môi trường, các tổ chức dịch
vụ, người về hưu, các phóng viên và nhà báo” (Lynott và
Wylie 1995: 23).
Mục đích đáng mừng đằng sau điều
luật này là để giảm bớt cảm giác của cái “chúng ta và
họ” chia tách các nhà khảo
cổ và các nhóm cộng
đồng khác, và nhấn mạnh rằng thứ
hàng hóa của các nhà khảo cổ không hề
là độc quyền cho riêng họ.
Chúng tôi đã chia các chương trong cuốn sách này thành bốn phần, mặc
dù nhiều chủ đề giao nhau, chồng lên nhau và cách
chia như vậy, ở một mức độ nhất định, là mang tính áp đặt. Chắc chắn cách chia đó cũng không làm cho
tất cả các tác giả thấy
thỏa đáng về các vấn đề chủ chốt. Xuyên suốt cuốn sách, chúng tôi muốn
nhấn mạnh đến nghĩa vụ của các nhà khảo cổ học
với thư cách là các chuyên gia thực hành, trong khi đó một số chương là giành cho việc cân bằng giữa các quyền lợi và nghĩa vụ của các nhóm lợi ích khác.
Chúng ta bắt đầu với một nhóm các
bài viết tập trung vào quyền sở hữu của các đối tượng văn hóa. Chính
thuật ngữ “văn hóa” có nghĩa là các đối tượng này có một
vị thế đặc biệt tách chúng ra khỏi cái bình thường hàng ngày, và đặt
ra câu hỏi phải xác định và hiểu “sở hữu” các đối tượng ấy như thế nào cho rõ. James Young xác định bốn
loại chủ sở hữu tiềm năng cho các
phát hiện khảo cổ (không bao gồm di
tích của người chết). Đó có thể là các cá nhân (một mặt bao gồm cả người sưu tập và các
bảo tàng, mặt khác là những người phát hiện hoặc các nhà khảo cổ học); hoặc một cách
phân nhóm lớn hơn như một nền văn hóa,
một quốc gia, hoặc nhân loại nói chung.
Ông ủng hộ khẳng định về “các văn hóa” nhưng không phải trên cơ sở là
bất kỳ nhóm nào
cũng có thể kế thừa các quyền đối với các hiện vật có thể có
niên đại hang thế kỷ hay thiên
niên kỷ; sự biến đổi về văn hóa, dân tộc, xã hội và tôn giáo làm
cho bất kỳ tuyên bố nào
như vậy cũng trở nên khó chấp nhận như là một phổ
quát. Thay vào đó, ông đưa
ra quan điểm cho rằng không ai được đòi quyền thừa hưởng đối
với nhiều phát hiện khảo cổ, nhưng vấn
đề quyền sở hữu thì nên tập trung
vào giá trị hiện tại của những phát hiện ấy
đối với các cộng đồng
sống. Trong trường hợp các hiện
vật đặc biệt quan trọng điều này có thể có
nghĩa là các nhóm lợi ích đặc
biệt hoặc các nhóm bản địa khác, mặc dù ông cho rằng chính xác hơn thì nhiều phát hiện vẫn còn do người phát hiện nắm
giữ. Hơn nữa, cũng
cần phải viện dẫn
các nguyên tắc
khác, trong nhiều trường hợp cần phải đảm bảo việc bảo quản hoặc bảo
tồn một hiện
vật nào đó, mong muốn tiếp cận
của công chúng, và nguyên tắc
về các bộ phận riêng rẽ của di sản văn hoá phải được thống
nhất lại. Điều khác biệt của Young so với một số tác
giả khác trong tập sách này là ở chỗ ông phủ nhận công dụng của khái niệm cho
rằng các phát hiện khảo
cổ là di
sản chung của toàn nhân loại. Như
ông nhận xét, mặc dù chúng ta có thể tự hỏi liệu phát hiện khảo cổ nên được “sở hữu” theo cùng một cách như là tài sản cá
nhân bình thường, thì
cuối
cùng vẫn phải quyết định là
ai phải có trách nhiệm giữ các hiện
vật ấy. Vấn đề “di sản chung” không hề là một nguyên tắc ít quan trọng,
và chúng ta sẽ quay trở lại với nó trong phần cuối
cùng của tập sách này.
Oliver Leaman đối lập quyền sở
hữu hợp pháp các hiện
vật văn hóa với các tiêu chuẩn đạo
đức hoặc chính trị có thể được dẫn ra
để biện minh cho quyền sở hữu như
vậy. Nếu các hiện vật văn hóa,
bằng cách nào đó, thuộc về cộng đồng rộng lớn hơn, thì
quyền sở hữu hợp
pháp có thể không bao giờ là tuyệt đối. Đồng thời, Leaman đặt
vấn đề nghi ngờ quan điểm cho
rằng quyền sở hữu cần được quyết định đơn giản hoặc phần lớn dựa
trên các tiêu chí đạo đức trống
rỗng. Ông biện
hộ cho sự tương
đồng giữa chăm sóc các hiện vật và chăm sóc trẻ em; cha mẹ được phép
tự do nuôi dạy con theo vô số cách khác nhau, và các cơ quan chỉ
can thiệp trong trường hợp bỏ bê hay lạm dụng. Trong
trường hợp của các hiện
vật, điều này đòi hỏi một số
định nghĩa về lợi ích công cộng để
dựa vào đó mà có thể đo lường
xem sự chăm sóc đó có thích hợp không.
Cái
khó trong việc xác định một
loại hàng hóa “công cộng” như vậy đã dẫn Leaman đến
lập luận cho
rằng nếu chúng ta suy
ngẫm chuyển rời một hiện vật khỏi chủ nhân của nó thì chúng ta cần phải chứng tỏ không chỉ có việc
là nó sẽ được
chăm sóc tốt hơn ở những nơi khác so
với chủ sở hữu hiện tại của nó,
mà còn ở chỗ chủ sở hữu hiện tại thể hiện là một mối nguy hiểm cho tương lai của hiện
vật. Ông trích dẫn nhiều
cách khác nhau, trong đó các loại quyền sở hữu khác nhau có
thể có lợi (ví dụ trong việc truyền
bá các sản phẩm của nền văn hóa
khác nhau trên thế giới và đặt giá trị tiền tệ vào sự tồn tại của các sản phẩm đó) và kết luận rằng cuối
cùng sự đa dạng về quyền sở hữu các
hiện vật vẫn là trạng thái tốt nhất của vấn đề.
__________________________________________
Nguồn: Chris Scarre and Geoffrey Scarre (Ed.) 2006. The Ethics of Archaeology - Philosophical Perspectives on
Archaeological Practice, Cambridge University Press 2006
Tác giả 1: Chris Scarre là Giáo sư
Tiền sử tại khoa Khảo cổ học, Đại học Durham,
chuyên về tiền sử Tây
Âu, ông đặc biệt quan tâm đến khảo cổ học ven Đại Tây Dương
(Bồ Đào Nha, Pháp, Anh và Ai-len). Ông đã
nhận học vị thạc sĩ và tiến sĩ tại Đại học Cambridge, từ công trình nghiên cứu về sự thay đổi cảnh
quan và địa điểm khảo cổ học
ở miền tây nước Pháp. Từ
1990-2005, ông là trợ lý (sau này là Phó)
Giám đốc Viện Nghiên cứu khảo cổ học McDonald, Đại
học Cambridge, từ tháng 1 năm 2013 ông là biên tập viên của tạp chí quốc tế hàng đầu “Antiquity”.
Tác giả 2: Geoffrey Scarre: Là giáo sư
Triết học, Khoa Triết,
Đại học Durham, chuyên về triết học đạo đức, thuyết vị lợi và
triết học của John
Stuart Mill, cũng đã viết
về chủ đề cái chết từ quan điểm lịch sử
và tầm nhìn của các nhà tư tưởng khác nhau. Gần
đây ông tập trung vào
khái niệm đạo đức của khảo cổ học. Ông
còn là người sáng lập và là đồng Giám đốc của Trung tâm Đạo đức học Di sản văn
hóa, Đại học
Durham. Đây là một cơ quan liên ngành của các học giả Durham - chủ yếu là Triết học và
Khảo cổ học - nhằm phát triển phép
phân tích chặt chẽ và có hệ thống về tính
phức hợp đạo đức và vấn đề bổn
phận chính trị của di sản văn hóa
.
*
Người dịch chú: Aleš Hrdlička
hoặc Ales Hrdlicka (ngày 29 Tháng Ba năm 1869 - ngày 05 tháng 9 1943) là một
nhà nhân học gốc Séc sống tại Hoa
Kỳ. Ông sinh ra ở Humpolec, Bohemia (nay tại Cộng hòa Séc). Gia đình di cư
đến Mỹ vào năm 1881, khi ông mới 13 tuổi.
Hồi nhỏ, Hrdlička tham dự các khóa học buổi tối để cải thiện tiếng Anh, và khi 18 tuổi ông
quyết định nghiên cứu y học kể từ khi ông bị bệnh lao. Năm 1889, Hrdlička bắt
đầu nghiên cứu tại Cao đẳng Y tế và sau đó tiếp tục học Đại học tại New York. Năm 1986 ông đến Paris nghiên cứu
nhân học với các chuyên gia tại đây. Trong khoảng 1898 đến 1903, chu du nghiên cứu trên khắp
nước Mỹ, Hrdlička đã trở thành nhà khoa học đầu tiên phát hiện và xây dựng tư liệu chưng minh cho lý thuyết về
con người cư chiếm châu Mỹ từ
Đông Nam Á chỉ khoảng 3.000 năm trước đây. Ông cho rằng người Anh Điêng từ châu Á di cư qua eo
biển Bering, và đã chứng
minh cho lý thuyết này bằng các nghiên
cứu thực địa chi tiết về các di tích xương cũng
như các nghiên cứu về các cư dân ở Mông
Cổ, Tây Tạng, Siberia, Alaska và quần đảo Aleutian. Những phát hiện này đóng
góp vào lý thuyết về nguồn gốc toàn cầu của loài người, và ông đã được trao
giải thưởng Henry Thomas Huxley vào năm 1927. Aleš Hrdlička thành lập và trở thành người quản thủ đầu tiên về nhân học thể chất của Bảo tàng
Quốc gia Hoa Kỳ (nay là Bảo
tàng Quốc gia Lịch sử Tự nhiên) vào năm 1903. Ông cũng là người sáng
lập tạp chí Journal of Physical Anthropology của Mỹ.
Tài liệu dẫn
FitzHugh, W. W.1994. ‘Foreword’,
in T. L. Bray and T. W. Killion (eds.), Reckoning with the Dead: The Larsen Bay
Repatriation and the Smithsonian Institution, pp. v–x. Washington and London:
The Smithsonian Institution.
Hamilton, C. E.1995. ‘A Cautionary
Perspective’, in M. J. Lynott and A. Wylie (eds.), Ethics in American
Archaeology: Challenges for the1990’s, pp. 57–63. Washington, DC: Society for
American Archaeology.
Hamilton, C. E. 2000. ‘A
Cautionary Perspective’, in M. J. Lynott and A. Wylie (eds.), Ethics in
American Archaeology: Challenges for the 1990’s, pp. 64–70. 2nd rev. edn.
Washington, DC: Society for American Archaeology.
Lynott, M. J.1997. ‘Ethical
Principles and Archaeological Practice: Development of an Ethics
Policy’.American Antiquity62(4): 589–99.
Lynott, M. J. and A. Wylie 1995.
‘Stewardship: The Central Principle of Archaeological Ethics’, in M. J. Lynott
and A. Wylie (eds.),Ethics in American Archaeology: Challenges for the1990’s,
pp.28–32. Washington, DC: Society for American Archaeology.
Lynott, M. J. and A. Wylie 2000a.
‘Stewardship: The Central Principle of Archaeological Ethics’, in M. J. Lynott
and A. Wylie (eds.),Ethics in American Archaeology: Challenges for the1990’s,
pp.28–32.2nd rev. edn. Washington, DC: Society for American Archaeology.
Lynott, M. J. and A. Wylie,
(eds.)2000b.Ethics in American Archaeology.2nd rev edn. Washington, DC: Society
for American Archaeology.
McGuire, R. H. 1994a. ‘Do the
Right Thing’, in T. L. Bray and T. W. Killion (eds.), Reckoning with the Dead:
The Larson Bay Repatriation and the Smithsonian Institution, pp. 180–3. Washington,
DC: The Smithsonian Institution.
McGuire, R. H. 1994b. ‘The
Sanctity of the Grave: White Concepts and American Indian Burials’, in R.
Layton (ed.),Conflict in the Archaeology of Living Traditions, pp.167–84.
London: Routledge.
McGuire, R. H. 1997. ‘Why Have
Archaeologists Thought the Real Indians Were Dead and What Can We Do About
It?’, in T. Biolsi and L. J. Zimmerman (eds.), Indians and Anthropologists:
Vine Deloria, Jr. and the Critique of Anthropology, pp. 63–91. Tucson:
University of Arizona Press.
McGuire, R. H. 2003. ‘Foreword’,
in L. J. Zimmerman, K. D. Vitelli and J. HollowellZimmer (eds.),Ethical Issues
in Archaeology, pp. vii–ix. Walnut Creek, CA: AltaMira Press.
Muirhead, J. H. 1912. ‘Ethics’, in
J. Hastings (ed.), Encyclopedia of Religion and Ethics, vol. 5, pp. 414–25.
Edinburgh: T. and T. Clark.
Vitelli, K. D. 1996a.
‘Introduction’, in K. D. Vitelli (ed.),Archaeological Ethics, pp.17–28. Walnut
Creek, CA: AltaMira Press.
Vitelli, K. D. 1996a. 2000.
‘Looting and Theft of Cultural Property: Are We Making Progress?’ Conservation (The
GCI Newsletter) 15 (1): 21–4.
Vitelli, K. D. (ed.) 1996b.
Archaeological Ethics. Walnut Creek, CA: AltaMira Press.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét