Sự
phát triển của thế lực thương nhân người Hoa dưới thời Công ty Đông Ấn (I)
Trương
Bân Thôn
Người dịch: Hà Hữu Nga
Giới
thiệu [1]
Công
ty Đông Ấn [VOC] Verenigde Oost-Indische Compagnie của Hà Lan được thành
lập năm 1062, bị bãi bỏ và quốc hữu hóa năm 1795. Vì đặc quyền hiến chương của
công ty vẫn còn hiệu lực đến 31/12/1799 nên VOC chính thức kết thúc vào đầu thế
kỷ XIX. Từ năm 1800 đến 1949, khi nước Cộng hòa Indonesia chính thức thành lập,
trong một thế kỷ rưỡi, các đảo ở Indonesia đã bị người Hà Lan cai trị như một
thuộc địa, và tạo thành giai đoạn thuộc địa tại vùng này. Người Hà Lan bắt đầu
đưa tàu đến giao thương với châu Á vào năm 1595, kể từ đó đến năm 1602, nhiều đội
tàu đã được các công ty của Hà Lan cử tới châu Á. Năm 1602, VOC đã được thành lập
và đã được Nghị viện trao cho một bản hiến chương ủy quyền cho công ty độc quyền
toàn bộ thương mại Hà Lan – Châu Á. Năm 1619, VOC chiếm lĩnh thành phố cảng
Jakarta từ tay vua Hồi giáo Banten và đổi tên thành Batavia [2]. Công ty đã
thành lập hệ thống trụ sở châu Á ở đó để giám sát toàn bộ các hoạt động thương
mại tại châu Á. Trong giai đoạn từ 1602 đến 1799, lịch sử vùng đất Đông Ấn về
cơ bản được tạo hình dưới ảnh hưởng hoặc sự thống trị của VOC. Bài viết này sẽ tìm hiểu về sự phát triển
của thế lực thương nhân người Hoa tại Đông Ấn trong hai thập kỷ đó.
Rất
lâu trước khi các tàu Hà Lan đến châu Á thì thương nhân người Hoa đã trở thành
một thế lực thống trị trong ngành hàng hải Đông Á. Với việc xâm nhập của VOC
vào thương mại châu Á, thế lực thương nhân người Hoa càng được tăng cường thêm.
Khác với người Hà Lan, Hoa tộc trở thành nhóm kinh tế hùng mạnh nhất không chỉ
trong thương mại Đông Nam Á, mà đặc biệt là ở khu vực Đông Ấn nữa. Môi trường
nhân văn vùng Đông Ấn dưới thời VOC rõ ràng được định hướng đến tạo thuận lợi
cho quá trình tăng trưởng lợi ích của thương nhân người Hoa. Thế lực thương
nhân người Hoa vẫn tiếp tục phát triển trong giai đoạn thực dân, và vẫn là một
nhân tố được coi là quan trọng trong nền kinh tế Indonesia ngày nay. Cùng với sự
phát triển của kinh tế Trung Quốc trong các thập kỷ đó, vai trò kinh tế của Hoa
tộc ngày càng trở nên to lớn trong quần đảo này. Vì nền tảng sự nổi trội về
kinh tế Hoa tộc tại Indonesia về cơ bản được kiến tạo trong thời VOC nên cần phải
có một nghiên cứu về sự phát triển của thế lực thương nhân người Hoa để góp phần
làm sáng tỏ các sự kiện người Hoa đương đại và tương lai. Cả người Hoa và người
Hà Lan đều là khách tại vùng Đông Ấn. Từ đầu thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ XX,
trong gần ba trăm năm mươi năm, họ là hai nhóm tộc người cố cựu với các lợi ích
kinh tế lớn nhất ở đó. Các lợi ích kinh tế của họ không phải là không chứa đựng
cạnh tranh và cả xung đột nữa, nhưng nói chung cần phải thừa nhận rằng tính chất
bổ sung kinh tế giữa hai tộc người này dường như là còn tác động ảnh hưởng đến
nhau nhiều hơn bất kỳ mâu thuẫn nào. Mặc dù trong thực tế thì VOC, theo các
tính toán về lợi ích riêng của họ hoặc do lợi ích, mà họ đã thực hiện nhiều
chính sách hạn chế khác nhau đối với các hoạt động của người Hoa, thì tính bổ
sung giữa người Hoa và người Hà Lan có thể thấy rất rõ trong suốt thời gian tồn
tại của VOC, cũng như trong giai đoạn thuộc địa. Bài viết này tập trung vào
tính bổ sung của các mạng lưới kinh doanh người Hoa và VOC để diễn giải sự phát
triển của thế lực thương nhân Hoa.
Mạng
lưới và Công ty
Tại
khu vực Đông Ấn thế kỷ XVII và XVIII, các lợi ích kinh tế của Hà Lan gần như đều
do VOC độc quyền toàn bộ, trong khi đó các lợi ích kinh tế Trung Quốc trải ra
trong vô số tác nhân cá thể ngoài thị trường. VOC là một công ty thương mại được
nhiều nhà đầu tư Hà Lan thành lập; trong khuôn khổ tham gia kinh tế, các cá
nhân người Hoa đã bắt đầu cùng nhau xây dựng một mạng lưới thương mại. Để tiện
phân tích, chúng tôi sẽ đơn giản hóa các hoạt động kinh tế của người Hà Lan và
người Hoa thành hoạt động của một công ty thương mại và mạng lưới kinh doanh
tương ứng. Ấn định trước sự đơn giản hóa này cần phải có một thảo luận vắn tắt
về sự phân biệt các đặc trưng kinh tế của công ty và của mạng lưới.
Các
tổ chức kinh tế thường được phân chia thành ba loại đơn giản: thị trường, mạng
lưới, à công ty. Một mạng lưới được đặc trưng bằng một cái gì đó tham dự vào một
số đặc tính của thị trường và công ty, và vì vậy mà được coi là một vật lai của
hai tổ chức khác nhau. Trong mỗi công ty, như một nguyên tắc, đều tồn tại một
thứ tôn ty trong mối quan hệ con người với nhau, ngược lại với tình trạng vắng
mặt hệ thống tôn ty đó ở ngoài thị trường và ở mạng lưới. Liên quan đến việc
phân bổ các nguồn lực thì một thị trường lý tưởng phải được giải tập trung hóa,
phi ngôi thứ và mang tính ngẫu nhiên và chủ yếu được đặc trưng bởi các giao dịch
kinh tế diễn ra giữa các cá nhân đang tìm mọi cách để tối đa hóa lợi nhuận. Đặc
trưng kinh tế nổi bật nhất của một công ty là hoạt động điều phối nội tại. Để đạt
được mục tiêu của việc điều phối thì tổ chức của công ty phải hoạt động bằng
phương tiện quyền lực tập trung, bằng mệnh lệnh theo thứ bậc và bằng các quy ước
nội tại. (Với khái niệm quy ước, chúng tôi muốn nói đến một thứ văn hóa công ty
được hình thành một cách chủ ý hoặc không chủ ý để phần nào giúp giải quyết các
vấn đề xuất hiện trong một hợp đồng không hoàn hảo) [3]. Các lý thuyết tổ chức
thường coi công ty và thị trường là hai phương pháp đối lập nhau trong việc quản
lý hoạt động phân phối các nguồn lực trong một nền kinh tế tư bản. Ở khoảng giữa
vẫn tồn tại nhiều loại hình quản lý đôi khi gộp lại thành một loại được gọi là
“thể lai”. Toàn bộ các tổ chức lai tạp này có chung đặc tính quan hệ gần gũi về
phương diện cá nhân, với hầu hết các giao dịch kinh tế đều diễn ra trong khuôn
khổ đó. Chúng thuộc về phương pháp quản trị đệ tam cấp mà chúng tôi gọi là “mạng
lưới”. Chuẩn mực, sự giao hảo, sự tin tưởng lẫn nhau thay thế cho các điều khoản
hợp đồng, các hình thức thưởng phạt thay thế cho các quy định của luật pháp, tất
cả chính là các yếu tố làm cho một mạng lưới công ty vận hành [4].
Các
giao dịch mang tính tôn ty diễn ra trong một cấu trúc ra lệnh của một công ty; mặt
khác, các giao dịch thị trường được tiến hành trực tiếp giữa các cá nhân vô danh.
Sự vận hành của một nền kinh tế mạng được đặc trưng bởi sự vắng mặt của hai
phương thức giao dịch. Ở vị thế của họ, một giao dịch mạng được thực hiện hoàn
hảo dưới sự giám sát về phương diện xã hội. Được mô tả bằng cách nhìn chi phí
giao dịch, Oliver Williamson kết luận rằng việc lựa chọn của ba tổ chức kinh tế
tư bản ấy chủ yếu được thực hiện dựa vào việc xem xét chi phí quản trị kinh tế
hóa [5]. Khi các thay đổi về quyền tài sản, luật hợp đồng và các chuẩn mực cũng
như các quy ước đưa đến các thay đổi chi phí so sánh của hoạt động quản trị thì
các tổ chức kinh tế cũng sẽ thay đổi theo để đáp ứng được các đòi hỏi thay đổi
chi phí. Việc giao dịch giữa công ty này với công ty khác liên quan đến sự đánh
đổi hiệu quả thể hiện trong sự khác nhau về chi phí giao dịch. Một tổ chức
tương đối giải tập trung quyền lực, chẳng hạn như một thị trường thì có thể tạo
ra được những động cơ mạnh mẽ cho các cá nhân tham gia và có thể thích ứng một
cách năng động với các tình trạng rối loạn tự trị. Tuy nhiên điều đó lại không
phù hợp với việc điều phối thích ứng tập thể. Ngược lại, mặc dù sự thật thì một
tổ chức phân cấp theo thứ bậc thì bị bất lợi vì cấu trúc động cơ yếu đối với
các cá nhân, và tương đối không thể thích nghi một cách tự trị, thì lại vận
hành tốt hơn bằng sự điều phối thích nghi tập thể. Vì vậy các tổ chức khác nhau
có điểm mạnh, điểm yếu khác nhau trong sự thích ứng. Khi nhu cầu về sự phụ thuộc
và thích nghi tập thể tăng lên thì sẽ nảy sinh rắc rối với thị trường. Vì vậy,
nếu nhu cầu thích nghi tập thể tăng thì một thị trường sẽ nhường chỗ cho tổ chức
mạng lưới thể lai, và mạng lưới này sẽ lại nhường chỗ cho loại tổ chức công ty
theo mô hình thứ bậc. Ở đây, công ty là cách thức tổ chức cuối cùng, và không
thể còn giải pháp nào khác nữa. Bằng
cách thay thế trao đổi thị trường điểm giản đơn bằng việc trao đổi theo hợp đồng
nội hãng, chúng ta đang đối mặt với một sự đánh đổi hiệu quả giữa thị trường và
cách tổ chức thứ bậc. Nói cách khác, một loại không hiệu quả (quản trị quan
liêu) được thay thế bằng một cách quản trị khác (điều chỉnh sai mang tính tập
thể).
Trong
thời VOC, các lợi ích kinh tế của các vùng Đông Ấn, đặc biệt là lợi ích thuộc
khu vực phân phối hầu như đã được chia sẻ giữa VOC và người Hoa. Nếu VOC quá bị
câu thúc bởi cạnh tranh và những tính toán chi phí – lợi ích vì không thể thực
hiện được triệt để các chính sách độc quyền của nó tại các vùng Đông Ấn, dù sao
mục tiêu của các chính sách này cuối cùng, nói chung vẫn đạt được, sau khi
Batavia được xây dựng thành thủ phủ ngoại quốc của VOC, thì nó vẫn năng động
tìm được đối tác người Hoa của mình. Từ đó hai bên bắt đầu độc quyền các lợi
ích thương mại tại vùng quần đảo này. Họ sẽ không thể nào độc quyền được, trong
trường hợp không có những tương tác bổ sung giữa cách tổ chức phân cấp thứ bậc của
VOC và các mạng lưới kinh doanh của người Hoa.
Công
ty vàmạng lưới đều có các điểm mạnh và điểm yếu thích nghi tương ứng. Công ty
hoạt động hiệu quả bằng cách điều phối hợp tác, nhưng nó lại phải gánh chịu
thua thiệt về động cơ và phải tăng thêm các chi phí quan liêu. Vì lợi ích của
cá nhân và của công ty không phải lúc nào cũng nhất quán với nhau nên việc xuất
hiện chủ nghĩa cơ hội là điều không thể tránh khỏi. Vì vậy vấn đề đại lý và việc
giám sát đã gây trở ngại rất nhiều cho VOC trong toàn bộ thời gian tồn tại của
nó. Mạng là một thể lai giữa công ty và thị trường. Đối với mạng thương mại của
người Hoa thì động cơ dù ít hơn ở thị
trường, nhưng vẫn không thành vấn đề. Trong thực tế thì rất khó mà huy động được
sự tham gia của thành phần kinh tế cá thể. Điểm yếu của mạng lưới thương mại
người Hoa là khả năng thích nghi kém trong điều phối tập thể. Điều này lại càng
thể hiện rõ ràng trong buổi ban đầu khi cần có sự điều phối tập thể ở quy mô lớn.Vì
vậy cho dù có cạnh tranh lợi ích kinh tế giữa người HàLan vàngười Hoa, thì vẫn
có sự bổ sung kinh tế giữa hai bên, vì các phương pháp quản trị khác biệt nhau
của họ, như VOC và mạng lưới thương mại của người Hoa đã cho thấy. Và với sự củng
cố kiểm soát ngày càng tăng về phương diện chính trị đối với quần đảo, thì sự cạnh
tranh kinh tế giữa người Hoa và người Hà Lan cũng yếu dần khi tính bổ sung về
phương diện kinh tế ngày càng tăng lên. Chính quá trình tăng cường tính bổ sung
ấy đã lý giải cho sự tăng trưởng của thế lực thương nhân người Hoa.
Chiến
lược thương mại của VOC tại vùng Đông Ấn
Năm
1603, VOC bắt đầu đưa tàu tới châu Á vàtham gia vào quá trình cạnh tranh thương
mại với ngành hàng hải châu Á. Những đối thủ cạnh tranh bao gồm nhiều nhóm thương
nhân truyền thống châu Á, cũng như những người Âu mới đến, bao gồm các thương
nhân Anh, Pháp, Đan Mạch, và Bồ Đào Nha. Năm 1609, nhóm ra quyết định cao nhất
của VOC, ban giám đốc gồm 17 người được gọi là “Mười bảy Quý ông” đã đề xuất một
loạt chính sách cho các hoạt động thương mại của Công ty tại châu Á. Các sự kiện
tiếp theo rất đáng lưu ý: trước hết việc bổ nhiệm một ủy viên Hội đồng Quản trị
hải ngoại cho toàn bộ hoạt động thương mại châu Á là do có sự trợ giúp của một
Hội đồng Đông Ấn; thứ hai là phải tìm cho được một điểm cố định thích hợp được
coi là một điểm tập kết cho các tàu của VOC, đó phải là nơi kiểm soát được toàn
bộ các trụ sở của Công ty ở Châu Á, và phải xây dựng được một thành phố cảng
làm trung tâm phân phối hàng hóa; và thứ ba là để độc quyền toàn bộ việc buôn
bán gia vị. Vấn đề mấu chốt của chính sách này đã được Cornelis Matelieff thiết
kế, và năm 1605 ông đã chỉ huy một đội tàu của Công ty đến châu Á. Sau khi quay
trở về Hà Lan vào năm 1607, ông là chủ tịch hội đồng quản trị thay mặt cho
Phòng thương mại Rotterdam, một trong sau phòng thương mại có đại diện trong hội
đồng quản trị được cử đứng ra thành lập Hội đồng Mười bảy Quý ông. Vào năm 1608
– 1609 Matelieff đã viết một loạt bốn tiểu luận trong đó ông nhiệt tình tán
thành cho VOC mô phỏng hệ thống Bồ Đào Nha tại châu Á. Hai vấn đề tiếp theo có
tính quyết định nhất: giải tập trung hóa quyền lực, và thúc đẩy thương mại nội
Á [6]. Đề xuất của ông đã được Hội đồng Mười bảy Quý ông chấp nhận; năm 1609 Hội
đồng đã cử một ủy viên Hội đồng Quản trị đến châu Á, đặt trụ sở tại Banten, sau
này trở thành trung tâm thương mại quốc tế lớn nhất của hàng hải Đông Nam Á
[7].
Vì
chính sách thương mại mở của vua Hồi giáo Banten không có lợi cho chính sách
thương mại của VOC ở châu Á, nên ngay từ đầu các ủy viên Hội đồng Quản trị châu
Á đã nhiệt tình tìm kiếm một cảng thay thế cho các trụ sở của Công ty. Chỉ sau
một loạt cuộc thương thảo kiên trì và các chiến dịch quân sự mà vị Thống đốc thứ
tư, Jan Pietersz Coen, cuối cùng đã dành được thành phố cảng Jakarta bằng sức mạnh
từ tay vua Hồi giáo Banten và đặt tên khác cho nó là Batavia. Tại đây, Coen đã
lập ra một chính phủ vận hành cho đến khi giải thể VOC vào năm 1799, để Công ty
điều hành và quản lý mọi hoạt động thương mại ở châu Á. Đặt trụ sở tại Batavia,
từ Coen trở đi, mỗi vị Toàn quyền đều cố gắng thiết lập hệ thống thương mại của
VOC tại châu Á, để thực hiện các chính sách thương mại nội Á của VOC và độc quyền
buôn bán gia vị. Ngay từ năm 1619, trong một lá thư Coen viết cho Hội đồng, ông
đã đề xuất cách thức cho việc thực thi chính sách thương mại nội Á [8]:
“Vải
dệt Gujerat phải được đổi lấy hồ tiêu và vàng trên các bãi biển Sumatra; hồ
tiêu Banten phải được đổi lấy bạc và vải vóc của vùng ven biển [Coromandel];
hàng Trung Quốc và vàng phải được đổi lấy gỗ đàn hương, hồ tiêu và những đồng bạc;
có thể lấy bạc từ Nhật Bản để đổi lấy hàng hóa Trung Quốc; vải vóc vùng ven biển
Coromandel phải được đổi lấy gia vị, các loại hàng hóa và những đồng bạc Arabia
[peso de ocho], và bạc Arabia phải
được đổi lấy gia vị và các loại hàng hóa khác, bằng cách đảm bảo rằng thứ này
được bù lại bằng thứ khác, và tất cả đều được thực hiện trên các chuyến tàu mà
không cần đến tiền từ Hà Lan”.
Tóm
lại, Coen cho rằng bằng hệ thống thương mại rộng khắp và lợi thế tàu biển, VOC
có thể thu lợi rất lớn từ thương mại nội Á, và sau đó có thể được sử dụng để hỗ
trợ cho thương mại liên Âu – Á của VOC. Ông cũng chỉ rõ rằng bằng cách này, Hà
Lan thậm chí còn có thể thừa sức xuất khẩu các kim loại quý cho thương mại châu
Á, vì đã được thử thách bằng toàn bộ các thế lực hàng hải châu Âu khác. Điều mà
Hà Lan cần làm là cung cấp tàu biển, thiết bị và dịch vụ. Mặc dù thư của Coen đã
cường điệu lợi nhuận mong đợi từ thương mại nội Á, nhưng từ năm 1630, thành
công của phương thức thương mại này về cơ bản đã giảm mức phụ thuộc vào xuất khẩu
kim loại quý từ mẫu quốc. Không phải là cho đến tận những năm 1680 khi Hà Lan
xuất khẩu các kim loại quý thì nó mới lại bắt đầu hồi phục lại được, vì mức độ
cạnh tranh tăng lên trong thương mại nội Á và sự mở rộng của thương mại Âu – Á của
Hà Lan [9]. Sự độc quyền về buôn bán gia vị là một chính sách quan trọng khác của
VOC. Có hai loại gia vị: loại thông thường và loại tốt. Loại thông thường là hồ
tiêu, trong khi đó loại tốt lại gồm có đinh hương, nhục đậu khấu, và quế. Việc
sản xuất đinh hương, nhục đậu khấu theo truyền thống thường tập trung ở quần đảo
nhỏ Moluccas, trong khi loại quế tốt nhất lại được sản xuất ở đảo Sri Lanca. Việc
sản xuất hồ tiêu trải rộng ở nhiều vùng, từ vùng ven biển Malabar thuộc tiểu lục
địa Ấn Độ đến Sumatra và Java thuộc Đông Ấn [10].
______________________________________
Nguồn: Chang Pin-tsun 2009. The Rise of Chinese Mercantile Power in VOC
Dutch East Indies, Published in Chinese Southern Diaspora Studies 南方华裔研究杂志, 第三卷, 2009, Volume 3, 2009. (荷蘭東印度公司時代華人的商業勢力發展
Hà Lan Đông Ấn Độ Công ti thì đại Hoa nhân đích thương nghiệp
thế lực phát triển)
Tác giả: 張彬村 Trương Bân Thôn là cán
bộ nghiên cứu thuộc Trung tâm Lịch sử Hàng hải - 中央研究院人文社會科學研究中心 Viện Hàn lâm Academia Sinica, Đài Bắc, Đài Loan.
Tài
liệu dẫn
*Thanks are due to Dr. Tana Li, who encouraged me to publish this
English version, and to Dr. Nola Cooke, who helped edit and polish my English
translation.
1. Pin-tsung Chang is a research fellow at the Centre for Maritime
History, RCHSS, Academia Sinica, Taipei, Taiwan. This article was translated by
the author, with slight revisions, from a Mandarin original “荷蘭東印度公司時代華人的商業勢力發展,” published in Tang Xiyong 湯熙勇, ed., 中國海洋發展史論文集 (Essays on Chinese Maritime History) (Taipei: Academia
Sinica, 2008), vol. 10, pp. 329-360. A slightly amended version of the original
essay also appears in this issue of Chinese Southern Diaspora Studies (pp.
247-65), by kind permission of the publisher.
2. The Batavians were a German tribe and ancestors of
the Dutch.
3.
Paul Milgrom and John Roberts, Economic Organization and Management (Englewood
Cliffs, N.J.: Prentice-Hall, Inc., 1992), pp. 129-40 and 265.
4.
Joel M. Podolny and Karen. L. Page, “Network Forms of Organization,” Annual
Review of Sociology, 24 (1998): 57-75; Steve Lovett, Lee Simmons and Raja
Kali, “Guanxi versus Market: Ethics and Efficiency,” Journal of International
Business Studies, 30:2 (1999): 231-47.
5.
Oliver E. Williamson, “Transaction Cost Economics and Economic Organization
Theory,” in The Handbook of Economic Sociology, ed. Niel J. Smelser and
Richard Swedberg (Princeton, N.J.: Princeton University Press, 1994), pp.
77-107. Also see by the same author, “The Economics of Governance,” American
Economic Review, 95: 2 (2005): 1-17.
6
Femme S. Gaastra, The Dutch East India Company (Zutphen, the
Netherlands: Walburg Pers, 2003), pp. 39-40.
7.
Zhang Xie 張燮,東西洋考 (On the East
and West Oceans) (Beijing: Zhonghua BookCo., 1981[1618]), pp. 41 and 179. On the
rise and fall of Banten, and Chinese economic activities over there, see Ts’ao
Yung-ho 曹永和,”明末華人在爪哇萬丹的活動 (Chinese
Activities at Java’s Banten in the Late Ming)”, in his book 中國海洋史論集 (Collected
Writings on Chinese Maritime History) (Taipei: Lianjing Publishing Co.,
2000), pp. 233-72. Iwao Seiichi 岩生成一, “下港の支那町につぃて (A
Historical Study of Chinese Town in Bantam)”, 東洋學報 (Tōyō Gakuho),
31:4 (1948), pp. 441-71.
8.
Gaastra, Dutch East India Company, p. 121.
9.
Ibid, pp, 132 and 139; Kristof Glamann, Dutch-Asiatic Trade 1620-1740 (The
Hague: Martinus Nijhoff, 1958), pp. 50-71 and 290, Appendix D, Table IX.
10.
Anthony Reid, Southeast Asia in the Age of Commerce 1450-1680 (New
Haven: YaleUniversity Press, 1993), vol. II, pp. 23-24.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét