Lược sử Nghiên cứu Hội An (I)
Hà Hữu Nga
Những
ghi chép sớm nhất liên quan đến Champa, Lâm Ấp, phần nào giúp ta hình dung về
các hoạt động liên quan đến thương mại biển vùng này, trong đó có Chiêm cảng
(Hội An ngày nay) thuộc về các sử liệu của Hy Lạp. Các bộ óc lớn nhất của thế giới
Hy Lạp – La Mã cổ đại như Erathostenes (276-194 TCN), Hipparchus (190-120 TCN),
Strabo (63 TCN - 24 SCN), Marinus (70-130 SCN), và nhất là Ptolemy đã kế tiếp
nhau xây dựng bản đồ thế giới, xác định vị trí của các đất nước, các đô thị chính
yếu trên trái đất, trong đó có các hải cảng quan trọng mà các nhà hàng hải và
các thương nhân Hy Lạp cổ đại đã đi qua để đến cực đông của thế giới thuộc Đông
Á, trong đó có Việt Nam, Trung Quốc [Ptolemy K. 1885, 1915; Strabo 1917-1932],
và đặc biệt là cái tên cảng thị Zaba trong tác phẩm Địa lý nổi tiếng của
Ptolemy đã được cho là thuộc Champa [Yule H. 1882: 658-9].
Tuy
nhiên các ghi chép chi tiết, sớm nhất về mối quan hệ giao thương giữa Phù Nam, Champa,
Lâm Ấp theo đường biển với thế giới bên ngoài lại là các sử liệu Trung Quốc từ thời
nhà Hán, thời Tam quốc Ngụy Thục Ngô, khởi từ Hậu Hán thư, Ngô thư, Tam quốc
chí. Sau đó tiếp đến Tấn thư, Lương thư, Nam Tề thư, Tùy thư, Nam sử, Cựu Đường
thư, Tân Đường thư, Ngũ Đại sử, Tống sử, Minh sử, Nguyên sử, Lĩnh Ngoại đại
đáp, Chư Phiên chí, Văn Hiến thông khảo v.v...[列傳,樑書,南史,南朝四史,晉書,宋書,嶺外代答,諸蕃志, 文獻通考...]. Các
nguồn sử liệu Trung Quốc viết về nội tình Champa, việc giao thương với Champa
qua đường biển. Mới đây Geoff Wade đã dịch một số phần của Tống Hội yếu viết về
Champa, không được Maspéro [1928] sử dụng trong công trình nổi tiếng Vương quốc
Champa [Royaume de Champa] của ông; văn bản này về nhiều tình tiết quan trọng
lại khác hẳn với Tống sử. Đối với một số giai đoạn của
lịch sử Champa thì các sử sách này được biên soạn muộn hơn nhiều so với thời điểm
diễn ra các sự kiện, và rõ ràng là các nguồn tài liệu gián tiếp [Vickery, Michael
2005; Wade, Geoff 2005].
Đối
với thế giới phương Tây thời Trung Đại, thì con đường biển đến phương Đông đã
trở nên quen thuộc. Tuy nhiên sử liệu liên quan đến Champa thời kỳ này lại
không phong phú, trong số sử liệu hiếm hoi đó có các ghi chép khá cụ thể của Marco
Polo, cho thấy ông đã thực sự đến thăm kinh đô Champa qua hệ thống Chiêm cảng ở
đây vào khoảng năm 1285 [Polo, Marco 1903]. Người ta cho rằng đây là một trong số
ghi chép sớm nhất của người phương Tây về những gì được thấy trên phần đất Việt
Nam ngày nay.
Sau
thời Trung đại, bước vào kỷ nguyên Phục hưng, với sự phát triển đến mức bùng nổ
của nghề hàng hải, châu Âu nô nức tìm đường chinh phục các miền đất mới, trong
đó có con đường quay trở lại với phương Đông. Nhà thám hiểm vĩ đại, người đã
tìm ra châu Mỹ là Amerigo Vespucci, thực hiện chuyến đi năm 1499 đã viết: Ông
hy vọng đến được vương quốc “Melaccha ở Ấn Độ”, thực tế thì đó là Malacca hoặc
Melaka thuộc bán đảo Malay, bằng chuyến hải hành từ Tây Ban Nha, bơi về phía
tây, qua Đại Tây Dương, đến Vịnh Lớn Trung Hoa (Sinus Magnus – Vịnh Bắc Bộ?)
[Vespucci A. 1500-1944-1999]. Trong chuyến thám hiểm lần thứ
tư và cũng là lần cuối cùng của mình vào năm 1502-1503, Columbus đã xây dựng kế
hoạch đi dọc bờ biển Champa để tới Sinus Magnus. Đây chính là tuyến
đường mà ông cho rằng Marco Polo đã trở về từ Trung Quốc qua Ấn Độ
vào năm 1292 [Nunn, George E. 1992; Wallis, Helen 1992]. Khi đến Cariay,
ngày nay là Puerto Limon thuộc bờ biển Costa Rica, Columbus nghĩ rằng ông đã
đến được các mỏ vàng thuộc vương quốc Champa mà Marco Polo đã nói tới. Chính vì
vậy từ Jamaica ông đã viết thư về cho Quốc vương và Hoàng hậu như sau: “Thần đã
tới Cariay…Ở đây thần đã biết được về các mỏ vàng của người Champa mà thần tìm
kiếm” [Varela, Consuelo (ed) 1992]. Và niềm tin của Columbus đã được
thể hiện rõ trên tấm bản đồ thế giới của Giovanni Contarini xuất bản tại Venise
năm 1506, trên đó có một hình xoáy trôn ốc gắn liền với Champa, được ghi là:
“Cristophorus Columbus …bơi về phía tây, đã đến vùng đất có tên gọi Champa…có
một kho vàng lớn” [National Library of Australia 2010].
Theo
các nguồn tư liệu được biết cho đến bây giờ thì có lẽ Tome Pires [1465 – 1540?]
là người Châu Âu đầu tiên ghi chép khá chi tiết về Champa và Vương quốc Đàng
Trong của nhà Nguyễn. Ông vốn là một nhà bào chế thuốc người Lisbon, Bồ Đào
Nha, và đã có mặt tại Malacca ngay sau khi người Bồ Đào Nha chinh phục được
vùng đất này, rồi sống ở đó từ 1512 – 1515. Ông cũng là một vị đại sứ chính
thức đầu tiên của một quốc gia châu Âu tại Trung Quốc (thời Hoàng đế Chính Đức
1491 – 1521). Ông đến thăm Đàng Trong vào những năm sống tại Malacca, và đã
viết cuốn Suma Oriental Phương đông Khái lược trước năm 1516. Trong cuốn sách
của mình, ông mô tả Champa “sản xuất nhiều lúa gạo, thịt và các loại thực phẩm
khác. Đất nước này không có hải cảng đủ đón các thuyền lớn. Có một vài đô thị
dọc bờ các con sông. Những con tàu có
đáy sâu 1 sải rưỡi (khoảng 2,73m) chỉ vào cảng được khi nước triều lên, còn khi
triều rút thì bị cạn” [Pires, Tome 1990, 110 - 113]. Còn Vương quốc Đàng trong
được ông mô tả là: “Vua Cochin
China trị vì một đất nước giàu có và
rộng lớn hơn Champa...Ông ta là một chiến binh giỏi trên đất liền. Ông có nhiều
thuyền lớn và khoảng 30 – 40 thuyền mành. Đất nước này có nhiều sông ngòi thuận
lợi cho hàng hải. Không có nhiều người cư trú ở ven sông, mà chủ yếu cư trú dọc
theo ven biển...Người Malacca gọi nước này là Cochin China (Cauchy
Chyna)...Người nước này không đến Malacca mà đến Trung Quốc và Champa. Họ rất
kém nghề đi biển, mọi thành tựu đều đạt được trên đất liền” [Pires, Tome 1990,
114 - 115].
Tiếp
theo Tome Pires, một người Bồ Đào Nha khác cũng đi thuyền từ Malacca đến Hội An
“Và Fernaõ Peres dong buồn lên đường từ Malacca...tháng Tám năm 1516, và đến
vịnh Concam China vào ban đêm, sau khi suýt đắm tàu vì những dải cát ngầm” [Yule Henry, Arthur Coke Burnell 1903, 226]. Rồi đến năm 1524 cũng được
Albuquerque dâng tấu lên nhà vua là: “Thần đã phái Duarte Coelho đi tìm hiểu
Canchim China” [Yule Henry, Arthur Coke Burnell 1903, 226].
Vào
quãng 1535 – 1537, một người Bồ Đào Nha phiêu lưu là Antonio de Faria đã viết
về cuộc thám hiểm xứ Đàng Trong của ông ta như sau: Sau khi đi qua đảo Pulo
Campello [Cù Lao Chàm] họ tới đảo Pulo Capas, nơi có 40 chiếc thuyền mành lớn,
mỗi chiếc hai hoặc ba tầng sàn đã thấy ở sông Boralho; Faria đã cử người đi
khám phá đảo đó. Và sau đó một đoàn thuyền khác, có lẽ đến 2000 thuyền lớn nhỏ,
và một thành phố có tường bao với khoảng chục nghìn nóc nhà [Barrow J. 2008:
123-124].
Cho
đến thế kỷ XVII thì người phương Tây đã biết rõ Hội An và hầu hết phần phía nam
của trung bộ Việt Nam đã trở thành “vương quốc Đàng Trong” của người Việt. Một giáo sĩ dòng Tên người Ý là Cristoforo Borri đã sống ở
Đàng Trong từ 1618 đến 1622 cũng đã viết khá rõ về Hội An như sau: “Hải cảng
đẹp nhất, tất cả người ngoại quốc đều tới đó và cũng là nơi có hội chợ danh
tiếng…Chúa Đàng Trong xưa kia cho người Nhật, người Hoa chọn một địa điểm và
nơi thuận tiện để lập một thành phố cho tiện việc buôn bán…Thành phố này gọi là
Faifo, thành phố này khá lớn và chia làm hai khu vực, một dành cho người Hoa và
một dành cho người Nhật, mỗi bên có quan cai trị riêng, người Hoa theo tục lệ
Trung Quốc, người Nhật theo tục lệ Nhật Bản” và “Người Trung Quốc và người Nhật
Bản là những thương nhân chủ yếu của chợ phiên này, năm nào cũng mở và kéo dài
trong vòng 4 tháng. Người Nhật thường đem lại 4,5 vạn nén bạc, người Trung Quốc
thì đi một thứ thuyền buồm đem lại nhiều tơ lụa tốt và sản vật đặc biệt của họ.
Do chợ này, quốc vương thu được số tiền thuế lớn, toàn quốc cũng được nhiều lợi
ích” [Borri, Christoforo 1631].
Nói “hai thành phố”, nhưng thực ra chỉ là hai khu kiều
dân. Khu kiều dân Nhật đông hơn, có ảnh hưởng lớn hơn. Nhưng từ năm 1614, sau
khi Nhật hoàng Daifusama ra lệnh trục xuất các giáo sĩ ra khỏi lãnh thổ Nhật
Bản thì những người Nhật theo đạo Thiên Chúa bắt đầu đến Đàng Trong ngày càng
đông. Để ngăn chặn làn sóng người Nhật di cư đó, Nhật hoàng công bố lệnh sẽ xử
tử những người trốn ra nước ngoài. Sau vụ giết đạo ở Nagasaki (1640), nước Nhật
hoàn toàn đóng cửa với bên ngoài. Từ đó, khu kiều dân Nhật ở Hội An bị cắt đứt
với nước mẹ, cứ tàn lụi dần, trong khi đó, khu kiều dân Trung Quốc thì vẫn tiếp
tục gia tăng và ngày càng đóng vai trò quan trọng trong các hoạt động thương
mại ở Hội An. Do đó, những hoạt động buôn bán của Hoa thương ngày càng tỏ ra
chiếm ưu thế ở khu vực này. Họ đã tiến về phía Đông cầu Nhật Bản, mua 14,5 mẫu
đất của các làng Hội An, Cẩm Phô, Cổ Trai, lập nên làng Minh Hương và mở rộng
khu phố để kinh doanh.
“Hải
cảng chính ở vùng Cacciam [Kẻ Chiêm, Cổ Chiêm], có hai cửa biển đi vào hải cảng
này, một cửa được gọi là Pulluciampello [Cù Lao Chàm], một cửa khác là Turan
[Đà Nẵng]; hai cửa cách nhau ba bốn dặm, được chia tách bởi hai con sông, sau
đó nhập làm một...Thành phố này khá lớn, có tên gọi Faifo, với một phần là
người Trung Quốc, còn phần kia là Nhật Bản; họ đều có quan trấn riêng, và sống
theo luật pháp của mỗi nước...Vua An Nam miễn phí nhập cảnh cho tất cả người
ngoại quốc nên người Hà Lan cũng đưa tàu hàng đến đây buôn bán, vì vậy người Bồ
Đào Nha ở Ma Cao đã phái người đến gặp vua An Nam yêu cầu đuổi kẻ thù của họ là
người Hà Lan đi” [Borri, Christoforo 1631, 90-94].
Vào năm 1695, một người Anh là Bowyear đến Hội An, đã
ghi lại: Hải cảng chỉ có một phố lớn nằm bên bờ sông. Hai bên có hai dãy nhà
chừng một trăm nóc, toàn là người Trung Hoa ở” [Dalrymple, Alexander
1793]. Theo Pierre Poivre, một lái buôn phương Tây
nhiều lần đến Hội An, thì vào thời phồn thịnh nhất của thương cảng này, khoảng giữa
thế kỉ XVII, số người Hoa ở đây đạt con số kỉ lục là 6000 người “Ở Cochinchine
(Đàng Trong) có nhiều cảng. Quan trọng nhất là hải cảng nà người Bồ Đào Nha gọi
là Faifo và người Cochinchine gọi là Loja…Cảng sâu và an toàn, đặc biệt thuận
lợi cho thương nhân, vì tàu có thể cập bến ngay trước sở thương chính. Faifo là
hải cảng năng động nhất của xứ Cochinchine. Ở đấy có khoảng 6000 người Trung
Hoa và là những thương nhân cỡ lớn. Họ lấy vợ bản xứ và nộp thuế cho nhà vua…” [Poivre,
Pierre 1769].
Đặc
biệt, vào cuối thế kỷ XVII, một tác giả Trung Quốc là Thích Đại Sán đã để lại
cuốn Hải ngoại kỷ
sự, giúp ta hình dung rất rõ cảnh buôn bán phồn thịnh giữa Hội An và Quảng
Châu: trước khi khởi hành từ Quảng Đông, đêm treo đèn thượng nguyên tháng
giêng năm ất hợi (Khang Hy năm 34 tức 27-2-1695), Đại Sán đem tăng chúng hơn 20
người lên thuyền ở Hoằng Phố, nhưng “Tăng
chúng đi theo hơn 50 người, hành lý cũng nhiều, thuyền chủ nhìn nhau chẳng biết
cách sắp đặt thế nào, phải đem khách hàng chuyển lui Dương Thành (Quảng Đông),
còn phải chia một nửa tăng chúng, hành lý cho tháp tùng hai thuyền đi sau. Qua
giữa trưa ngày 16-1 kéo buồm, trên đường đi ngang qua Đồng Quảng, Hỗ Môn, Lỗ
Mán Sơn, ngày 27 tháng giêng thuyền đến cù lao Tiêm Bích la (Poulo Cham) ngoài
cửa Hội An, bình yên vô sự” [Thích Đại Sán 1963].
Cảnh
Đại Sán về nước phải từ Huế và Hội An rồi mới đi Quảng Châu cũng cho thấy vai
trò đặc biệt của Hội An trong xuất nhập cảnh vào vương quốc Đàng Trong: Ngày
mồng 3 tháng 6, từ giã Minh Vương xin đi, và quyết định ngày rằm tháng sáu sẽ
dời khỏi Thuận Hóa đi Hội An để sắp sửa ngày về nước cho kịp mùa thu gió thuận.
Quốc vương lưu lại đãi chay, mỗi lúc nói đến chuyện chia phôi, nghẹn ngào bảo
rằng: Từ ngày lão Hòa Thượng đến đây, tiểu bang đã được nhờ ơn tám chữ “Phong
điều vũ thuận, quốc thái dân an”. Mấy năm trước tầu ngoại quốc đến buôn bán,
một năm chừng 6,7 chiếc, năm nay tăng lên 16, 17 chiếc, trong nước tiêu dùng
nhân đó được dư dũ, ấy cũng nhờ phước đức Hòa Thượng che chở vậy [Thích Đại Sán
1963].
Đại Sán trong Hải ngoại Kỷ sự còn
đề cập đến tình tạng Hoa kiều tại Quảng Nam lúc bấy giờ. Đầu tiên tả tình hình
Đường nhân nhai (đường người Tàu) ở Hội An và công việc buôn bán ở đó như sau:
“Hội An là nơi bến tàu tập họp hàng hóa ngoại quốc, một con đường lớn thẳng bờ
sông dài chừng 3-4 dặm, hai bên đường phố xá ở khít nịt liền nhau, cuối đường
là Nhật Bản kiều và Cẩm Phố; hai bên sông là Trà Nhiêu, nơi đình bạc của các
thương thuyền ngoại quốc. Nhân dân trù mật, cá tôm rau quả bán tấp nập tối
ngày. Hóa vật thuốc men, những món hàng ở Thuận Hóa mua không ra, người ta đều
mua ở đây cả. Đại ước Hội An đông nam bắc 3 mặt gần bể, chỉ có mặt tây một con
đường núi non liên tiếp giao thông với Tây Việt và Đông Kinh. Bởi thế, cách
phia tây chừng 10 dặm có đặt nha Trấn Thổ giống như Vương phủ, để phòng ngự
biên cương” [Thích Đại Sán 1963].
Theo ghi chép của Đại Sán, phía
hữu chùa Di Đà có miếu thờ Quan công rất nguy nga, và quán chỉ Hội quán Phúc Kiến
cũng ở đó. Đại Sán nhận thấy ở đây khách trú ngày càng đông đảo, đến lúc mãn
phần quá cố, bơ vơ lữ thấn, nắm xương đành gửi quê người, bèn viết một bài
khuyến cáo, dặn Quả Hoằng Quốc sư cùng với thương khách Phúc Kiến đề xướng mở
một vùng nghĩa địa để làm nơi chôn cất di cốt những kiều bào bất hạnh, an giấc
nơi tha hương. Ông lại hưởng ứng lời Quốc sư, làm một bài sớ văn khuyến quyên
để tu bổ chùa Di Đà. Ngoài ra Đại Sán cũng có ghi chép sự tích của một vài Hoa
kiều như sau:
Trong thời gian lưu trú ở Hội An
lần thứ hai, Đại Sán thấy trong bọn Hoa kiều có hai người kế nhau tạ thế. Hải
ngoại kỷ sự (K.4.28a) chép rằng: “Bẩm chất người phương Bắc đến đây hay sinh
bịnh, vả lại, điều dưỡng không biết cách, bệnh trở nên nặng nhanh hơn. Trước
đây vài ngày một người lính hầu Hữu Giai, người Giang Bắc, chết ở Thuận Hóa;
nay chủ Điềm Ba Đường người Sơn Tả lại qua đời ở Hội An. Tuy sống chết do mạng
trời, nhưng người cũng có quyền di chuyển, chẳng qua Bắc nam bất phục thủy thổ
mà ra cả” [Hải ngoại Kỷ sự 1963]. Tăng Văn Lão người Phúc Kiến phạm tội nặng,
bị án xử tử, đương gia, trong ngục để chờ ngày hành hình. Bỗng ngày nọ chết
đói, sau 5 ngày lại hồi sinh. Ngày 24 tháng 4 người vợ đón đường Đại Sán lúc đi
vào Vương phủ, cầu xin trần thuyết giùm khổ tình với nhà vua. Đại Sán nhận lời
và tỏ bày việc ấy cho vua rõ. Minh vương tức thì hạ lệnh phóng thích Tăng Lão,
đồng thời phóng thích những tù nhân nhẹ tội, và giảm án cho những người trọng
tội đương bị giam [Hải ngoại Kỷ sự 1963]. Trương Tiết Phụ, nguyên quán ông bà
người Chiết Giang, sinh trưởng ở Quảng Nam, lấy chồng tên Từ Phụ. Lúc Quảng Nam
giao chiến với Chiêm Thành, Từ Phụ tòng chinh chết giữa biển. Bà Trương ngày
đêm than khóc, khô héo ruột gan, sau tìm thấy chồng trên bãi cát đêm về chôn
cất, từ đó trọn đời giữ tiết, thờ mẹ chồng, nuôi con, thực đúng trang liệt đáng
kính. Đại Sán vốn thương tâm về phong tục dâm ô ở bản xứ, bèn cảm động viết một
bài tứ ngôn cổ thư và bài tự sự để biểu dương tiết phụ họ Trương [Thích Đại Sán
1963].
Có một người Trung Quốc tên là Lưu
Thanh có lẽ là dư đảng của Trịnh thị (Trịnh Thành Công) đời nhà Minh, đương lúc
nhà Thanh đánh dẹp trên mặt bể, (tướng nhà Thanh là Thi Lương, năm Khang Hy 22,
đem quân đánh Đài Loan) Lưu Thanh về nương tựa Lam Tổng binh, sau lại trôi dạt
đến Quảng Nam. Lúc ấy Đại Sán đau nằm ở Hội An, Quả Hoằng Quốc sư mấy lần thôi
cử Lưu Thanh lên Minh Vương cho sung chức Cai phủ, quản lý hàng hóa ngoại quốc.
Đại Sán chưa kịp xét rõ, tiến cử Thanh lên Quốc Vương, liền được Quốc vương phê
chuẩn và khiến chiếu theo lệ cũ, trong 10 ngày trình nạp đủ 10 vạn bạc. Lưu
Thanh nhân việc đó ra các nơi bức sách, làm người ta bị thiệt hại rất nhiều. Đến
khi Đại Sán trở ra Thuận Hóa các Kiều khách và thuyền chủ đều trình bày việc
bất chính và cách hành động ngang tàng của Lưu Thanh. Đại Sán nghĩ, nếu dùng
người ấy làm việc, kẻ buôn bán sẽ bị bóc lột và sẽ làm hại cho dân, bèn viết
giấy trình lên Minh vương xin lập tức bãi chức Lưu Thanh [Thích Đại Sán 1963]. Trong
thời gian Đại Sán lưu trú tại Đất Việt, thường được vương mẫu và công chúa (tức
chị gái của Minh vương) thiết tiệc chay, lại thường hay giao du với bọn Vương
huynh Lệ Tuyền hầu, Thiều Dương hầu, Nguyên lão Đông Triều hầu, Đại học sĩ Ký
lục Hào Đức hầu, cùng nhau tố tặng văn thơ, giảng bàn đạo học [Thích Đại Sán 1963].
Trong hai thập kỷ gần đây, những
thành tựu quan trọng nhất của giới nghiên cứu nước ngoài về lịch sử - văn hóa
Hội An, đặc biệt là di sản quan hệ thương mại đường dài giữa Hội An và các quốc
gia khác trước hết thuộc về các học giả Nhật Bản. Các nghiên cứu đó chủ yếu đề
cập đến việc cấm đạo và chính sách đối ngoại từ thời Mạc phủ Edo, là nguyên
nhân của chính sách mậu dịch Châu ấn thuyền (thuyền
buôn được cấp phép bằng triện son). Cùng với Châu ấn thuyền là các thương điếm
ngoại quốc và các Nihon-machi (phố người Nhật) ở các quốc gia có quan hệ thương
mại. Tính từ thời Hideyoshi cho đến buổi đầu thời Tokugawa phương thức mậu dịch
này đã mở rộng khắp vùng Đông Nam Á. Riêng ở ngoại ô Manila, Philippines, số dân
Nhật Bản đã có đến 3.000 người, còn ở Ayutaya thuộc đất Thái Lan cũng đã có
khoảng 1.500 người Nhật trú ngụ. Mạng lưới mậu dịch Châu ấn thuyền cũng vươn
khắp đến tận Malacca, Malaysia, Brunei và Batavia thuộc Indonesia ngày nay. Người
Nhật lúc ấy xuất khẩu quí kim như bạc, đồng, đồ thủ công, nhập vào tơ sống
(kiito), đồ lụa đồ dệt, các loại da và dược liệu. Da hươu dùng để bọc cán kiếm
và may áo xống, có năm được mua về đến 30 vạn tấm. Đương thời, Nhật có tiếng
sản xuất nhiều bạc [Hasebe Gakuji 1991; Kawamoto Kuniye 1991].
Đối
với vương quốc Đàng Trong của các Chúa Nguyễn thì mối liên hệ với Nhật Bản đã
có ngay từ thời kỳ đầu, với hình thức trao đổi quốc thư và quà tặng giữa Chúa
Tiên Nguyễn Hoàng và Tokugawa Ieyasu khoảng giữa năm 1601. Các tư liệu này được
tìm thấy trong Gaiban Tsuusho (Ngoại phiên thông thư, gồm các quốc thư qua lại
từ 1599 đến 1764), do mạc thần Kondo Juzo (Cận Đằng Trọng Tàng, 1771-1829) thu
thập từ văn khố trong giai đoạn ông làm việc, nghĩa là 1808-1819). Người kế vị
Chúa Tiên là Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên cũng đã thi hành chính sách ngoại giao
mềm dẻo, linh hoạt với Nhật Bản. Việc thành lập khu phố người Nhật ở cảng thị Hội
An đã thể hiện kết quả tốt đẹp đó, mà Lai Viễn Kiều, Cầu Nhật Bản là một bằng
chứng [Kawamoto Kuniye 1991; Ogura Sadao 1991].
Trong
giai đoạn 1601-1635, số châu ấn thuyền đến Đàng Trong là 86 chuyến, trong khi
chỉ có 36 ra Đàng Ngoài và 5 vào Chiêm Thành. Mỗi thuyền đều chở theo một số
bạc rất lớn. Thuyền châu ấn có vốn từ 400 quan (1 kan = 1000 tiền đồng) đến
1.620 quan. Họ thu mua tơ, lụa, vải thô, lụa đa mát, lô hội, gỗ trầm hương, da
cá mập, đường phổi, mật ong, tiêu, vàng, song mây...Hàng đem xuất của họ là
đồng, lưu huỳnh, gươm giáo, áo giáp sơn. Dần dần khi lúc mậu dịch với nước
ngoài và thể chế mạc phiên đặt xong cơ sở vững vàng thì lại xảy ra việc cấm
đoán người trong nước xuất ngoại và hạn chế cả hoạt động mậu dịch vốn đang phồn
thịnh. Nguyên nhân thứ nhất của sự bế quan tỏa cảng này đến từ chính sách cấm
đạo Thiên Chúa, nguyên nhân thứ hai là vì Mạc phủ muốn độc chiếm mọi lợi ích
đến từ mậu dịch [Shigeru Ikuta 1991; Kikuchi Seiichi 2010].
Trước
tiên, vào năm 1616, Mạc phủ ban hành chính sách hạn chế số tàu bè các nước Âu
châu được ghé hải cảng Hirado và Nagasaki. Đến năm 1624 thì họ cấm hẳn tàu buôn
Tây Ban Nha. Lúc đó, người Anh vì không cạnh tranh nổi với Hà Lan, đã đóng cửa
thương quán vào năm 1623 và rời khỏi Nhật Bản. Mạc phủ cùng lúc cũng kiểm soát
gắt gao hơn các thuyền buôn Nhật Bản đi ra nước ngoài.Không những bắt buộc có
Shuinjo Châu ấn trạng, để trở thành Shuinsen Châu ấn thuyền, các thuyền buôn
phải được chức Roju (lão trung) cấp cho Lão trung phụng thư, một loại giấy phép
thứ hai. Đó là chế độ Hoshobune Phụng thư thuyền. Đến năm 1635, Mạc phủ không
cho phép người Nhật Bản ra nước ngoài cư trú được trở về nước, lại giới hạn
thuyền nhà Minh chỉ được cập bến một cảng là Nagasaki mà thôi. Đó là hình
mẫu tượng trưng cho thể chế đối ngoại của chính quyền Mạc phủ mà viên y sĩ
người Đức Engelbert Kaempfer (1651-1716) đến Nhật năm 1690 đã viết trong tập
hồi ký “Nhật Bản chí” của ông. Sách ấy đã được viên thông ngôn ở Nagasaki là
Shizuki Tadao dịch ra tiếng Nhật với nhan đề Sakoku - Tỏa quốc vào năm 1801. Ngay
tên của tập chí ấy đã nói đến chính sách “hải cấm” kaikin seisaku, Hải cấm, hay
Cấm biển của Mạc phủ [Shigeru Ikuta 1991; Kikuchi Seiichi 2010].
Ngoại phiên thông thư, Văn thư
trao đổi giữa Nhật Bản với 11 nước và hai khu vực, gồm 27 quyển : từ quyển 11
đến 14 nhan đề An Nam quốc thư gồm 56
bức thư trao đổi giữa chính quyền Mạc Phủ Đức Xuyên với các chúa Trịnh, chúa
Nguyễn (Nguyễn Hoàng, Nguyễn Phúc Nguyên, Nguyễn Phúc Trăn, Nguyễn Phúc Chu,
Trịnh Tùng, Trịnh Tráng...) liên quan đến hoạt động các Châu ấn thuyền của Nhật
Bản và quan hệ buôn bán Việt-Nhật ở Đàng Trong, Đàng Ngoài, qua đó người ta
thấy chúa Trịnh, chúa Nguyễn tuy chống nhau nhưng đều mưu cầu thông giao với
Nhật Bản và đều xưng mình là "An Nam quốc vương" với chính quyền Nhật
[Kunie Kawamoto 1991]. Một điều rất có ý nghĩa đối với lịch sử văn hóa Việt Nam
được các nhà nghiên cứu Nhật Bản làm rõ là hiện nay trong các viện bảo tàng
cũng như trong các bộ sưu tập của tư nhân Nhật Bản có nhiều đồ gốm sứ của Đại
Việt được đưa vào Nhật Bản từ giữa nửa đầu thế kỉ XIV, từ những năm 1330 thời
Trần. Đến thế kỉ XVII các tàu buôn đến [Đại Việt] mua tơ sống, hàng lụa, hương
liệu và các loại tạp hóa, đồng thời còn mua một khối lượng lớn đồ gốm sứ Đại
Việt. Điều này có thể chứng minh bằng nhiều di vật còn nguyên vẹn hiện nay vẫn
cất giữ ở Nhật Bản. Loại đồ sứ Đại Việt tiêu biểu là lọ hoa xanh có hình rồng,
vật sở hữu của gia đình tướng quân Tokugawa. Loại sứ nổi tiếng thứ hai là loại
chén trà An Nam hồng hoa xanh lam có điểm thêm màu đỏ và xanh lục rất lộng lẫy,
bên trong chén có vẽ chữ "thọ". Vào khoảng thế kỉ XVII các gia đình
thương nhân giàu có, các gia đình phái Trà đạo đều sở hữu các đồ sứ Đại Việt [Hasebe
Gakuji 1991].
Nhưng
đến những năm 1635-1639, sau một thời kỳ hoạt động nhộn nhịp, do tác động của
chính sách toả quốc (sakoku, 1639-1853) phương thức thương mại Châu ấn thuyền
đã từng bước thoái trào. Nhân cơ hội ấy các thương nhân Hoa kiều đã chiếm lĩnh
thị trường khu vực. Từ sau năm 1672, do không còn chịu sức ép mạnh mẽ từ phía
Bắc, chúa Nguyễn đã ngày càng kiểm soát chặt chẽ hơn các hoạt động của thương
nhân phương Tây. Do có những hiểu biết sâu sắc về tình hình chính trị cũng như
môi trường kinh tế Đàng Trong và từ lâu đã có quan hệ mật thiết với nhiều lớp
người, thiết lập được mạng lưới kinh tế đa chiều nên thương nhân Hoa kiều đã
trở thành những mãi biện lớn. Nhận thấy cơ hội thuận lợi đó, giới doanh thương
vùng Quảng Đông, Phúc Kiến, Hải Nam... đã thúc đẩy mạnh mẽ quan hệ kinh tế với
khu vực. Ở Quảng Đông, một tổ chức thương mại lớn là “Thập tam hãng”
đã được thành lập với mục tiêu “cung cấp cho tàu châu Âu các sản phẩm của Việt
Nam và đồng thời cung cấp cho Việt Nam hàng Trung Hoa và sản phẩm của châu Âu
mà Việt Nam cần”[ Chen Ching Ho (Trần Kinh Hòa) 1963].
Mặt khác, từ năm 1715, để hạn chế
những ảnh hưởng tiêu cực đến kinh tế ngoại thương, khuyến khích sản xuất trong
nước, chính quyền Edo đã đặt ra quy định số thuyền Trung Hoa hằng năm đến Nhật
là 30 chiếc với tổng giá trị hàng hoá là 6.000 kan (600.000 lạng
bạc). Chính sách đó đã khiến cho một số tập đoàn Hoa thương phải chuyển hướng
hoạt động xuống Đông Nam á. Nhưng, thuyền của Hoa kiều đến Đàng Trong không chỉ
từ Trung Quốc mà còn từ nhiều thương cảng khu vực Đông Nam Á như Xiêm La, Cao
Miên, Manila, Patani, v.v.. Theo quan sát của Thomas Bowyear vào năm 1695 thì
trong khoảng thời gian đó, hằng năm có từ 10 đến 12 thuyền buôn của Hoa kiều
đến Hội An buôn bán. Nhưng kể từ khi chính quyền Edo chủ trương hạn chế thuyền
Trung Hoa đến Nhật, trong khoảng 10 năm (1740-1750), số thuyền của Hoa thương
đến Đàng Trong đã tăng lên mỗi năm chừng 80 chiếc [Lamb, Alastair 1970].
Trong một lá thư gửi cho Toàn
quyền Hà Lan ở Bâtavia vào ngày 2 tháng 11 năm 1637, Abraham Duijcker, người
phụ trách thương điếm Hà Lan ở Faifo - Hội An đã giải thích lý do buôn bán với
Đàng Trong thu được ít lợi nhuận, vì năm đó nơi này bị ngập lụt; hơn nữa, vì lý
do quốc phòng, chúa Trịnh xuất tơ sống sang Nhật; nhưng khó nhất là không thể
cạnh tranh được với thuyền buôn Trung Quốc: “Vào ngày 6 tháng 9, các thuyền được cử đến An Nam [Đàng
Trong] chịu trách nhiệm mua 45 – 50.000 taels bạc nén, 2 triệu tấm vải, 600 tạ
sắt, 200 chai rượu Nhật và một số mặt hàng khác nữa. Nguyên do hấp dẫn nhiều
thương nhân Trung Quốc đến Đàng Trong là vì đó là một trung tâm mậu dịch dễ
dàng buôn bán với các nước và các đô thị gần kề khác. Palembang, Pahang và các
quốc gia láng giềng đem đến đây hạt tiêu; Borneo đen đến long não, những nơi
khác thì có tô mộc (huyết mộc Ấn Độ), ngà voi, nhựa cánh kiến, trầm hương; các
mặt hàng Trung Quốc thì có vải Nam Kinh, các sản phẩm đồ sứ dân dụng; thuyền
buôn Trung Quốc quay về nước với đầy ắp hàng hóa như hạt tiêu, ngà voi, bạch
đậu khấu, ...v.v” [Buch W.J. M. 1936, p. 159].
Việc Abraham Duijcker thừa nhận về
vai trò của thương nhân người Hoa và tình trạng khó khăn mà người Hà Lan gặp
phải trong cuộc cạnh tranh thị phần với người Hoa tại Hội An là hoàn toàn chính
xác, vì các nguyên do sau: năm 1567, Minh Mục Tông xuống lệnh cho phép thường
dân được xuất dương buôn bán sau gần 200 năm duy trì lệnh cấm “Thốn bản bất hạ
hải” của Minh Thái Tổ ban hành năm 1370; sự kiện thứ hai là năm 1600, Nguyễn
Hoàng về lại Thuận - Quảng, bắt đầu thực hiện ý đồ ly khai, cát cứ. Cửa đã mở
từ Trung Quốc để người Hoa có thể ra đi hợp pháp. Các cảng biển ở Thuận Quảng
cũng mở cửa đón người Hoa đến vì chúa Nguyễn đang cố gắng phát triển ngoại
thương để thoả mãn các nhu cầu của Đàng Trong. Nhiều thương thuyền Trung Hoa đã
đến buôn bán với Thuận Quảng, nhiều người trong số họ đã ở lại Đàng Trong làm
ăn lâu dài, nhất là ở hai trung tâm Hội An và Thuận Hoá [Cheng Ching Ho 1960,
1961; Nguyễn Thiện Lâu 1941; Trịnh Hoài Đức 1998; Huỳnh Ngọc Đáng 1999, 2005].
Từ 1645, khi Mãn Thanh chiếm được
Trung Hoa và thiết lập chế độ cai trị đến năm 1678, khi nhà Thanh hạ lệnh
“Thiên giới”, buộc dân duyên hải phải dời vào nội địa và cấm giao thông hải
ngoại. Sự kiện đáng lưu ý trong thời gian này là tháng 8 năm 1645, triều đình
Mãnh Thanh ra lệnh “chi phát nghiêm chỉnh”, bắt dân cắt tóc và theo tục người
Thanh bím tóc đuôi sam, đồng thời thi hành các chính sách cai trị độc đoán, hà
khắc. Nhiều người Hoa xem lệnh cắt tóc là xúc phạm văn hoá, đồng thời bất mãn
với chế độ cai trị Mãn Thanh đã dời bỏ đất nước ra đi, tìm đất sống ở các nơi
khác, trong đó có Đàng Trong. Từ 1678 đến trước năm 1685, cuộc kháng chiến
“Phản Thanh phục Minh” của Trịnh Thành Công ở Đài Loan và “Loạn Tam Phiên” bùng
nổ. Do Mãn Thanh cấm dân duyên hải ra biển nhằm cô lập, cấm vận quân kháng
chiến Đài Loan nên Trịnh Thành Công phải đưa các thương thuyền đến nhiều nước ở
Đông Nam Á, trong đó có Đàng Trong để mua lương thực, khí tài. Một số người Hoa
trong họ đã ở lại Đàng Trong. Đến khi phong trào kháng chiến ở Đài Loan tan vỡ
(1683), các di thần nhà Minh đã kéo nhau ra đi, đến Đàng Trong định cư lâu dài.
Tiêu biểu là đoàn người 3000 binh lính với trên 50 chiến thuyền của Trần Thượng
Xuyên, Dương Ngạn Địch. Năm 1685, Thanh Thánh Tổ đã ban hành “Triển hải lệnh”
cho phép nhân dân được vượt biển đi các nước buôn bán. Đông đảo người Hoa đã
đến định cư ở Đàng Trong trong giai đoạn này. Họ chủ yếu là dân thường, di cưu
vì sinh kế và các lý do khác. Nhân vật chính của di dân Trung Hoa đến Đàng
Trong trong giai đoạn này không phải là nạn dân hay di thần nhà Minh nữa [Cheng
Ching Ho 1960, 1961; Huỳnh Ngọc Đáng 1999, 2005].
Đầu tiên ở Thuận Hóa và một số
vùng khác của Đàng Trong, người Hoa ngụ cư ở các điểm có tên là Đại Minh Khách
Phố. Tên gọi này chắc chắn xuất hiện và chỉ tồn tại trong khoảng thời gian
trước năm 1645, khi nhà Minh còn vững vàng ở Trung Hoa. Những thương khách
Trung Hoa sang Đàng Trong trong thời kỳ này đã ngụ cư trong những Đại Minh
Khách Phố đó. Các Đại Minh Khách Phố là tên gọi các điểm tập trung cư trú của
người Hoa ở Đàng Trong trong khoảng thời gian trước năm 1645. Lúc này hoàn toàn
chưa hề xuất hiện hai tên gọi Minh Hương và Thanh Hà [Cheng Ching Ho 1960, 1961].
Từ sau năm 1645, khi Mãn Thanh cơ bản thiết lập sự cai trị ở Trung Hoa, nhữntg
người Hoa ở các Đại Minh Khách Phố đón nhận thêm những đồng bào của mình là nạn
dân đến Đàng Trong để tỵ nạn Mãn Thanh. Những người Hoa mới đến đã cùng các
đồng bào đến trước của họ đặt ra tên gọi mới của cộng đồng. Tên Minh Hương xuất
hiện dần dần thay thế cho từ Đại Minh Khách Phố. Đầu tiên, Minh Hương có nghĩa
là ''những người gìn giữ hương hỏa nhà Minh'', Minh Hương có nghĩa là những
người trung thành với triều Minh chạy trốn sang Việt Nam tránh sự chiếm đóng
của nhà Thanh. Từ Minh Hương thường được dùng như tên gọi của một cộng đồng,
một đơn vị hành chính, thường đi kèm với từ Xã (đơn vị hành chính lớn hơn Thôn,
Lân... và khác về nghĩa với Phố). Minh Hương Xã là đơn vị hành chánh cấp Xã,
chỉ cộng đồng của những di dân Trung Hoa trung thành với nhà Minh ở Đàng Trong,
phản ánh lập trường chính trị ủng hộ nhà Minh, phản kháng Mãn Thanh trong tư
tưởng của cư dân người Hoa trong cộng đồng [Nguyễn Thiện Lâu 1941].
Tên
gọi Minh Hương với ý nghĩa đầu tiên như trên chỉ có thể hình thành và xuất hiện
trong khoảng thời gian từ sau 1645 đến 1683. Minh Hương xã ở Hội An là Minh Hương
xã đầu tiên của Đàng Trong. Cheng Ching Ho (Trần Kinh Hòa) đã khảo sát nhiều tư
liệu, đưa ra nhiều luận cứ để đi đến kết luận: Minh Hương xã Hội An, đơn vị
hành chính đầu tiên mang tên này ở Đàng Trong có niên đại thành lập chính thức
khoảng giữa năm 1645 đến 1653, có thể là mấy năm sau 1645. Người Hoa ở Minh
Hương xã Hội An, Thuận Hóa theo chân người Việt vào làm ăn ở Sài Gòn đã đón
tiếp đám quân binh của Trần Thượng Xuyên đến Đàng Trong. Họ đã họp lại, xây
dựng phố, chợ, đền, chùa...và thành lập một cộng đồng mới, tự lấy tên là Minh
Hương theo tên cũ ở Hội An, Thuận Hóa. Kịp đến năm 1698, Nguyễn Hữu Cảnh vào
kinh lý đất Giản Phố, phân chia làng, xã, thôn, xóm, Minh Hương xã ở Sài Gòn
thuộc Phiên trấn đã được chính quyền Đàng Trong chính thức công nhận [Trịnh
Hoài Đức 1998].
Những
người Hoa mới đến từ sau năm 1685, khi chính quyền Mãn Thanh ban hành ''Triển hải
lệnh'', cho phép dân chúng tự do giao thông hải ngoại, đã họp thành các khu phố
chợ sầm uất ở Thuận Hóa, Hội An, Trấn Biên được chính quyền hợp thức bằng tên
Thanh Hà. Tên gọi này thường đi kèm với từ Phố. Thanh Hà Phố là phố của người
nước Thanh. Nội dung ý nghĩa này có sự phân biệt rõ giữa những người Hoa mới
đến từ thời Mãn Thanh với những người Hoa đến từ các giai đoạn trước, đã định
cư yên ổn làm ăn trong các cộng đồng làng xã tên Minh Hương. Trong tên gọi
Thanh Hà không còn bao hàm nội dung chính trị ''phản Thanh''. Mức độ tự ý thức
dân tộc được thể hiện khá rõ bằng sự tự khẳng định là người dân đến từ nước
Trung Hoa Mãn Thanh nhưng cấp độ tự hào của ý thức dân tộc giữa ''Thanh'' trong
Thanh Hà với ''Đại Minh'' trong Đại Minh Khách Phố trước đây có khoảng cách khá
rõ [Huỳnh Ngọc Đáng 1999, 2005].
Đến thời điểm này tên gọi Minh Hương lại có nghĩa phái sinh mới. Minh Hương là những thế hệ người lai giữa Hoa và Việt, thường là cha Hoa mẹ Việt [Nguyễn Thiệu Lâu 1941]. Từ Minh Hương lúc này vừa chỉ đơn vị hành chính (Minh Hương xã), vừa được dùng như tên gọi một nhóm người của xã hội: người Minh Hương ( phân biệt với người Khách, người nước Thanh, người Cao Miên, người Chà Và, người Tây Dương...). Nội dung ý nghĩa này được dùng khá phổ biến. Triều Nguyễn sau này đã sử dụng nó để thiết lâp các nguyên tắc về nhập cư và quốc tịch cho người Hoa và gốc Hoa. Dưới thời triều Nguyễn, từ Minh Hương có thêm nghĩa biến đổi, để giữ gìn quan hệ hoà hiếu với nhà Thanh, trong các văn bản ngoại giao chính thức, nhà Nguyễn đã thay chữ Hương (bộ hương) nghĩa ''hương hỏa'' bằng chữ Hương (bộ ấp), nghĩa ''quê hương, làng xóm''. Từ Minh Hương bây giờ chuyển nghĩa từ ''những người gìn giữ hương hỏa nhà Minh'', những người trung thành với triều Minh sang nghĩa mới là ''những làng xóm cũ người Hoa đến Việt Nam từ thời Minh''; tương ứng với từ Thanh Hà theo nghĩa ''phố của những người Hoa đến Việt nam từ thời nhà Thanh'' [Huỳnh Ngọc Đáng 1999, 2005].
Ngoài ra, trong những thập kỷ cuối
cùng của thế kỷ XX, các học giả phương Tây đa xây dựng một số mô hình tương tác
giữa miền núi – trung du – duyên hải – và đại dương, trong đó tiêu biểu có mô
hình của Bronson, được sử dụng để diễn giải lịch Đàng Trong (Cochinchina). Mô
hình đó cho rằng, dòng chủ lưu của lịch sử và đời sống cư dân vùng này xoay quanh
một hải cảng trung tâm ở vùng hạ lưu. Mỗi khu vực bị phân ranh bởi các
con sông, hoặc con đèo để hình thành một vùng, một tỉnh trong quốc gia của chúa
Nguyễn. Các con đường ven biển kết nối các miền với nhau, tạo thành hành
lang duyên hải để liên kết các vùng miền này. Các tuyến đường thủy trên
biển kết nối các hải cảng với thị trường nước ngoài. Giống như các thủ
lĩnh Champa, các chúa Nguyễn cũng xây dựng các trung tâm hành chính cấp miền
của họ lui về phía trong, giáp giới các ngọn núi chia cắt hệ thống sông, và có
nhiều vùng hợp lưu, trước khi hệ thống đó lan tỏa khắp vùng đồng bằng ven biển
[Bronson B. 1977, 39-52]. Hệ thống chợ trung tâm của miền cũng được xây dựng
tại các trung tâm này, điển hình là trường hợp của Hội An.
Theo mô hình của Bronson thì vùng thượng
du thung lũng sông Thu Bồn với Hội An là trung tâm bị chia cắt bằng núi đồi,
lại được kết nối bằng hệ thống sông ngòi chằng chịt. Dưới thời vương quốc
Champa, đây là vùng vẫn được coi là thuộc về các cộng đồng nói tiếng Malayo-Polynesian,
Nam Đảo. Họ đã xây dựng các chính thể chịu ảnh hưởng của Phật giáo Ấn Độ hơn
một nghìn năm trước khi Hội An trở nên thịnh vượng dưới thời các chúa Nguyễn.
Càng ngày các học giá càng chú ý đến vai trò của các cộng đồng nói ngôn ngữ Malayo-Polynesian,
là những cư dân thông thạo sông nước và biển cả nhất. Một trong số học giả tiên
phong kết nối vai trò của mậu dịch sông nước và đại dương với quá trình hình
thành các thể chế chính trị của cư dân Nam Đảo là Bennet Bronson. Các nhà
nghiên cứu về di sản văn hóa Champa đã sử dụng mô hình của Bronson để diễn giải
và xây dựng các mô hình lý thuyết bao quát nhiều lĩnh vực, trong đó có đề cập
đến tác động sâu xa của môi trường sinh thái đối với các mô thức chính trị, văn
hóa, xã hội đã định hình nền thương mại và các hoạt động trao đổi, buon bán của
khu vực. Thậm chí người ta còn sử dụng tác động của môi trường để diễn giải
thích tính gây hấn, hoặc các hoạt động hải tặc của người Champa. Các trường
hợp như Hội An, đã được lấy làm hình mẫu so sánh một cách hữu dụng với các môi
trường tương tự như ở Sumatra, Bán đảo Mã Lai, Borneo hay Philippnes [Wheeler Ch. 2003, 2006].
Có
thể nói các nghiên cứu của nước ngoài trong giai đoạn cuối thế kỷ 20, đầu thế
kỷ 21 đã đưa ra những cái nhìn hoàn toàn mới về vai trò của Hội An đối với toàn
bộ lịch sử Việt Nam bằng cái nhìn gắn liền với biển. Một trong những học giả
tiên phong trong lĩnh vực này là Wheeler. Theo ông, các thương nhân Hội An đã
khai thác vị trí chiến lược của hải cảng trong trong mạng lưới vận tải biển để
cạnh tranh và cạnh tranh thành công với hệ thống cảng biển Châu Á, trong đó có
các cảng tầm cỡ thế giới là Macau, trong việc thâu tóm các lợi ích buôn bán giữa
Trung Hoa, Nhật Bản với thế giới phương Tây. Hệ thống kho của Hội An luôn chất đầy
hàng hóa của toàn bộ Đông Nam Á lục địa và hải đảo để đưa đến nhiều nơi trên
thế giới. Các thương nhân của thị trấn, hầu hết là người Hoa gốc Phúc
Kiến, và trước 1639 là người Nhật, thu gom các hàng hóa địa phương được phu
khuân vác, súc vật và thuyền đưa tới từ vùng núi, các đồng bằng phù sa, và vùng
duyên hải, để xuất ra nước ngoài [Wheeler
Ch. 2003, 2006].
Hội
An với tư cách là đầu mối của một mạng lưới thương mại và mậu dịch đã tạo thành
chất gắn kết hỗ hợp bao gồm người bản địa Champa, các cộng đồng người đến sau, các
nhà buôn, các nhà hàng hải vãng lai dưới quyền của các chúa Nguyễn đang năng
động mở rộng không gian quốc gia Đại Việt, và đóng một vai trò then chốt trong
tiến trình thành lập quốc gia trong buổi đầu của kỷ nguyên hiện đại. Chính
vai trò của cảng biển và hệ thống thương mại của Hội An đã cho thấy vai trò của
các cư dân duyên hải với tư cách là các nhà đầu tư theo chiều sâu vào mọi hoạt
động thương mại biển của Hội An, đã thể hiện rõ nét đặc trưng của một nền văn
hóa ven biển. Các hoạt động của họ thể hiện rất rõ định hướng biển, giao
lưu với mọi cộng đồng cư dân biển của Việt Nam, và thực ra thì với Hội An, Việt
Nam cận đại và hiện đại đã được định hình bằng đặc trưng biển [Wheeler Ch. 2003, 2006].
Bằng lối tiếp cận vi mô, các nhà
nghiên cứu phương Tây đã nhìn thấy rất rõ vai trò của yếu tố cận duyên trong
các vùng miền trung. Họ thấy các sản phẩm vùng thượng du được chuyên chở trên những
con thuyền đảm bảo vận tải đường sông nối liền hệ thống sông, lạch, đầm phá, tỏa
khắp các thung lũng sông màu mỡ. Trong đó hệ thống chợ quê nằm dọc các con sông
rất thuận tiện để các thương thuyền tiếp nhận các sản phẩm nông nghiệp và các
thành phẩm của các cư dân vùng đồng bằng ven biển. Một số các sản phẩm này
được dành cho các thị trường địa phương, một số được chở xuống các hải cảng ven
biển. Từ đó, các đoàn thuyền vận tải cận duyên có thể tiếp tục đưa hàng hóa đến
Hội An để xuất đi các vùng khác hoặc ra nước ngoài. Hệ thống ấy cho thấy các
thức hoạt động thương mại dọc ven biển, theo các con sông, các đầm phá, hệ
thống kênh rạch len lỏi giữa mọi địa hình và kết nối hệ thống chợ các khu vực
dân cư và khu canh tác của ba miền: thượng du, trung du và hạ du lại với nhau
để tạo thành một khối liên kết kinh tế chặt chẽ. Điều đó thể hiện rất rõ
qua số lượng và các loại thuyền có kỹ thuật và hình thức đặc biệt thích nghi
nhằm tối đa hóa với môi trường cận duyên. Các nguồn tài liệu thời cực thịnh của
Hội An đều đề cập đến hệ thống lưu thông ven biển này [Wheeler Ch. 2003, 2006].
____________________________________
Tài
liệu dẫn
Barrow, John 1806. A Voyage to Cochinchina in the years 1792
and 1793. London: T. Cadell and W. Davies, 1806.
Borri, Christoforo 1631. Relation
de la Nouvelle Mission des Péres de la Compagnie de Jesus au Royaume de la
Cochinchine, Lille: Pierre de Rache, 1631. Bort, Balthasar.
Bronson B. 1977. Exchange at the Upstream and Downstream Ends: Notes
toward a Functional Model of the Coastal State in Southeast Asia, in Economic
Exchange and Social Interaction in Southeast Asia - Perspectives from
Prehistory, History, and Ethnography, edited by Karl L. Hutterer, Michigan
Papers on South and Southeast Asia Center for South and Southeast Asian
Studies, The University of Michigan, Number 13.
Buch W.J. M. 1936. La
Compagnie des Indes néerlandaises et l'Indochine, Bulletin de l'Ecole
française d'Extrême-Orient. Tome 36, 1936. pp. 97-196.
Cheng
Ching Ho (Trần Kinh Hòa) 1960. Mấy điều
nhận xét về Minh Hương xã và các cổ tích ở Hội An, VNKC tập san, số 6, Sài
Gòn 1960.
Chen
Ching Ho (Trần Kinh Hòa) 1961. Làng Minh
hương và phố Thanh hà thuộc tỉnh Thừa Thiên, Đại học số 3, Sài Gòn 1961.
Chen Ching Ho (Trần Kinh Hòa)
1963. Khảo cứu về Hải Ngoại kỷ sự,
của Thích Đại Sán, in trong: Hải Ngoại kỷ
sự của Thích Đại Sán, Bản dịch của Viện Đại học Huế, Viện Đại Học Huế xuất
bản, 1963.
Dalrymple, Alexander 1793. Voyage to Cochinchina of M. Bowyear, T. I, pp.
65, 94,104,110.
Gaspardone, Emile 1929. W.
J. M. Buch : De Oost-indische Compagnie en Quinam. De betrekkingen der
Nederlanders met Annam in de XVIIe eeuw, In: Bulletin de l'Ecole française d'Extrême-Orient. Tome 29, 1929. pp.
364-370.
Hasebe
Gakuji 1991. Tìm hiểu mối quan hệ
Nhật-Việt qua đồ gốm, sứ, Kỷ yếu Hội thảo quốc tế về Đô thị cổ Hội An, Nxb.
Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1991.
Huỳnh Ngọc Đáng 1999. Chính sách
của chính quyền Đàng Trong đối với người Hoa (từ năm 1600 đến năm 1777),
Luận văn Thạc sĩ khoa học Lịch sử, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn,
Thành phố Hồ Chí Minh.
Huỳnh Ngọc Đáng 2005. Chính sách
của các vương triều Việt Nam đối với người Hoa, Luận văn Tiến sĩ
Lịch sử, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Thành phố Hồ Chí Minh.
Kato
Ejichi 1991. Mậu dịch với Đông Dương của
các thương điếm thuộc Công ty Đông Ấn Hà Lan tại Nhật Bản, Kỷ yếu Hội
thảo quốc tế về Đô thị cổ Hội An, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1991.
Kawamoto
Kuniye 1991. Nhận thức Quốc tế của chúa
Nguyễn ở Quảng Nam căn cứ theo Ngoại phiên thông thư, Kỷ yếu Hội thảo quốc
tế về Đô thị cổ Hội An, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1991.
Kazimien
Kwiatkowski 1991. Các liên hệ kinh nghiệm
của Ba Lan cho chương trình tu bổ-bảo vệ phố cổ Hội An, Kỷ yếu Hội thảo
quốc tế về Đô thị cổ Hội An, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1991.
Kikuchi
Seiichi 2010. Nghiên cứu Đô thị cổ Hội An
từ quan điểm Khảo cổ học lịch sử. Nxb. Thế giới, Hà Nội.
Li Tana 1999. Xứ Đàng Trong – Lịch sử Kinh tế - Xã hội Việt
Nam thế kỷ XVII và XVIII. Bản dịch tiếng Việt của Nguyễn Nghị, Nhà xuất bản
Trẻ.
Li Tana
2006. A View From The Sea: Perspectives On The
Northern And Central Vietnamese Coast, In the Journal Southeast Asian Studies, 37.1 (Feb. 2006), pp.
83-102
Maspero G. 1928. Le Royaume des
Champa, G. Van Oest, Paris 1928.
National Library of Australia
2010. Digital Collections – Maps – A Map of the World 1506..
http//:nla.gov.au/nla.map-f887.
Nguyễn
Thiện Lâu 1941. La Formation et L'
Evolution du village de Minh Huong ( Faifo), BAVH. 4. 1941.
Nunn,
George E. 1927. The Lost Globe Gores of Johann SchOner, 1523-1524.
The Geographical Review, vol.17, no.3, July 1927, pp.476-480.
Nunn,
George E. 1932. The Columbus and Magellan Concepts of South American Geography.
Glenside, the author, 1932, pp.12-13 & 49-51.
Nunn,
George E. 1992. The Three Maplets attributed to Bartholomew Columbus.
Imago Mundi, vol.9, 1952, 12-22, p.15
Ogura
Sadao 1991. Về bức tranh “Giao Chỉ quốc
mậu dịch độ hải đồ” và “Thác kiến Quan Thế Âm”, Kỷ yếu Hội thảo quốc tế về
Đô thị cổ Hội An, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1991.
Pires, Tome 1990. The
Suma
Oriental of
Tome Pires: an account of the East, from the Red Sea to China, written in
Malacca and India in 1512-1515. Published by J. Jetley, New Delhi 1990.
Poivre, Pierre 1769. Voyages d'un philosophe ou observations sur les moeurs et les arts
des peuples de l'Afrique, de l'Asie et de l'Amérique,
Fortuné-Barthélemy de Félice, 1769.
Polo, Marco 1903. The
book of Ser Marco Polo the Venetian, concerning the kingdoms and marvels of the East (1903).
Author: Polo, Marco, 1254-1323?; English Translation by Henry Yule (London: John Murray,
1903), Vol. II.
Ptolemy K. 1885. Ancient
India as described by Ptolemy. Translated by J.W. McCrindle,
Publisher: Trübner.
Ptolemy K. 1915. Note
II. Extracts from the Geography of Ptolemy. Vol.
I. Second Series No. XXXVII. Issued for 1915 by Society
Cathay and the Way thither 1915. Liberary of Wellesley College Presented by
Institute on the Far East Works, (Ptolemy K. 1915), Institute on the Far East
Works 1915.
Reid, Anthony, 1988. Southeast
Asia in the Age of Commerce 1450-1680. Vol. 1: The Lands Below the Winds,
New Haven: Yale University Press.
Reid, Anthony, 1993. Southeast
Asia in the Age of Commerce, Vol. II: Expansion and Crisis. New
Haven: Yale University Press.
Reid, Anthony, 1996. Flows and Seepages in the Long-term Chinese
Interaction with Southeast Asia, In Sojourners and Settlers: Histories
of Southeast Asia and the Chinese. Ed. Reid. Sydney: Allen
& Unwin for ASAA.
Roders , Ana Pereira and
Sophia Labadi 2012. A critical analysis on the values conveyed on the UNESCO World
Heritage Convention. P080 Eindhoven University of Technology, Paper for the
Conference of the Association of Critical Heritage Studies, University
of Gothenburg, Sweden, in June 2012.
Schwartz S.H. 1992. Universal in the contents and structure of
values: theoretical advances and empirical tests in 20-centuries. In M.
Zana (ed.) Advances in Experimental social psychology (Vol.25, pp.1-65).
Orlando FL: Academic Press.
Schwartz S.H. & Sagiv L. 1995.
Identifying Culture-specifics in the
content and structure of values. Journal of Cross-Cultural Psychology, 26,
92-116.
Shigeru
Ikuta 1991. Vai trò của các cảng thị vùng
ven biển Đông Nam Á từ thế kỷ 2 tr.CN đến đầu thế kỷ 19, Kỷ yếu Hội thảo
quốc tế về Đô thị cổ Hội An, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1991.
Strabo
1917-1932. The Geography of Strabo.
Loeb Classical Library, 8 volumes, Greek texts with facing English translation
by H. L. Jones: Harvard University Press, 1917 thru 1932.
Thích Đại Sán 1963. Hải Ngoại kỷ sự, Bản dịch của Viện Đại
học Huế, Viện Đại Học Huế xuất bản, 1963.
Trịnh
Hoài Đức 1998. Gia Định Thành Thông Chí,
Bản dịch tiếng Việt của Cao Tự Thanh, Trung tâm KHXH và NV quốc gia, Viện Sử
học, NXB Giáo dục 1998.
Varela, Consuelo (ed)
1992. Lettera Rarissima, Jamaica, 7 July 1503, in Cristobal
Colon: Textosy Documentos Completos, Madrid, Alianza Editorial, 1992, p.48.
Vespucci A.
1500-1944-1999. Amerigo Vespucci to Lorenzo de'Medici, Seville, 18 July 1500;
quoted in Frederick J. Pohl, Amerigo Vespucci: Pilot Major,
New York, Columbia U.P., 1944, p.77; Early Modern Literary Studies, vol.5,
no.2, September 1999.
Vickery, Michael 2005. Champa revised, Asia Research Institute Working Paper Series
No. 37, 2005. The ARI
Working Paper Series is published electronically by the Asia
Research Institute of the National University of Singapore.
Wade,
Geoff 2005. Champa in the Song hui-yao: A draft translation,
Asia Research Institute, Working Paper
Series, No. 53. Asia Research Institute, National University of
Singapore, Dec. 2005.
Wallis, Helen 1992. What
Columbus Knew. History Today, vol.42, May 1992.
Wheeler,
Charles 2003. A
Maritime Logic in Vietnamese History? Littoral Society in Hội An‘s Trading
World c. 1550-1830, Paper presented at Seascapes, Littoral Cultures, and Trans-Oceanic Exchanges, Library
of Congress, Washington D.C., February 12-15, 2003.
Wheeler,
Charles 2006. Re-thinking the Sea in Vietnamese History:
Littoral Society in the Integration of Thuận-Quảng, Seventeenth-Eighteenth
Centuries, In the Journal
Southeast Asian Studies, 37.1 (Feb. 2006): từ trang 123 đến trang
154.
Yoshiaki
Ishizawa 1991. Hội An và cư dân Nhật
trước đây, Kỷ yếu Hội thảo quốc tế về Đô thị cổ Hội An, Nxb. Khoa học Xã
hội, Hà Nội, 1991.
Yule, H. 1882. Notes on the oldest records of the sea route to China from Western Asia. Proceedings of the Royal Geographical Society IV: 658-9. London.
Yule, Henry 1903. The Book of Ser Marco Polo, the Venetian Concerning the Kingdoms and Marvels of the East (Volum 1, 2) (3rd ed.), London: John Murray.
Yule, H. 1882. Notes on the oldest records of the sea route to China from Western Asia. Proceedings of the Royal Geographical Society IV: 658-9. London.
Yule, Henry 1903. The Book of Ser Marco Polo, the Venetian Concerning the Kingdoms and Marvels of the East (Volum 1, 2) (3rd ed.), London: John Murray.
Yule Henry, Arthur Coke Burnell
1903. Hobson-Jobson: A glossary of
colloquial Anglo-Indian words and phrases, and of Kindred Terms, Etymological,
Historical, Geographical and Discoursive, London 1903.
列傳第四十八,诸夷,海南诸国 Liệt truyện
đệ tứ thập bát, chư di, hải
nam chư quốc
樑書, 扶南國
Lương Thư – Phù Nam quốc
南史,卷七十八,列傳第六十八,夷貊上,海南諸國 Nam sử quyển thất thập bát, liệt truyện
đệ lục thập bát, di mạch thượng, hải nam chư quốc.
南朝四史,四夷傳,纂修原因之探討, 陳金城 Nam
triều Tứ sử, Tứ di truyện toản tu nguyên nhân chi tham thảo, Trần Kim Thành.
晉書,四夷傳,扶南國 Tấn thư, Tứ di truyện, Phù Nam quốc
宋書/卷97,南夷,西南夷 Tống thư/ quyển97, nam di, tây nam di
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét