Powered By Blogger

Chủ Nhật, 23 tháng 11, 2025

Thế lực của Tam lão và Gia tộc Hương thôn thời Hán (I)

Trần Minh Quang

Người dịch: Hà Hữu Nga

[Tóm tắt] Thông qua phân tích toàn diện các văn bản được truyền lại và dữ liệu khảo cổ, bài viết này cho rằng thể chế 三老 Hương Tam Lão ‘Tam Lão Hương thôn’ thời nhà Hán nắm giữ các chức vụ chính thức nhưng không chỉ đơn thuần là quan lại. Họ thường giàu có, sở hữu năng lực văn hóa và chính trị đáng kể, và có ảnh hưởng trên một khu vực địa phương rộng lớn, do đó đại diện cho quyền lực của gia tộc tương ứng. Nhà Hán thiết lập chế độ Hương Tam Lão để thu phục và sử dụng những đại diện quyền lực gia tộc này, tạo điều kiện cho họ giúp nhà nước duy trì trật tự nông thôn thông qua các phong tục chính trị và văn hóa, từ đó củng cố sự kiểm soát của nhà nước đối với cơ tầng xã hội nông thôn.

[Từ khóa] Nhà Hán, Tam Lão làng, Quyền lực Gia tộc, Xã hội Cơ sở Trong quá trình nghiên cứu mối quan hệ giữa nhà nước Trung Quốc cổ đại và xã hội cơ sở Hương thôn, quyền lực gia tộc đã nhận được sự quan tâm đáng kể. Khái niệm “quyền lực gia tộc” được đề xuất bởi sử gia nổi tiếng Phó Y Lăng.1 Ông tập trung vào “sự kết hợp của các gia tộc từ quan hệ huyết thống đến quan hệ địa lý”, như một số học giả đã nhận định: “Ông không chỉ xem xét sự kết hợp của gia tộc mà còn nhấn mạnh vai trò của sự kết hợp đó trong một khu vực địa lý.”2 Mặc dù nghiên cứu học thuật về ảnh hưởng của quyền lực gia tộc trong các triều đại Tống, Minh, Thanh, cũng như cách nhà nước sử dụng và hạn chế quyền lực gia tộc trong việc thực hiện quyền kiểm soát nông thôn, đã tương đối sâu sắc và chi tiết, nhưng việc nghiên cứu về thời Hán và Đường vẫn còn khá yếu và cần được phát triển thêm.

Bài viết này nhằm mục đích khám phá ‘Hương Tam Lão’ và quyền lực gia tộc trong thời nhà Hán, cũng như các phương pháp kiểm soát nông thôn của nhà Hán. Các nghiên cứu hiện có đã chỉ ra rằng việc thiết lập ‘Hương Tam Lão’ trong thời nhà Hán chịu ảnh hưởng bởi trách nhiệm của 鄉老大夫  hương lão cập hương đại phu  ‘các bậc trưởng lão và đại quan hương thôn’ được ghi lại trong ‘Chu Lễ’ thiên ‘Địa quan, Tư đồ’. ‘Hương Lão’ trong ‘Chu Lễ’ chịu trách nhiệm tiến cử nhân tài cho triều đình và giáo dục người dân địa phương, do đó nắm giữ địa vị ‘Hương quan’. Vậy thì liệu ‘Hương Tam Lão’ trong thời nhà Hán có giữ địa vị chính thức hay không vẫn còn là một vấn đề gây tranh cãi. Như mọi người thấy:《史記•平準書》、《漢書•食貨志》都記載了漢武帝的算遼車令,其中有「非吏比者、三老、北邊騎士,遼車一算」一句。如淳注曰:「非吏而得與吏比者,官謂三老、北邊騎士也。」他認為「非吏比者」指三老、北邊騎士二類人。顏師古則認為:「比,例也。身非為吏之例,非為三老,非為北邊騎士,而有遼車,皆令出一算。」他把「非吏比者」、「三老」、「北邊騎士」視作不同的三類人。古今都有取如淳之者。‘Sử kí• Bình Chuẩn Thư’, ‘Hán thư•Thực Hóa Chí’ đô kí tái liễu Hán Vũ Đế đích toán diêu xa lệnh, kì trung hữu ‘Phi lại bỉ giả, Tam Lão, Bắc Biên kị sĩ, diêu xa nhất toán’ nhất cú. Như Thuần Chú viết: ‘Phi lại nhi đắc dữ lại bỉ giả, quan vị Tam lão, bắc biên kị sĩ dã.’ Tha nhận vi ‘Phi lại bỉ giả’ chỉ Tam lão, bắc biên kị sĩ nhị loại nhân. Nhan Sư Cổ tắc nhận vi: ‘Bỉ, Lệ dã. Thân phi vi lại chi lệ, phi vi Tam lão, phi vi bắc biên kị sĩ, nhi hữu diêu xa, giai lệnh xuất nhất toán.’ Tha bả ‘Phi lại bỉ giả’, ‘Tam lão’, ‘Bắc biên kị sĩ’ thị tác bất đồng đích tam loại nhân. Cổ kim đô hữu thủ Như Thuần chi thuyết giả. Dịch nghĩa: Cả ‘Sử Ký’ thiên ‘Bình Chuẩn Thư’ và ‘Hán Thư’ thiên ‘Thực Hóa Chí’ đều ghi lại sắc lệnh của Hán Vũ Đế về cách tính xe ngựa, trong đó có cụm từ “những người không phải là quan lại, tức là Tam Lão, và Bắc biên Kỵ sĩ (Kỵ binh Biên giới phía bắc), mỗi bên được tính một lần xe ngựa”. Như Thuần bình chú: “Những người không phải là quan lại nhưng có thể so sánh với quan lại được gọi là Tam Lão và Bắc biên Kỵ sĩ.” Ông tin rằng “những người không phải là quan lại nhưng có thể so sánh với quan lại” ám chỉ hai hạng người: Tam lão, và Bắc biên Kị sĩ.

Tuy nhiên, Nhan Sư Cổ lại cho rằng: 顏師古則認為:「比,例也。身非為吏之例,非為三老,非為北邊騎士,而有遼車,皆令出一算。」他把「非吏比者」,「三老」,「北邊騎士」視作不同的三類人。古今都有取如淳之者。今人或提出新的論證,斷定「三老」的性質「與屬吏殊」。特別是1993年尹灣漢墓出土的《集簿》和《東海郡吏員簿》釋文公佈之後,由於後者未列入“三老”,因此有的學者斷言:“可以確定‘三老’是榮譽頭銜,不是在編官”Phiên âm: Nhan Sư Cổ tắc nhận vi: “Bỉ, lệ dã. Thân phi vi lại chi lệ, phi vi tam lão, phi vi bắc biên kị sĩ, nhi hữu diêu xa, giai lệnh xuất nhất toán.” Tha bả ‘phi lại bỉ giả’, ‘Tam lão’, ‘Bắc biên Kỵ sĩ’ thị tác bất đồng đích tam loại nhân. Cổ kim đô hữu thủ như thuần chi thuyết giả.3 Kim nhân hoặc đề xuất tân đích luận chứng, đoạn định ‘Tam lão’ đích tính chất ‘dữ chúc lại tuyệt thù’.4 Đặc biệt thị 1993 niên Doãn Loan Hán mộ xuất thổ đích ‘Tập Bộ’ hòa ‘Đông Hải Quận Lại Viên Bộ’ thích văn công bố chi hậu, do vu hậu giả vị liệt nhập ‘Tam lão’, nhân thử hữu đích học giả đoạn ngôn: “Khả dĩ xác định ‘Tam Lão’ thị vinh dự đầu hàm, bất thị tại biên hương quan”5. Dịch nghĩa: “Bỉ nghĩa là ví dụ vậy. Những người không phải là quan lại, không phải Tam Lão, không phải Bắc biên Kỵ sĩ, mà có xe ngựa, đều phải chịu sự tính toán như nhau.” Ông coi “những người không phải là quan lại”, “Tam Lão” và “Bắc biên Kỵ sĩ” là ba loại người khác nhau. Cả học giả cổ đại và hiện đại đều chấp nhận cách giải thích của Như Thuần.3 Các học giả hiện đại đã đưa ra những lập luận mới, khẳng định rằng bản chất của ‘Tam Lão’ ‘hoàn toàn khác với bản chất của các quan lại cấp dưới.’4 Đặc biệt là sau khi công bố các giải thích về hai sổ ‘Tập Bộ’‘Đông Hải Quận Lại viên Bộ’  được khai quật vào năm 1993 từ Lăng mộ Doãn Loan thời nhà Hán, vì sổ sau không bao gồm ‘Tam Lão’, một số học giả khẳng định: “Có thể xác định rằng ‘Tam Lão’ là một danh hiệu danh dự, không phải là một thể chế quan lại địa phương.”5

[Ghi chú về Bắc biên Kỵ sĩ (Kỵ sĩ Biên giới Phương Bắc) là một nhóm xã hội tiêu biểu ở các quận huyện biên giới phía bắc của nhà Tây Hán. Là một tổ chức quân sự chính quy trong lực lượng phòng thủ biên giới của chế độ Tây Hán, Bắc biên Kỵ sĩ chủ yếu bao gồm những người đàn ông khỏe mạnh được tuyển mộ từ các quận huyện biên giới phía bắc. Vì sự lựa chọn của họ tập trung ở các khu vực biên giới phía bắc nên Bắc biên Kỵ sĩ thể hiện những đặc điểm địa phương mạnh mẽ trong cả cơ cấu tổ chức và quyền lực hành chính của họ. Bắc biên Kỵ sĩ được hưởng mức độ tự do hành chính cao, các quan chức địa phương đóng vai trò là các chỉ huy quân sự của họ, duy trì quyền lực quân sự của họ ngay cả trong các hoạt động quân sự quy mô lớn do chính quyền trung ương tổ chức. Tổ chức cơ sở của Bắc biên Kỵ sĩ chịu ảnh hưởng nặng nề của các gia tộc hùng mạnh địa phương, do đó bao gồm hiệu quả của sự tương tác và chuyển đổi giữa các quan chức hành chính phía bắc, các gia tộc hùng mạnh và các bộ tộc phía bắc. Bắc biên Kỵ sĩ có thể tích lũy công trạng quân sự thông qua việc tham gia vào các công việc phòng thủ biên giới, do đó đạt được sự thăng tiến trong xã hội; công trạng quân sự do đó trở thành một phương tiện phổ biến để thăng tiến xã hội cho người dân ở các quận huyện biên giới phía bắc trong thời nhà Tây Hán.HHN]

[Ghi chú 4 của tác giả Trần Minh Quang: Như Nghiêm Canh Vọng đã viết ở trang 245 của《中國地方行政制度甲部•秦漢地方行政制度》第 245頁寫道,三老「上與長吏參職,下以率民,而無一定之實際職掌,此其一;代表民意,領銜呈訴,與地方政府之奏請異,此其二;有位無祿,此其三;東漢之製,大慶賜民不賜吏,而三老,孝,力田,鹹在受爵之列,此其四。此四者皆其有異於吏之徵也。」(台北,史語所專刊四五A,1997年) Phiên âm: ‘Trung Quốc Địa phương Hành chính Chế độ Giáp bộ. Tần Hán Địa phương Hành chính Chế độ’ đệ 245 hiệt tả đạo, Tam lão ‘Thượng dữ trưởng lại tham chức, hạ dĩ suất dân, nhi vô nhất định chi thật tế chức chưởng, thử kì nhất; đại biểu dân ý, lĩnh hàm trình tố, dữ Địa phương Chính phủ chi tấu thỉnh tuyệt dị, thử kì nhị; hữu vị vô lộc, thử kì tam; Đông Hán chi chế, đại khánh tứ dân bất tứ lại, nhi Tam lão, hiếu đễ, lực điền, lực điền hàm tại thụ tước chi liệt, thử kì tứ. Thử tứ giả giai kì hữu dị ư lại chi trưng dã.’ (Đài Bắc, Sử ngữ sở chuyên khan tứ ngũ A, 1997 niên) Dịch nghĩa: ‘Hệ thống hành chính địa phương của Trung Quốc, Phần A: Hệ thống hành chính địa phương của triều đại Tần và Hán’, Tam lão “tham gia vào nhiệm vụ của các quan chức cấp cao ở trên và lãnh đạo dân chúng ở dưới, nhưng không có trách nhiệm thực tế cố định; đây là điểm đầu tiên; họ đại diện cho ý chí của dân chúng và lãnh đạo các đơn thỉnh cầu, hoàn toàn khác với các đơn thỉnh cầu của chính quyền địa phương; đây là điểm thứ hai; họ giữ chức vụ nhưng không nhận lương; đây là điểm thứ ba; vào thời Đông Hán, Lễ mừng lớn được ban cho dân chúng nhưng không dành cho các quan chức, trong khi Tam lão, những người hiếu thảo, các lực điền làm việc chăm chỉ trên đồng ruộng đều nằm trong số những người nhận được thụ tước; đây là điểm thứ tư. Bốn điểm này đều là dấu hiệu phân biệt họ với các quan chức.” (Đài Bắc: Viện Sử học và Ngữ văn, Số đặc biệt 45A, 1997)]

Tuy nhiên, việc hoàn toàn phủ nhận thực tế ‘Hương Tam Lão’ có địa vị chính thức không giải thích được mâu thuẫn nảy sinh từ một số hiện vật và tài liệu khai quật được. Ví dụ, các phát hiện khảo cổ học đã tiết lộ rằng ‘Hương Tam Lão’ sở hữu ấn tín, 形式正方,与普通半通之印章不同。 ‘hình thức chánh phương, dữ phổ thông bán thông chi ấn chương bất đồng.’ ‘Ấn tín của họ có hình vuông, không giống như ấn tín thông thường mà chỉ có một nửa’. [Ghi chú thêm 半通之印Bán thông chi ấn: có nghĩa là ấn một nửa, đặc biệt ám chỉ loại ‘Bán ấn’ mà các quan lại cấp thấp thời xưa sử dụng. Thuật ngữ này xuất hiện lần đầu tiên trong bình chú về ‘Pháp ngôn • Hiếu chí’  của Dương Hùng vào thời nhà Hán, trong đó Lý Quỹ viết rằng: 半通之銅指有秩夫的低級官吏所佩的小印瑤。後漢書註引《十三志州》記載“有秩嗇夫得假半章印”‘Bán thông chi đồng’ chỉ Hữu Trật Phu đích đê cấp quan lại sở bội đích tiểu ấn dao. ‘Hậu Hán Thư’ chú dẫn ‘Thập Tam Chí Châu’ kí tái ‘Hữu Trật Sắc Phu đắc giả Bán Chương Ấn’, Dịch nghĩa: ‘Ấn đồng Bán thông’ ám chỉ loại ấn nhỏ mà các quan lại cấp thấp như ‘Hữu Trật Sắc Phu’ đeo. Bình luận về Hậu Hán Thư trích dẫn ‘Thập Tam Châu Chí’ nói rằng ‘Hữu Trật Sắc Phu được ban cho một nửa ấn’, xác nhận việc sử dụng nó như một biểu tượng của cấp bậc quan chức. Ấn Bán thông khác với ấn đầy đủ, phản ánh đặc điểm thể chế của hệ thống quan chức thời xưa, trong đó kiểu mẫu, kích cỡ của ấn tương xứng với cấp bậc quan chức.HHN]

Dẫu sao thì đến nay người ta vẫn chưa tìm thấy một ấn tín nào được chính thức công nhận là ấn tín của các Hương quan vào thời nhà Hán, như Sắc phu, Du kiếu chẳng hạn. 6 Nhưng những điều sau đây sẽ cung cấp thêm bằng chứng ủng hộ cho việc khẳng định rằng ‘Hương Tam Lão’ nắm giữ địa vị chính thức. Sử sách ghi lại rằng chế độ  ‘Hương Tam Lão’ đã được thiết lập từ đầu thời Hán.

Vào tháng 2 năm thứ hai Hán Cao Tổ (205 TCN), Lưu Bang ra lệnh: 舉民年五十以上,有修行,能帥眾為善,置以為三老,一人。擇三老一人為縣三老,與縣令丞尉以事相教,復勿徭戍,以十月賜酒肉. ‘Cử dân niên ngũ thập dĩ thượng, hữu tu hành, năng suất chúng vi thiện, trí dĩ vi Tam Lão, hương nhất nhân. Trạch ‘Hương Tam Lão’ nhất nhân vi Huyện Tam Lão, dữ Huyện lệnh thừa úy dĩ sự tương giáo, phục vật dao thú, dĩ thập nguyệt tứ tửu nhục.”7 Dịch nghĩa: ‘Hãy tiến cử những người trên năm mươi tuổi, có đức hạnh và có khả năng làm gương cho chúng dân làm việc thiện, thì bố trí làm Tam lão, mỗi Hương một người. Chọn một ‘Hương Tam Lão làm Huyện Tam Lão, cùng với Trưởng phó quan huyện dạy bảo chúng dân, người đó được miễn lao dịch, lĩnh thú và, và được ban rượu thịt vào tháng Mười.’7

Rõ ràng là chính quyền trung ương nhà Hán đã quy định rằng việc lựa chọn ‘Hương Tam Lão’ sẽ dựa trên sự tiến cử của dân chúng và quan lại, những người được tiến cử sẽ đồng ý với việc bổ nhiệm. Đây cũng là phương pháp mà các quan lại thời bấy giờ sử dụng để tuyển chọn người. Cần lưu ý rằng cả ngôn ngữ chính thức và ngôn ngữ riêng tư thời Hán đều sử dụng thuật ngữ ‘Tam Lão quan chúc’ ‘Tam Lão và thuộc hạ của họ’. ‘Hán thư’ Quyển Nhất Cửu thượng ‘Bách Quan Công Khanh Biểu Thượng’ tại mục ‘Huyện lệnh, Trưởng’ ghi rõ:大率十里一亭,亭有。十亭一,有三老,有秩,嗇夫,游徼。三老掌教化。夫職聽訟,收。游徼徼循禁賊盗。縣大率方百里,其民稠則減,則曠,,亭亦如之,皆秦製也。“Đại suất thập lí nhất đình, đình hữu trưởng. Thập đình nhất hương, hương hữu Tam Lão, Hữu trật, Sắc phu, Du kiếu. Tam Lão chưởng giáo hóa. Sắc phu chức thính tụng, thu phú thuế. Du kiếu kiếu tuần cấm tặc đạo. Huyện đại suất phương bách lí, kì dân trù tắc giảm, hi tắc khoáng, Hương, Đình diệc như chi, giai Tần chế dã.” Dịch nghĩa: ‘Thông thường, cứ mười dặm lại có một đình, mỗi đình có một quan trưởng. Mười đình tạo thành một hương, mỗi hương có Tam Lão, Hữu trật, Sắc phu, Du kiếu. Tam Lão phụ trách việc giáo dục. Sắc phu chịu trách nhiệm xét xử các vụ kiện và thu thuế. Du kiếu tuần tra và ngăn chặn trộm cắp. Một huyện thường có diện tích khoảng một trăm dặm vuông; dân số giảm khi mật độ dân số đông và cũng giảm khi mật độ dân số thưa thớt. Tương tự như vậy đối với các Hương và các Đình; tất cả đều thuộc hệ thống nhà Tần vậy.” Điều này cho thấy rằng trong hệ thống quan lại của nhà Hán, ở cấp Hương thôn, ‘Tam Lão’, cùng Hữu trật, Sắc phu là các quan dưới quyền của quan Huyện lệnh hoặc Phó quan. Do đó, cụm từ ‘Tam Lão quan chúc’ ‘quan dưới quyền Tam Lão’ thường được sử dụng trong các chiếu chỉ và văn kiện chính thức của nhà Hán. Ví dụ, một chiếu chỉ của Tây Hán Nguyên Đế có câu 三老官屬,有識之士詠頌其美.‘Tam Lão quan chúc, hữu thức chi sĩ vịnh tụng kì mĩ’ quan dưới quyền Tam Lão, là người có tri thức đã rất ca ngợi Tam lão.’8

Vào tháng 10 năm Vĩnh Nguyên thứ ba thời Đông Hán Hòa Đế (năm 91 SCN), sau khi đến thăm Trường An, Hoàng đế hạ chiếu nêu rõ: 其賜行所過二千石長吏已下三老官屬錢帛,各有差.Kì tứ hành sở quá nhị thiên thạch trưởng lại dĩ hạ Tam Lão quan chúc tiền bạch, các hữu sai.” ‘Các quan dưới cấp 2.000 thạch và Tam lão trên đường đi sẽ được cấp tiền bạc và lụa theo cấp bậc tương ứng.’9

Đặc biệt, ‘Cam Lộ nhị niên Thừa tướng Ngự sử Luật lệnh’, ‘Luật và Lệnh của Thừa tướng Ngự sử năm Cam Lộ thứ hai’ được khai quật vào năm 1973 tại di chỉ Kiên Thủy Kim Quan, huyện Cư Tháp, tỉnh Cam Túc, là một chiếu chỉ chung do Tể tướng và Ngự sử ban lệnh cho Thái thú Trương Dịch để bắt giữ một tên trong cung đào tẩu. Trong đó có ghi: 嚴教屬縣官令以下嗇夫,吏正,三老,雜驗問裡吏民… Nghiêm giáo chúc huyện quan lệnh dĩ hạ Sắc phu, Lại chánh, Tam lão, tạp nghiệm vấn hương lí lại dân…”10 ‘Nghiêm khắc chỉ thị các quan huyện, từ quan huyện đến Sắc phu, Lại chánh, Tam lão, phải điều tra kỹ lưỡng các từ hương lý, quan lại và chúng dân...’10 

Điều này chứng minh một cách hùng hồn rằng, từ góc độ của các cơ quan hành chính và giám sát cao nhất của nhà Hán, Tam Lão cũng được coi là cấp dưới của quan huyện, và do đó được yêu cầu nghiêm ngặt đảm nhận cùng một trách nhiệm như các quan chức khác trong việc hỗ trợ truy bắt kẻ đào tẩu. Hơn nữa, các văn bản riêng của nhà Hán cũng đề cập đến ‘Hương Tam Lão’ là cấp dưới của quan huyện. Ví dụ, ‘Hán thư’, Tập 4, ghi lại rằng vào tháng 5 năm thứ ba đời Văn Đế, ‘Thượng hạnh Cam Tuyền’ ‘Hoàng đế đã đến thăm Cam Tuyền.’ Lời bình của Như Thuần viết:「蔡邕雲:天子車駕所至,民臣以為僥倖,故曰幸。見令長三老官屬,親臨軒作樂,賜以食帛越巾佩帶之屬,民爵有級數,或賜田租之半,故因謂之幸。」 “Thái Ung vân: Thiên tử xa giá sở chí, dân thần dĩ [tr.3] vi nghiêu hãnh, cố viết hạnh. Kiến lệnh trưởng Tam Lão quan chúc, thân lâm hiên tác nhạc, tứ dĩ thực bạch việt cân bội đái chi chúc, dân tước hữu cấp sổ, hoặc tứ điền tô chi bán, cố nhân vị chi hạnh dã.” Dịch nghĩa: Lời bình của Như Thuần viết: ‘Thái Ung nói: Khi xa giá của Hoàng đế đến, dân chúng và các quan chức coi đó [tr.3] là một vận may, do đó gọi là ‘hạnh’ may mắn. Họ thấy Huyện lệnh, Tam lão và quan lại đích thân lo liệu âm nhạc và giải trí, ban phát thức ăn, lụa là, khăn trùm đầu và những vật dụng tương tự. Người có công [dân tước 民爵] được phân hạng, và đôi khi được trả một nửa tiền thuê đất; do đó mới có ‘hạnh’ ‘may mắn’.

[Ghi chú 令長 Lệnh trưởng: dùng để chỉ quan chức hành chính cấp huyện. Từ này bắt nguồn từ hệ thống quan chức của thời Tần Hán, và tiêu chuẩn phân chia dựa trên quy mô dân số của khu vực: những người cai quản các huyện có hơn 10.000 hộ được gọi là ‘Lệnh’, và những huyện có ít hơn 10.000 hộ được gọi là ‘Trưởng’. Đến thời nhà Đường, 令長 ‘Lệnh Trưởng’ dần dần phát triển thành một thuật ngữ chung để chỉ các quan huyện các quan chức hành chính cơ sở. Có những vụ án chính thức liên quan được ghi lại trong các kinh điển như Hán thư và Hậu Hán thư. Hệ thống phân loại đã được thiết lập trong thời Tần Hán. Theo ‘Hán Thư’. Bách Quan Công Khanh Biểu’, các huyện có hơn 10.000 hộ vào thời nhà Tần do Lệnh, với mức lương bổng từ 1.000 đến 600 thạch đứng đầu, và những huyện có ít hơn 10.000 hộ do Trưởng, với mức lương bổng từ 500 đến 300 thạch đứng đầu. Nhà Hán tiếp tục chế độ này. Sách ‘Hậu Hán Thư’ ghi lại sự kiện ‘giết Lệnh Trưởng’ ở vùng biên giới dưới thời Hiếu Thuận Đế, điều này xác nhận hoạt động thực tế của chức vụ quan danh này. Trong quá trình phát triển của chế độ quan chức thời nhà Đường, ‘Lệnh’ đã trở thành một thuật ngữ chung để chỉ các quan chức hành chính cấp huyện. Ví dụ, sách ‘Kinh Tịch Soạn Cổ’ ghi lại rằng các quan chức từ bậc ngũ phẩm trở lên có thể tiến cử làm Huyện lệnh. Trong các tài liệu thời nhà Tống, 令長 ‘Lệnh Trưởng’ đã hoàn toàn chuyển thành một chức danh thay thế cho Huyện lệnh. Ví dụ, chú giải ‘Tư Trị Thông Giám’ sử dụng thuật ngữ này nhiều lần để chỉ các quan chức địa phương.HHN]

Do đó, rõ ràng là Đỗ Hựu thời nhà Đường, trong bộ ‘Thông điển. Châu Quận hạ’, đã xếp ‘Hương Tam Lão’ thời Tần Hán vào mục ‘Hương quan’ ‘quan chức hương thôn’, điều này là hoàn toàn có cơ sở. Tóm lại, dựa trên thông tin hiện tại, sẽ là thiên vị nếu hoàn toàn phủ nhận ‘Hương Tam Lão’ có địa vị chính thức, mà chỉ đại diện cho dân thường hoặc là 社會名流 ‘xã hội danh lưu’ ‘người có danh tiếng trong xã hội’. Kết luận cơ bản của Trần Trực Tiên sinh phù hợp hơn: 三老「名稱是吏,實際又不純屬於吏」Hương Tam Lão ‘danh xưng thị lại, thật tế hựu bất thuần chúc vu lại’ “Hương Tam Lão là ‘quan chức chính thức, nhưng trên thực tế, họ lại không hoàn toàn là quan chức”.

Lý do chúng tôi nhấn mạnh tầm quan trọng của địa vị chính thức của ‘Hương Tam Lão’ là vì thực chất họ là một loại người được chính thức sáp nhập vào hệ thống quản lý nhà nước cấp cơ sở của triều đại nhà Hán đối với khu vực nông thôn, và xứng đáng được nghiên cứu sâu hơn. Một hiện tượng lịch sử từ lâu đã thu hút sự chú ý là ‘Hương Tam Lão’ thời nhà Hán, mặc dù sống ở nông thôn, nhưng luôn nhận được sự quan tâm và đãi ngộ của Hoàng đế. Bên cạnh việc được miễn lao dịch, họ thường xuyên được nhận các món quà của Hoàng đế như gạo, lụa và các tước hiệu cao quý. Trong một số trường hợp, họ thậm chí còn được ban tặng những món quà này cùng lúc với 宗室有屬籍者 “tông thất hữu chúc tịch giả” các thành viên trong Tôn thất, quý tộc và các quan lại cấp cao, mặc dù số lượng có khác nhau. 11

[Ghi chú 11 của tác giả Trần Minh Quang: 例如,《漢書》卷九《元帝紀》載:元帝初元年(公元前 48 年)四月,「關東今年穀不登,民多困乏。…賜宗室有屬籍者馬一匹至二駟,三老,孝者帛五匹,弟者,力田三匹,鰥孤獨二匹,吏民五十牛酒」。Phiên âm: Lệ như, ‘Hán Thư’ Quyển cửu ‘Nguyên Đế kỉ’ tái: Nguyên Đế Sơ Nguyên nguyên niên (công nguyên tiền 48 niên) tứ nguyệt, “Quan Đông kim niên cốc bất đăng, dân đa khốn phạp. …Tứ tông thất hữu chúc tịch giả mã nhất thất chí nhị tứ, tam lão, hiếu giả bạch ngũ thất, đễ giả, lực điền tam thất, quan quả cô độc nhị thất, lại dân ngũ thập hộ ngưu tửu.” Dịch nghĩa: Chẳng hạn, ‘Hán Thư’, Tập 9, ‘Nguyên Đế kỉ’ chép: Vào tháng 4 năm thứ nhất (năm 48 TCN) triều đại của Hán Nguyên Đế, “Năm nay mùa màng ở Quan Đông thất bát, dân chúng phần lớn đều khốn khó... Các thành viên thuộc Tông thất có khẩu tịch được cấp một đến hai con ngựa; Tam lão và những người hiếu thảo được cấp năm súc lụa; những người làm việc vất vả trên đồng ruộng được cấp ba súc lụa; góa bụa, mồ côi và cô đơn được cấp hai súc lụa; và năm mươi hộ gia đình ‘lại dân’ được cấp gia súc và rượu.” 《漢書》卷一0《成帝紀》載,成帝建始元年(公元前 31 年)二月,“賜諸侯王,丞相,將軍,列侯,王太后,公主,王主,吏二千石黃金,宗室諸官吏千石以下至二百石及宗室子有屬籍者、三老、孝弟力田、鰩寡孤獨錢帛,各有差,吏民五十牛酒”. ‘Hán Thư’ Quyển nhất 0 ‘Thành Đế Kỉ’ tái, Thành Đế Kiến Thủy nguyên niên (Công nguyên tiền 31 niên) nhị nguyệt, “tứ chư hầu vương, thừa tướng, tướng quân, liệt hầu, vương thái hậu, công chủ, vương chủ, lại nhị thiên thạch hoàng kim, tông thất chư quan lại thiên thạch dĩ hạ chí nhị bách thạch cập tông thất tử hữu chúc tịch giả, tam lão, hiếu đễ lực điền, quan quả cô độc tiền bạch, các hữu sai, lại dân ngũ thập hộ ngưu tửu”.  Dịch nghĩa: ‘Hán Thư’ Quyển nhất 0 ‘Thành Đế Kỉ’ Hán Thành Đế năm Kiến Thủy nguyên niên (Năm 31 TCN) chép: “Hoàng đế ban thưởng cho các Vương công chư hầu, Thừa tướng, tướng lĩnh, hầu tước, thái hậu, công chúa, và các quan lại số tiền lên tới 2.000 thạch vàng; các quan lại trong hoàng tộc từ 1.000 thạch đến 200 thạch; các thuộc lại hoàng tộc có khẩu tịch; các Tam lão; những người hiếu đễ, những kẻ siêng năng cày cấy; những kẻ cô đơn, góa phụ, trẻ mồ côi, mỗi người được tặng một lượng tiền bạc và lụa tương ứng; và năm mươi hộ gia đình ‘lại dân’ được tặng rượu thịt.”

[Ghi chú 令民 Lại dân được tạo thành từ lại quan lại cấp thấp, và ‘thứ dân’. Lần đầu tiên nó được ghi lại trong墨子•號令 ‘Mặc Tử: Hiệu Lệnh’: 敵人卒而至,嚴令吏民,無敢謳囂 ‘Địch nhân thốt nhi chí, nghiêm lệnh lại dân, vô cảm hoan hiêu’ ‘Kẻ địch đến đột ngột, lệnh nghiêm khắc được ban ra cho các ‘lại dân’ [quan dân]: Không ai được phép phát ra tiếng động. Trong các triều đại từ thời Tần, Hán đến Ngụy, Tấn và Nam Bắc Triều, từ này đặc biệt ám chỉ những người dân thường dưới quyền quản lý của chính quyền địa phương, bao gồm nông dân bình thường, sĩ quan, binh lính và những loại người khác. Theo chế độ huyện của nhà Hán, 一郡之眾 ‘nhất quận chi chúng’ ‘dân của một quận huyện’ dưới quyền quản lý của quan địa phương đều thuộc loại ‘lại dân’. Các thẻ tre nhà Ngô thời Tam Quốc cho thấy 93,2% ‘hộ gia đình’ có danh hiệu 公乘 ‘Công thừa’, điều này khẳng định thuộc tính xã hội của nó là nền tảng của sự cai trị của Hoàng đế. Các thẻ tre thời Tần trong ‘Thụy Hổ Địa Tần giản. Ngữ Thư’ ghi lại rằng thống đốc Nam Quận là Đằng yêu cầu ‘lại dân’ dưới quyền mình phải tuân thủ pháp luật, cho thấy vị trí thể chế của nhóm này là đối tượng quản lý địa phương. Nhà Hán thiết lập nguyên tắc quản lý ‘Thái thú vi lại dân chi bản’ ‘Thái thú lấy nền tảng là ‘lại dân’. Các Thứ sử, huyện lệnh của châu quận quản lý ‘lại dân’ thông qua việc đăng ký hộ khẩu và thu thuế. Lưu trữ hộ khẩu của thẻ tre nhà Ngô thời Tam Quốc cho thấy nhóm ‘lại dân’ bao gồm ‘hộ nhân’ và các thành viên gia đình của họ, trong đó 軍吏 ‘quân lại’ chiếm 19,4%, điều này khẳng định sự đa dạng về thành phần nội bộ của nhóm.  

[Ghi chú軍吏 Quân lại dùng để chỉ các tướng lĩnh và sĩ quan các cấp bậc trong quân đội. Lần đầu tiên nó xuất hiện trong ghi chép về các nghi lễ quân sự trong ‘Chu Lễ• Hạ Quan• Đại Tư Mã’. Từ này xuất hiện nhiều lần trong các tác phẩm kinh điển như ‘Sử Ký’, ‘Liệt Nữ Truyện’. Nó bao gồm chức năng xác định cấp bậc như 諸侯載旂,軍吏載旗 ‘chư hầu tái kì, quân lại tái kì’ ‘các Vương công hầu mang cờ, ‘quân lại’ mang cờ’, và cũng bao gồm thứ tự nghi thức 東向而朝軍吏 ‘đông hướng nhi triêu quân lại’ ‘hướng về phía đông để chào quan quân’. Ý nghĩa của từ này đã phát triển từ một thuật ngữ chung cho các sĩ quan quân đội trong thời nhà Chu để chỉ các võ quan cấp trung và cấp thấp. Trong các tác phẩm thời Nam Triều, các quan chức dân sự như ‘chủ bộ’ (chánh thư ký) cũng được bao gồm trong danh mục ‘quân lại’. Quân lại bao gồm ‘quân’ quân binh và ‘lại’ quan chức. Ban đầu, nó dùng để chỉ những người quản lý trong hệ thống quân sự cổ đại. Theo ‘Chu Lễ• Hạ Quan• Đại Tư Mã’, có sự phân biệt rõ ràng giữa ‘Quân lại’ và Vương Công Hầu trong quy định về xe và cờ, phản ánh đặc điểm cấp bậc của họ. Từ thời nhà Hán trở đi, ý nghĩa của từ này dần tập trung vào việc chỉ các quan lại cấp trung và cấp thấp. ‘Liệt Nữ Truyện’ của Lưu Hướng chép: 趙括母親觀察其子“東向而朝軍吏”,印證軍吏作為將領屬官的身份。Triệu Quát mẫu thân quan sát kì tử “Đông hướng nhi triêu quân lại”, ấn chứng quân lại tác vi tướng lĩnh chúc quan đích thân phần. Mẹ của Triệu Quát thấy con trai mình ‘Quay hướng đông chào các ‘quân lại’, điều này khẳng định địa vị của quân lại là cấp dưới của tướng lĩnh. Trong ‘Sử Ký • Luật Thư’ Tư Mã Thiên mô tả các cuộc chiến tranh biên giới thời Tây Hán, ông đã sử dụng cụm từ 軍吏無功Quân lại vô công’ để phản ánh trách nhiệm của quan lại trong các hoạt động quân sự. Cũng như trong cuốn  ‘Triệu Tướng Quát Mẫu’ Mẫu thân của Triệu Quát, ghi lại rằng Triệu Quát thống quân thì東向而朝軍吏,吏無敢仰視之者, 突顯其治軍威嚴 “Đông hướng nhi triêu quân lại, lại vô cảm ngưỡng thị chi giả”, đột hiển kì trị quân uy nghiêm. ‘Khi Triệu Quát chỉ huy quân đội, ‘Ông ta hướng đông chào các ‘quân lại’, và không một quân lại nào dám ngước nhìn ông”, làm nổi bật uy quyền quân sự của Quát.

[Ghi chú 公乘 Công Thừa vừa là tước hiệu vừa là họ ở Trung Quốc cổ đại. Là một tước hiệu, Công Thừa được xếp hạng thứ tám trong số hai mươi bậc quý tộc trong các triều đại nhà Tần và nhà Hán, và được quyền đi công xa, xe ngựa của Nhà nước. Chế độ đãi ngộ với Công thừa đã được điều chỉnh nhiều lần từ đầu thời Tây Hán đến thời Đông Hán. Là một họ kép, họ này bắt nguồn từ con cháu của Hoàng tộc kế thừa tước hiệu. Họ này có từ thời Chiến Quốc đến thời nhà Tống và là một họ hiếm. Những nhân vật tiêu biểu bao gồm 公乘不仁Công Thừa Bất Nhân của nước Ngụy thời Chiến Quốc, 公乘陽慶Công Thừa Dương Khánh, một thầy thuốc thời nhà Hán và公乘億Công Thừa Nghi, một nhà thơ thời nhà Đường. Trong văn học tiền Tần, Công Thừa cũng đề cập đến xe ngựa của Hoàng gia hoặc xe ngựa dịch trạm. Về hệ thống tước hiệu, Hán Văn Đế đã điều chỉnh tiêu chuẩn của giới quý tộc cao cấp từ Công Thừa đến bậc quan thứ năm, và Minh Đế nhà Đông Hán đã hạn chế việc ban tước hiệu cho thường dân vượt quá Công Thừa. Nhân vật lịch sử mang họ kép thường tham gia vào các lĩnh vực chính trị, y học, văn học, v.v. Ví dụ, Công Thừa Hân, một hoạn quan thời Đông Hán, đã tham gia vào sự kiện cấm đảng. Câu đối họ "Uống rượu làm lương y" bắt nguồn từ giai thoại Công Thừa Bất Nhân giữ chức rượu lệnh và Công Thừa Dương Khánh truyền lại kinh sách y học.

[Ghi chú về Tửu lệnh: Trò chơi uống rượu ban đầu là những quy định hạn chế việc uống rượu trong các bữa tiệc. Vào thời nhà Chu, có những vị quan là ‘Lập Chi Giam’ ‘Tá Chủ Sử’ là những người thực thi trò chơi uống rượu. Tuy nhiên, sau này, trò chơi uống rượu trở thành trò chơi của bạn bè để thêm phần vui vẻ và thú vị khi say xỉn. Cũng có nhiều ghi chép trong các sách cổ điển Trung Quốc. Sách Tả Truyện ghi vào năm thứ 12 đời Chiêu Công, Tấn Chiêu Công và Tề Cảnh Công đã 投壺賦詩 ‘đầu hồ phú thi’ ‘ném bình làm thơ’ tại một bữa tiệc. Ném bình là một loại trò chơi uống rượu, có nguồn gốc từ nghi lễ bắn cung thời Tây Chu. Đây chính là nguồn gốc của trò chơi uống rượu. Vào thời Tam Quốc, Hàm Đan Thuần đã viết 投壺賦 ‘Đầu Hồ Phú’: 絡繹聯翩,爰爰兔發,翻隼隼,不盈不縮,應壺順入.‘Lạc dịch liên phiên, viên viên thố phát, phiên chuẩn chuẩn, bất doanh bất súc, ứng hồ thuận nhập’. “Nước xiết, thao thao như thỏ thoăn thoắt, không tràn không rút, bình rượu nao nao chảy vào trong nước.” Lời tựa ‘Túy Tả Xích Bích Phú’ viết: 今無甚事,且回後堂中和夫人猜枚吃酒去也. ‘Kim vô thậm sự, thả hồi hậu đường trung hòa phu nhân sai mai cật tửu khứ dã.’ ‘Giờ không còn gì để làm nữa, chúng ta về hậu cung chơi trò uống rượu với Phu nhân.’ Chương 23 ‘Hồng Lâu Mộng’ tả: 低吟悄唱,拆字猜枚,無所不至,倒也十分快意.‘Đê ngâm tiễu xướng, sách tự sai mai, vô sở bất chí, đảo dã thập phân khoái ý.’ ‘Họ thì thầm khe khẽ hát, chơi trò đố chữ đoán câu, làm đủ mọi thứ, thật là thú vị.’ Tuyển tập ‘Tửu Lệnh, Cổ Lệnh, Nhã Bồi Lệnh’ của Du Đôn chia trò chơi uống rượu thành bốn loại: trò chơi cổ xưa, trò chơi tao nhã, trò chơi dân gian và trò chơi đếm. ‘Cổ Kim Tửu lệnh Đại quan’ của Hà Quyền Hành và cộng sự phân trò chơi uống rượu thành bảy loại: trò chơi chữ, trò chơi thơ ca, trò chơi hoa, chim, cá và côn trùng, trò chơi xúc xắc, trò chơi nắm tay, trò chơi dân gian và trò chơi đếm.HHN]

Hiện tượng biệt đãi ‘Hương Tam Lão’ thời nhà Hán đã được cả người xưa và người nay cố gắng giải thích. Các học giả Nho giáo thời nhà Hán lập luận dưới góc độ đề cao lòng hiếu đễ. Ví dụ, sách ‘Bạch Hổ Thông Nghĩa’ quyển tứ ‘Hương Xạ’, giải thích: 「王者父事三老,兄事五更者何?欲陳孝悌之德,以示天下也。」‘Vương giả phụ sự Tam Lão, huynh sự ngũ canh giả hà? Dục trần hiếu đễ chi đức, dĩ thị thiên hạ dã.’ ‘Tại sao nhà vua lại phục vụ Tam Lão như cha và Ngũ Canh như anh cả? Đó là để thể hiện đức hạnh của lòng hiếu đễ với thiên hạ vậy.’ Mặc dù cách giải thích này phổ biến ở người xưa, nhưng chúng tôi tin rằng nó có phần phiến diện. Vào tháng 3 năm thứ mười hai đời Hán Văn Đế (168 TCN), một chỉ dụ được ban hành, trong đó nói rằng:「孝悌,天下之大順也。力田,為生之本也。三老,眾民之師也。廉吏,民之表也。朕甚嘉此二三大夫之行。今萬家之縣,雲無應令,豈實人情?是吏舉賢之道未備也。其遣謁者勞賜三老,孝者帛人五匹,悌者、力田二匹,廉吏二百石以上率百石者三匹。及問民所不便安,而以口率置三老、孝悌、力田常員,令各率其意以道民焉。」Hiếu đễ, thiên hạ chi đại thuận dã. Lực điền, vi sinh chi bản dã. Tam lão, chúng dân chi sư dã. Liêm lại, dân chi biểu dã. Trẫm thậm gia thử nhị Tam Đại Phu chi hành. Kim vạn gia chi huyện, vân vô ứng lệnh, khởi thật nhân tình? Thị lại cử hiền chi đạo vị bị dã. Kì khiển yết giả lao tứ Tam Lão, Hiếu giả bạch nhân ngũ thất, Đễ giả, Lực điền nhị thất, liêm lại nhị bách thạch dĩ thượng suất bách thạch giả tam thất. Cập vấn dân sở bất tiện an, nhi dĩ hộ khẩu suất trí Tam Lão, Hiếu đễ, Lực điền thường viên, lệnh các suất kì ý dĩ đạo dân yên. Dịch nghĩa: “Hiếu đễ là đức hạnh lớn nhất của thiên hạ. Cần cù làm ruộng là gốc rễ của cuộc sống. Tam Lão là thầy của chúng dân vậy. Những quan lại liêm chính là tấm gương của dân. Ta rất khâm phục đức hạnh của hai vị Tam Lão Đại phu này. Giờ đây nghe nói, ở những huyện vạn hộ không ai nghe lệnh. Phải chăng đây thực sự là tình cảm của chúng dân? Bởi vì cái đạo tuyển kẻ hiền tài vẫn chưa hoàn bị vậy. Hãy sai sứ giả đến tưởng thưởng cho Tam Lão, những người Hiếu đễ mỗi người năm xấp lụa, những kẻ Lực điền mỗi người hai xấp lụa, và những quan lại liêm chính với bổng trật hai trăm thạch trở lên, theo đó những người có mức lương từ một trăm thạch, mỗi người ba xấp lụa. Hỏi han những bất tiện của chúng dân, mà lập ra những chức vụ thường trực cho Tam Lão, những người hiếu đễ, các lực điền theo dân số, để họ dẫn dắt chúng dân theo ý mình.”

Có thể thấy rằng thể chế Hương Tam Lão được xác lập cùng lúc với những người hiếu đễ. Nếu mục đích của nhà Hán khi lập ra chế độ Hương Tam Lão chỉ đơn thuần là欲陳孝悌之德 “dục trần hiếu đễ chi đức” ‘khuyến khích đức hiếu đễ’, thì rõ ràng nó sẽ chồng chéo với mục đích xác lập thể chế những người hiếu đễ. Trên thực tế, mặc dù nhiệm vụ của Hương Tam Lão trong việc 掌教化‘chưởng giáo hóa’ ‘quản lý giáo dục’ bao gồm việc giảng giải về đức hiếu đễ,12 nhưng trách nhiệm của họ rộng hơn những người chỉ thể hiện những đức tính này.

_____________________

(Còn nữa)

Nguồn: 陈明光 (2006). 汉代“乡三老”与乡族势力蠡测.中国社会经济史研究, 2006 年第 4 . Trần Minh Quang (2006). Hán đại Hương Tam lão dữ Hương tộc Thế lực Lễ trắc. Trung Quốc Xã hội Kinh tế Sử Nghiên cứu, 2006 niên đệ 4 kì.

Ghi chú:

见傅衣凌《论乡族势力对于中国封建经济的干涉——中国封建社会长期停滞的一个探索》,原载《厦门大学学报》1961 年第 1 期,收入氏著《明清社会经济史论文集》,人民出版社,1982 年。

见森正夫《围绕乡族问题》,《中国社会经济史研究》1986 年第 2 期。

如元人方回续《古今考》、李慈铭《汉书札记·货志第四下》等。

严耕望在《中国地方行政制度甲部·汉地方行政制度》第 245 页写道,三老上与吏参职,下以率民,而无一定之实际职掌,此其一;代表民意,领衔呈诉,与地方政府之奏请绝异,此其二;有位无禄,此其三;东汉之制,大庆赐民不赐吏,而三老、孝弟、力田咸在受爵之列,此其四。此四者皆其有异于吏之征也。 (台北,史语所专刊四五 A1997年)

绍侯《〈尹湾汉墓简牍〉解决了汉代官制的几个疑难问题》,《许昌师专学报》1999 年第1 期。

见陈直《汉书新证》,第 172-174 页,天津人民出版社,1979 年。

汉书》卷一上《高祖纪上》。

汉书》卷三六《刘向传》。

《后汉书》卷四《和帝纪》。

转引自初仕宾《居延简册〈甘露二年丞相御史律令〉考述》,《考古》1980 年第 2 期。

11 例如,《汉书》卷九《元帝纪》载:元帝初元元年(公元前 48 年)四月,东今年谷不登,民多困乏。赐宗室有属籍者马一匹至二驷,三老、孝者帛五匹,弟者、力田三匹,鳏寡孤独二匹,吏民五十户牛酒。。《汉书》卷一 0《成帝纪》载,成帝建始元年(公元 31 年)二月,赐诸侯王、丞相、将军、列侯、王太后、公主、王主、吏二千石黄金,宗室诸官吏千石以下至二百石及宗室子有属籍者、三老、孝弟力田、鳏寡孤独钱帛,各有差,吏民五十户牛酒

12 东汉时,吴祐迁胶东相,民有词讼,先令三老以孝悌喻解,祐身至闾里和之,吏民不忍欺。见周天游辑注《八家后汉书辑注》所引谢承《后汉书》卷四《吴祐传》。