Hà Hữu Nga
3.1. Tạo lập truyền thống cư trú, khai thác biển và hệ giá trị nhân văn trong di sản văn hóa Hạ Long – Cát Bà (Tiêu chí 2, 3, 4, 5 của UNESCO)
Giá trị nhân văn kết tinh trong các thực hành sống của các cộng đồng người, qua các mối quan hệ giữa con người với con người, giữa con người và môi trường sinh thái của họ. Vì vậy giao thoa giá trị nhân văn chính là quá trình giao thoa giữa các giá trị sinh thái và văn hóa của các nhóm người khác nhau. Kết quả sự giao thoa giữa các giá trị sinh thái và con người thể hiện rõ ràng nhất ở việc tạo dựng thành các giá trị sinh thái nhân văn (human ecological values). Giá trị sinh thái nhân văn là một khái niệm để chỉ một loại hình giá trị văn hóa mà một hệ thống các nguồn lợi sinh thái được con người khai thác, sử dụng, gìn giữ và phát triển bằng các thực hành văn hóa của mình. Về cơ bản, khái niệm này giới hạn hệ thống vào một không gian vật lý nhất định với mọi nguồn tự nhiên phục vụ cho đời sống văn hóa vật chất hay vật thể và đời sống tinh thần hay văn hóa phi vật thể của con người. Tuy nhiên nhân tố trung tâm tạo nên hệ thống sinh thái nhân văn là con người còn đòi hỏi một cơ chế trao đổi đặc trưng, đó chính là các hệ thống thông tin hay cơ chế diễn giải, kết nối thành mạng tác nhân giữa con người, môi trường tự nhiên và văn hóa của mình. (Bock P.K.,1969).
Nói tới sự giao thoa giá trị sinh thái nhân văn Hạ Long – Cát Bà là nói tới sự kết nối thành hệ thống giá trị sinh thái văn hóa núi đá vôi với hệ thống cư trú ở các hang động thuộc văn hóa Soi Nhụ bắt đầu từ khoảng 18.000 năm, khi đợt Băng hà lần cuối cùng (Wurm muộn) phát triển, khi mực nước biển Đông vẫn còn ở độ sâu 110 – 120m. Trong khoảng từ 30.000 năm tới 17.000 năm đã có hai đợt biển tiến lớn phụ thuộc vào sự thay đổi khí hậu trái đất, vào sự nâng lên của mực nước đại dương, và cả hai lần đều để lại những dấu ấn khá rõ ràng đối với cuộc sống của các cư dân tiền sử trong khu vực Bắc Việt Nam nói chung và khu vực Vịnh Hạ Long nói riêng. Vào khoảng 17.000 năm trước bắt đầu quá trình trái đất ấm lên làm tan băng, mực nước đại dương bắt đầu dâng cao. Người ta gọi đây là đợt biển tiến Flandrian. Khoảng 10.000 năm trước, mực nước cũng chỉ dâng tới độ sâu 50 – 60m. Khoảng 7.000 – 8.000 năm nó dừng lại ở độ sâu 25 – 70m so với mực nước hiện tại. Khoảng 4.500 – 5.000 năm trước mực nước đạt tới cực đại, cao hơn mực nước hiện tại là 5m (Lưu Tỳ - Nguyễn Thế Tiệp và những người khác 1985, tr. 16-18).
Tại Mái đá Điều, Thanh Hóa, một kỹ nghệ đá mảnh lớn có tuổi ước tính 30.000 – 17.000 năm đang dần dần được làm sáng tỏ sau khi kỹ nghệ đá mảnh nhỏ Ngườm cũng tồn tại trong khoảng thời gian tương đương đã được khẳng định. Tại khu vực Hạ Long – Cát Bà, các nhà khảo cổ học đã phát hiện được một di chỉ có niên đại cổ xưa trong khoảng niên đại ấy. Đó là hang Áng Mả trên đảo Cát Bà với một niên đại C14 lên tới hơn 25.000 năm. Cũng giống như Mái đá Điều là một trong những nền tảng của văn hóa Hòa Bình, kỹ nghệ Ngườm là một trong những nền tảng của văn hóa Bắc Sơn, thì giờ đây, với những phát hiện mới trên đảo Cát Bà, tại hang Áng Mả, nền tảng của văn hóa Soi Nhụ cũng đang được làm sáng tỏ. Theo những người nghiên cứu hang này cho biết, Áng Mả nằm ở phía tây nam xã Hiền Hào (Cát Bà, Hải Phòng). Địa tầng mỏng, gồm có các loại nhuyễn thể sống trên cạn, nhiều nhất là Cyclophorus fulguratus, sau đó là ốc suối Antimelania costula. Ngoài hang Áng Mả, trên Vịnh Hạ Long còn phát hiện được nhiều hang động có chứa chủ yếu là nhuyễn thể cạn như vậy. (Trình Năng Chung, Nguyễn Kim Dung, Nguyễn Gia Đối, Lê Minh Tâm 2000)
Trước đây, khi chưa phát hiện được nhiều hang động thuộc loại hình này, hầu hết các nhà khảo cổ học Việt Nam đồng ý là có một nhóm di tích Soi Nhụ riêng. Sau này, khi tiếp tục nghiên cứu khu vực này, với việc phát hiện thêm một loạt các hang động mới, trong một khoảng không gian trên dưới 2000 km2, bao gồm các khu vực núi đá vôi ở Kinh Môn (Hải Dương), Thủy Nguyên, Cát Bà (Hải Phòng) và hầu hết các huyện thị Uông Bí, Yên Hưng, Hoành Bồ, Cẩm Phả, Vân Đồn và thành phố Hạ Long của Quảng Ninh, chúng tôi đã tiến tới xác lập một văn hóa riêng – văn hóa Soi Nhụ, gọi theo tên của di chỉ Soi Nhụ - cho khu vực này (Hà Hữu Nga 1997, 91-94; Hà Hữu Nga – Nguyễn Văn Hảo 1998, tr.43-89). Khái niệm đó được công bố tại Đại hội lần thứ 16 của IPPA (Indo-Pacific Prehistory Association) ở Melaka, Malaysia (Hà Hữu Nga 1998) và sau đó đã được tham khảo, sử dụng ở phạm vi quốc tế (Whitten T., 1998, pp.35-37; Vermeulen J., and Tony Whittten 1999, p.47). Khí hậu trở nên ấm áp đã làm cho muôn loài phát triển, thức ăn dồi dào, sông suối, đầm hồ luôn sẵn nước, vì vậy vào giai đoạn cuối, người Soi Nhụ cũng đã tăng cường khai thác biển và tạo lập nhiều hơn các mối liên hệ với bên ngoài, mà trước hết đó có thể là với cư dân Bắc Sơn. Cũng có thể do biển tiến, cùng những biến đổi môi trường sống nên nguồn lợi biển ngày một dồi dào, khiến cho người Bắc Sơn đã mở rộng các mối quan hệ, và có thể đã chuyển cư bộ phận xuống khu vực đồng bằng ven biển. Có thể thấy rõ những bằng chứng này qua chiếc rìu mài lưỡi Bắc Sơn điển hình trong văn hóa Soi Nhụ. Ngược lại, chúng ta cũng còn thấy cả những con ốc biển Cypraea tại nhiều địa điểm văn hóa Bắc Sơn như Lạng Nắc, Mái Đá, Bình Gia, v.v...(Hà Hữu Nga 2001a, tr.90, 95, 142-146)
Vào khoảng trên dưới 7000 năm trước, giao thoa giữa các giá trị sinh thái và văn hóa vùng Hạ Long-Cát Bà tiếp tục được thúc đẩy mạnh mẽ. Do nước biển tiếp tục dâng, nên cuộc sống của cư dân Soi Nhụ phần nào có những thay đổi và biến động. Có thể những nhóm cư dân sống ở các hang động thấp dưới các chân núi đá thuộc khu vực Vịnh Hạ Long và Bái Tử Long bây giờ đã buộc phải di chuyển tới những khu vực cao hơn và an toàn hơn, thuộc các huyện miền núi phí bắc Vịnh như Cẩm Phả, Uông Bí, Hoành Bồ và các vùng núi đá vôi cao hơn thuộc đảo Cát Bà. Những hang động và mái đá như hang Đồng Đặng, Hà Lùng, Hang Dơi (Hoành Bồ); hang Áng Giữa, Eo Bùa, Tùng Bồ, v.v...(đảo Cát Bà); hang Phương Nam (xã Phương Nam, Uông Bí), v.v...là thuộc giai đoạn này. Ngoài ra, trong giai đoạn này, bên cạnh các mối quan hệ với cư dân văn hóa Bắc Sơn, có lẽ người Soi Nhụ còn tăng cường hơn nữa các mối quan hệ với các cư dân văn hóa phương bắc tới, và không loại trừ khả năng các khu vực lân cận cũng nằm trong ảnh hưởng của nền văn hóa này. Một số dấu ấn văn hóa của các địa điểm khảo cổ học mới phát hiện tại Hòn Ngò, Núi Hứa, và cả Giáp Khẩu nữa đã được so sánh với các di tích cùng loại tại vùng ven biển Quảng Tây, Trung Quốc (Bùi Vinh – Trần Trọng Hà 1999; Hoàng Xuân Chinh 1999).
Ở giai đoạn tiếp theo, giao thoa giữa các giá trị sinh thái và văn hóa vùng Hạ Long-Cát Bà càng thể hiện rõ ở các cộng đồng dân cư sống dọc ven biển và các hải đảo từ Hải Phòng ngược lên phía đông bắc, chí ít là tới Móng Cái, thuộc vùng cửa sông Ka Long. Có thể nói đây là một hệ thống sinh thái nhân văn biển vào loại lâu đời nhất trên đất Việt Nam. Cư dân Hạ Long định cư chủ yếu xung quanh các hệ thống cửa sông Bạch Đằng – sông Chanh, hệ thống cửa sông Cửa Lục, cửa sông Tiên Yên, Hà Cối và Ka Long. Có thể nói rằng môi trường cửa sông, hay hệ thống sinh thái cửa sông ở vùng này còn bao gồm một hệ thống các hòn đảo đá vôi và đảo đất từ Cát Bà cho tới Vĩnh Thực, Vĩnh Trung thuộc thị xã Móng Cái. Trong hệ thống sinh thái này, các đầu vào cho nền kinh tế sinh nhai của cư dân nơi đây là vô cùng phong phú, bao gồm cả sản vật của rừng, sông, cửa sông, vũng vịnh, biển khơi và các nguồn trên các hệ thống đảo. Về cơ cấu kinh tế của xã hội Hạ Long, các di vật khảo cổ học cho thấy các hoạt động khai thác môi trường rừng ngập mặn, hái lượm trên núi, khai thác nhuyễn thể, săn bắn, đánh cá, sản xuất công cụ đá, làm gốm, làm đồ trang sức, khai thác đá quý và bán quý, đóng thuyền, làm muối (?), khai thác ngọc trai (?), trao đổi buôn bán, bao gồm cả thương mại đường dài với các cư dân miền núi, châu thổ sông Hồng và các cư dân dọc bờ biển Nam Trung Quốc. (Hà Hữu Nga 2001b, tr.132)
Một cơ sở kinh tế như vậy giúp ta hình dung phần nào rõ ràng về cấu trúc xã hội của cư dân Hạ Long. Trước hết về mô hình cư trú, khác với môi trường rừng núi Mai Pha – cư dân khó có thể tập trung thành những điểm tụ cư lớn vì sự phân tán và khan hiếm tương đối của các nguồn – người Hạ Long đã quần cư thành một số trung tâm lớn, đặc biệt là ở vùng lưu vực sông Bạch Đằng, sông Chanh, ven vịnh Cửa Lục, đảo Cát Bà, đảo Ngọc Vừng, và vùng cửa sông Ka Long (Thoi Giếng, Vạn Ninh). Các điểm tụ cư này cho phép ta hình dung về những cộng đồng làng sầm uất và có tổ chức chặt chẽ. Tuy nhiên, có một thực tế là các địa bàn cư trúc của người Hạ Long tại những vùng cửa sông và trên các hòn đảo là những nơi bị chia cắt bởi vũng vịnh và các dòng sông. Vì vậy phương tiện duy nhất để kết nối các nhóm chia cắt tương đối ấy phải là những con thuyền hoặc những chiếc bè, mảng. Cho đến giờ khảo cổ học chưa tìm thấy dấu tích con thuyền nào trong các di chỉ Hạ Long, tuy nhiên một sưu tập bôn đá, búa đá kích thước lớn đã được tập hợp lại từ nhiều địa điểm trong khu vực này. Nhiều khả năng đó là những công cụ chặt gỗ, đục thuyền độc mộc hoặc ghép bè, mảng. Trừ Hạ Long, chưa nơi nào khác trên đất nước ta tìm thấy loại công cụ này với số lượng đáng kể như vậy. Đối với người dân Hạ Long nói riêng và cư dân Việt cổ nói chung, con thuyền không chỉ là phương tiện đi lại trên sông biển, mà nó còn là tài sản, là ngôi nhà và là biểu tượng văn hóa nữa. Cùng với sự ra đời của con thuyền và nghề sông nước, có thể nói rằng các luồng giao thương sông biển trở thành một đầu vào kinh tế và văn hóa quan trọng nhất trong xã hội Hạ Long. Có lẽ chính con thuyền của họ là phương tiện kết nối nền văn hóa Đông Á đặc sắc của các xã hội thuộc đồng bằng Hoàng Hà, Dương Tử với các nhóm cư dân vùng châu thổ sông Hồng. Không phải ngẫu nhiên mà sách Hoài Nam Tử phải thừa nhận rằng Rợ Hồ rất thạo đi ngựa, còn người Việt lại giỏi chèo thuyền. Họ thực sự là những người đi tiên phong trong việc mở mang các tuyến hàng hải trên biển, có thể từ khoảng thiên niên kỷ II TCN (Guangdong Science and Technology Press 1991: 4). Với tác giả sách Hoài Nam Tử, khái niệm người Việt ấy đương nhiên bao gồm cả xã hội Hạ Long. (Hà Hữu Nga 2001b, tr.132, 133)
Tuy cùng bình tuyến lịch sử, nhưng có lẽ do điều kiện địa lý và môi trường sinh thái nhân văn mà tính chất phức hợp của xã hội Hạ Long chắc chắn ở mức độ cao. Cấu trúc xã hội Hạ Long, về phương diện phân công lao động có thể bao gồm các phụ hệ thống: 1) Làm nông trên các đồng bằng cửa sông, đặc biệt là vùng tam giác Hải Phòng – Kinh Môn – Yên Hưng; 2) Khai thác ven biển (chủ yếu là cửa sông nhỏ, các vùng rừng ngập mặn) là thế mạnh của các nhóm cư dân xung quanh vịnh Cửa Lục, vùng hố trũng Tiên Yên, các khu vực cửa sông Hà Cối lên đến vùng cửa sông Ka Long (Móng Cái); 3) Khai thác biển khơi (hải sản, ngọc trai là các nhóm cư dân đảo Cát Bà, Cái Bầu, Ngọc Vừng, Vĩnh Trung, Vĩnh Thực, Cô Tô…); 4) Sản xuất thủ công và trao đổi đường dài : Vùng tam giác Hoàng Tân (Yên Hưng) – Cát Bà – Tràng Kênh (Hải Phòng), và xa về phía cực bắc là Thoi Giếng (Vạn Ninh); 5) Giao thông sông biển: các nhóm Cát Bà, Ngọc Vừng, Thoi Giếng…v.v. Quá trình tích hợp tộc thuộc và văn hóa xã hội Hạ Long có lẽ xảy ra vào giai đoạn muộn của hệ thống Soi Nhụ, đặc biệt là trước – sau đợt biển tiến Holocene Trung vào khoảng 5000 năm cách ngày nay. Đợt biển tiến Holocene Trung đã gây ra một hiệu ứng thuận - nghịch đối với các chiến lược di động kiếm sống và cư trú của cư dân Đông Á, Đông Nam Á lục địa và Đông Nam Á hải đảo, tạo nên sự tiếp xúc tăng cường giữa các nhóm cư dân vốn biệt lập tương đối. Đợt biển tiến này đã làm mất đi một không gian vật lý đáng kể của các cư dân ven biển, đặc biệt là cư dân hải đảo, khiến họ phải tăng cường di trú tới các dải ven biển thuộc khu vực Đông Nam Á lục địa. Nhưng cũng chính đợt biển tiến này đã tạo thêm cơ hội và các nguồn lợi cho các nhóm miền núi tiến xuống đồng bằng ven biển để phát triển nghề nông, khai thác thủy sản và trao đổi tăng cường. (Hà Hữu Nga 2001b, tr.133)
Di sản hệ thống cư trú Hạ Long – Cát Bà cổ còn có thể thấy rất rõ trong hệ thống sinh thái nhân văn KẺ-CẢ-CỔ-CÁI-HẢI rất đặc trưng của hệ thống cư trú Việt cổ, có nguồn gốc gắn liền với hệ thống sinh thái nhân văn vùng này. Có điều rất đáng chú ý là hai học giả nổi tiếng Trung Quốc là Từ Tùng Thạch và Trần Kinh Hòa đã gắn chúng với nguồn gốc Tày Thái. Trần Kinh Hòa đã liên hệ từ cổ/gu 古 với từ chỉ người trong tiếng Thái là “khon”. Ông cho rằng kẻ và khon có chung một nguồn còn 古 cổ chỉ là một cách chuyển dịch bằng tiếng Hán mà thôi. Sau đó ông kê các từ chỉ người trong một số ngôn ngữ khác nhau. Thêm một số trường hợp khác gồm các từ kun, can và các từ sau: Thái Trắng: Ke (người lớn 25-40 tuổi; Thái Đỏ: Po Ke (đàn ông) và Me Ke (đàn bà). Tóm lại toàn bộ các thông tin trên là như sau: Chúng ta có các địa danh trải từ miền Trung Việt Nam đến An Huy, Trung Quốc được bắt đầu với từ cổ/gu 古, hoặc các từ có âm tương đồng khác. Từ Tùng Thạch và sau đó là Trần Kinh Hòa cho rằng đó là một từ tiếng Thái để chỉ người/ nhóm người. Ông kết luận đó là một dấu ấn cho thấy trong lịch sử đã có người Thái sống tại vùng châu thổ Sông Hồng. Còn Liam Kelly Christopher (Lê Minh Khai) thì cho rằng các nhà ngôn ngữ học Thái chắc sẽ không đồng ý với quan điểm đó khi họ thấy các cộng đồng nói tiếng Tày Thái vẫn sống ở các vùng thuộc Quảng Tây cho đến khoảng 1000 năm SCN, rồi mới bắt đầu di cư ra khỏi vùng đó. (Lê Minh Khai [Liam Kelly Christopher] 2013) Tuy nhiên cả ba học giả nổi tiếng Từ Tùng Thạch, Trần Kinh Hòa và Liam Kelly Christopher đều không ngờ rằng một bộ phận lớn người Tày Thái (Thủy, Choang [Tráng], Đồng, Lý, Lão, Liêu v.v..) ở Quảng Tây, Quý Châu, Vân Nam đều có mối liên hệ gốc gác với người Soi Nhụ, Cái Bèo, Hạ Long khi trong đợt biến tiến Holocene Trung một bộ phận tổ tiên họ đã từ vùng Hạ Long-Cát Bà chạy lụt Đại Hồng Thủy lên các vùng đó và/hoặc trao đổi, buôn bán đường dài qua hệ thống sông Bạch Đằng, Lục Đầu, sông Đuống, Sông Luộc, sông Thương, sông Cầu, sông Ka Long, và đặc biệt là ba con rồng: sông Lô-Thanh Long, sông Hồng-Xích Long, sông Đà-Hắc Long.
Trong môi trường cư trú của người Việt cổ - một bộ phận của tổ tiên người Malayo-Polynesian - chúng ta thấy có ba từ tạo thành một hệ thống sinh thái nước hoàn chỉnh, đó là Cái để chỉ vũng vịnh ven biển, nơi con người có thể tụ tập thành cộng đồng và sinh sống lâu dài. Vùng biển Quảng Ninh, vịnh Hạ Long và Hải Phòng điển hình cho môi trường này. Ở khu vực này vẫn còn thấy rất nhiều địa danh có từ Cái như Cái Bầu, Cái Lân, Cái Làng, Cái Bèo, v.v... Những vùng này ít chịu ảnh hưởng của văn hóa Hán cho nên ít thấy có trường hợp sử dụng từ Hán Việt để mô tả từ này ở khu vực Quảng Ninh, Hạ Long. Nhưng lùi về bờ biển phía đồng bằng Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định, chúng ta thấy có hàng loạt từ Hải, chắc chắn đã được dùng thay cho từ Cái, đó là Hải trong Hải Đông, Hải Dương, Hải Phòng, Hải Hậu. Ở Hải Phòng còn thấy một số địa danh cải biến Cái thành 吉 Cát (tốt lành) hoặc lai giữa Việt và Hán Việt, trong đó có thể từ Cát là tiếng Việt thay cho từ Cái như Cát Bà, hoặc Cát Cụt, Cát Dài nhưng đối với trường hợp Cát Hải thì lại có thể được diễn giải bằng hai từ Hán 吉海, trong khi vẫn tồn tại địa danh Cái, chẳng hạn Cái Tráp huyện Cát Hải. Có lẽ các biến đổi địa danh trên diễn ra muộn, không xa ngày nay là bao nhiêu. (Hà Hữu Nga 2011a)
Riêng từ Cửa cũng khá phức tạp, vì từ này được dùng để mô tả các cửa sông chảy ra biển, hoặc cửa sông chảy vào một con sông chính nào đó. Đối với tôi, “cửa” rõ ràng là một từ có gốc Malayo-Polynesian “kuala” cửa nhà, sông, ngòi. Hầu hết các vùng này đều dần dần trở thành thủ đô hoặc các đô thị, các trung tâm quan trọng của vùng, nên khi bị người Hán đô hộ, từ Kuala Cửa đã được khoác bằng một hai chiếc áo Hán để ghi bằng các âm tương ứng trong tiếng Hán như 古 Cổ (Cổ Loa, Cổ Đô (cạnh ngã ba Hạc Trì), Cổ Lương (Hà Nội), hoặc Khả 可 (Khả Lũ - Cổ Loa; Khả Lạc - Kinh đô của người Dạ Lang cũ nay thuộc Quý Châu, Trung Quốc) chẳng hạn. Như vậy trong hầu hết các trường hợp sinh thái nhân văn cư trú thì Cổ - Khả là để chỉ một loại trung tâm như Kinh đô, hoặc chính là Kinh đô. Riêng với Kẻ, giống như trường hợp Cái, vì xa các trung tâm đô thị Hán hóa và ít chịu ảnh hưởng của văn hóa Hán nên nó vẫn tồn tại nguyên vẹn với tư cách là một từ tiếng Việt, cho dù có một hai âm đọc tương ứng khác là Kẽ, Khe, và cũng có thể được viết bằng từ Hán 溪 Khê. Đây là những địa điểm tụ cư tại cửa các con sông nhỏ, hoặc cửa các con ngòi, lạch nhỏ chảy vào một vùng nước, hoặc một con sông chính. Vì vậy về cấu trúc phân cấp xã hội phải có một loạt Kẻ phụ thuộc vào một Cửa – Cổ - Khả nào đó. (Hà Hữu Nga 2011a)
Trong lịch sử thủy cư Việt thì ba từ trên tương ứng với ba quy mô lớn nhỏ khác nhau. Về mặt nguyên ủy, nếu chỉ sống dựa vào tự nhiên thì Cái có quy mô diện tích lớn nhất, và cũng có thể nuôi chứa được một dân số đông nhất vì nguồn lợi thiên nhiên dồi dào của nó. Tuy nhiên khi nông nghiệp, thủ công nghiệp và đô thị phát triển thì Cửa - Khả - Cổ lại là môi trường thuận lợi nhất để nuôi chứa được một dân số lớn đến mức khó tưởng tượng đối với con mắt của người quen nhìn cuộc sống phụ thuộc vào các nguồn thuần túy tự nhiên. Cuối cùng Kẻ vẫn là quy mô làng thôn theo đúng nghĩa của từ khe, ngòi chỉ đủ nguồn lợi để nuôi chứa được một cộng đồng dân số nhỏ bé. Riêng Kẻ Chợ là một khái niệm phiếm chỉ, có lẽ nó ra đời cùng với lớp thị dân vừa thoát khỏi thân phận nông nô, hoặc nông dân tự do nghèo khổ, là những người sống bên lề của xã hội quan lại, quý tộc phong kiến. Vì vậy Kẻ Chợ không nằm trong hệ thống Cái, Cổ, Kẻ truyền thống Việt, mà lại là một từ có vẻ tiên báo về một giai cấp tiểu tư sản thị dân đang xuất hiện và dần dẫn trở thành chủ đạo, giống như các thành thị Châu Âu thời Cận đại vậy. (Hà Hữu Nga 2011a)
3.2 Góp phần tạo lập ngữ hệ Malayo-Polynesian ở khu vực Đông Nam Á Lục địa và Đông Nam Á Hải đảo (Tiêu chí 2, 3)
Lịch sử ngôn ngữ và ngôn ngữ học lịch sử là hai trong số những lĩnh vực khoa học quan trọng nhất mà khảo cố học có thể tiếp cận như là đối tượng nghiên cứu, và như là hệ phương pháp của mình. Tuy đa dạng và phân cắt về địa lý, tuy phức tạp và khác biệt về lịch sử, tôn giáo, chính trị, ý thức hệ, nhưng các nước Đông Nam Á luôn luôn là một thực thể thống nhất về phương diện văn hóa. Cái chất keo của sự thống nhất đó có thể được tạo bởi nhiều yếu tố khác nhau, nhưng nếu không có một yếu tố trung tâm là ngôn ngữ thì không bao giờ Đông Nam Á trở thành một thực thể “thống nhất trong đa dạng” cả. Ở đây ngôn ngữ có vai trò của cuộc cách mạng đầu tiên, quan trọng nhất trong lịch sử nhân loại chính là cuộc cách mạng biểu tượng. Khác với vai trò của kinh tế, công nghệ, xã hội xảy ra trong một thời điểm, tạo dựng biểu tượng là một quá trình mà người ta không dễ gì lần tìm được điểm khởi đầu và khẳng định được điểm kết thúc của nó. Có thể nói rằng một hệ thống biểu tượng là một hệ thống ngôn ngữ. Ngược lại, một ngôn ngữ cũng chứa đựng những hệ thống biểu tượng. “Ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu biểu hiện những ý niệm, và do đó có thể so sánh với chữ viết, với chữ của người câm điếc, với các nghi lễ tượng trưng, với các hình thức lễ độ, các tín hiệu nhà bình, v.v. Nó chính là hệ thống quan trọng nhất trong hệ thống này. Vậy có thể quan niệm một ngành khoa học nghiên cứu đời sống của cùa các tín hiệu trong lòng sinh hoạt xã hội; chúng tôi sẽ gọi nó là tín hiệu học” (Saussure F. 1973, tr. 40).
Theo Saussure, tín hiệu ngôn ngữ có hai nguyên lý: i) nguyên lý tính võ đoán, vì “mọi phương tiện biểu hiện được chấp nhận trong một xã hội đều dựa trên thói quen tập thể hoặc trên sự quy ước”; ii) nguyên lý tuyến tính của cái được biểu hiện – vì nghe được nên cái biểu hiện (âm thanh) diễn ra trong thời gian, nó có một quảng tính chỉ có thể đô được theo một chiều mà thôi. Để cho hai nguyên lý trên không bị mâu thuẫn, Saussure đã không chấp nhận khái niệm biểu trưng thay cho tín hiệu, vì theo ông, biểu trưng có một đặc tính là không bao giờ hoàn toán võ đoán. Biểu trưng không phải là trống rỗng vì nó có một “mối tương quan thô sơ nào đó” giữa cái biểu hiện và cái được biểu hiện. Biểu trưng công lý là cái cân không phải muốn lấy cài gì thay thế cũng được (Saussure F. 1973, tr. 124). Tuy không quan tâm nhiều đến ngôn ngữ học lịch sử, nhưng Saussure cũng khẳng định rằng “Ở bất cứ thời đại nào, dù ta có đi ngược lên xa bao nhiêu, ngôn ngữ cũng vẫn hiện ra như di sản của thời đại trước nó…Thực ra một xã hội nào cũng chỉ biết được ngôn ngữ dưới hình thức là một sản phẩm thừa hưởng từ các thế hệ trước và phải chấp nhận nó y nguyên như thế,…Một trạng thái ngôn ngữ nhất định bao giờ cũng là sản phẩm của những nhân tố lịch sử, và chính những nhân tố đó cắt nghĩa tại sao tín hiệu lại bất khả biến, nghĩa là kháng cự lại mọi sự thay thế võ đoán” (Saussure F. 1973, tr. 129).
Một trong những thất bại của cấu trúc luận là bỏ qua phương lịch sử của ngôn ngữ. Điều đó được chính ông tổ Saussure xác nhận : “ Cho nên vấn đề ngôn nguồn gốc của ngôn ngữ không quan trọng đến mức như người ta thường gán cho nó…” (Saussure F. 1973, tr. 129). Tuy nhiên Saussure đặt tuyên bố đó chỉ trong bối cảnh thuần túy ngôn ngữ mà thôi. Ngược lại, trong địa hạt nhân học nói chung, và đặc biệt là trong lĩnh vực tiền sử thì nguồn gốc ngôn ngữ lại là một vấn đề cốt yếu nhất. Điều đó đặc biệt đúng với trường hợp Đông Nam Á, là quê hương của một ngữ hệ lớn nhất, đó là ngữ hệ Nam Đảo (Austronesian), hay còn gọi là Mã Lai – Đa Đảo (Malayo-Polynesian). Một trong những nhà tiền sử học có nhiều công lao nhất trong việc nghiên cứu nguồn gốc của ngữ hệ này là Peter Bellwood. Tuy nhiên, ông cũng là người mắc sai lầm lớn nhất khi khẳng định rằng quê hương duy nhất của ngữ hệ này là Đài Loan. Sai lầm của Bellwood bắt nguồn từ hai lối nhìn : i) Về phương diện lịch sử, ông gắn liền sự phát triển của ngữ hệ này với sự phát triển của nông nghiệp; ii) Về phương diện chính trị-xã hội, phải chăng ông và một số nhà ngôn ngữ học tiền sử khác muốn thấy Đài Loan cần phải trở thành một trung tâm văn hóa duy nhất của toàn bộ khu vực Đông Nam Á ?. (Hà Hữu Nga 2006)
Theo Bellwood, một đặc điểm chính yếu cần phải nhấn mạnh là quá trình phát triển liên tục của tiền sử Đài Loan không cho thấy bất cứ dấu hiệu nào của một sự thay thế dân cư rộng khắp trên đảo, hoặc truyền thống văn hóa tiếp nối văn hóa Dapenkeng (Đại Phần Khanh) vào khoảng 3500/3000 (TCN – Trước Công nguyên). Lịch sử phát triển văn hóa liên tục cho thấy các cư dân nói ngôn ngữ Nam Đảo đã cư chiếm toàn bộ đảo này cho đến thế kỷ XVII (SCN – Sau Công nguyên). Vào khoảng 2500 – 2000 năm (TCN – Trước Công nguyên), sau khi phong cách gốm Đại Phần Khanh tiến hóa thành loại hình trang trí dải băng hoa văn màu đỏ, hoặc gốm văn thừng mang đặc trưng khác biệt vùng thì cũng là lúc những người nông dân Đá mới đầu tiên di cư về phía Nam, đến Philippines và thậm chí cả Indonesia (Bellwood 2004: 134-135). Và ông gọi đây là “mô hình chuyến tàu nhanh” của quá trình bành trướng ngôn ngữ Nam Đảo ra khỏi Đài Loan (Bellwood 2004: 229). Thật kỳ lạ, tại sao lại phải là chuyến tàu nhanh ? Và người ta có cảm tưởng rằng trước khi người Đài Loan bản xứ đem ngôn ngữ ra khỏi Đài Loan, toàn bộ các nhóm cư dân Đông Nam Á tiền sử phải chăng là không có ngôn ngữ? Màn phù phép khiên cưỡng của ông phù thủy Bellwood có lẽ chỉ để cho có vẻ thực chứng (positivistic) với nông nghiệp và gốm trang trí dải băng đỏ. Thật ra không thể có chuyện sau 4500 năm cách ngày nay, chỉ từ khi phát minh ra nông nghiệp, người Malayo-Polynesian ở Đông Nam Á mới học nói. Theo thống kê của chúng tôi với nhóm ngôn ngữ Jarai và Êđê, đều thuộc ngữ hệ Nam Đảo (Malayo-Polynesian) thì ít nhất là có tới 70% vốn từ vựng của các ngôn ngữ này không liên quan gì đến nông nghiệp và phải có trước khi có phát minh ra nông nghiệp. Vậy thì có phải nguồn gốc của chúng đều là từ Đài Loan? Chắc chắn là không! Vì vậy người ta cần phải đi tìm một nguồn gốc của nhóm ngôn ngữ này sớm hơn 4500 năm nhiều. (Hà Hữu Nga 2006)
Chúng ta đều biết rằng người Nam Đảo (Malayo-Polynesian) là các cư dân sống ở ven biển và các hải đảo. Vì vậy tổ tiên của họ phải là các văn hóa biển. Trong khi đó ở Việt Nam, nền văn hóa biển đầu tiên là văn hóa Soi Nhụ. Người Soi Nhụ đã sinh sống tại khu vực vịnh Hạ Long cách ngày nay chí ít là khoảng từ 23.000 năm trước, vào cuối thời đại Đá cũ, khi mực nước đại dương còn thấp hơn bây giờ rất nhiều (Hà Hữu Nga 1997, tr 91-94; 2000, tr. 72-80). Chúng ta chưa có đủ bằng chứng để nói về một cuộc cách mạng biểu tượng – một dấu ấn phát triển của tư duy ngôn ngữ - của cư dân văn hóa Soi Nhụ, nhưng chắc chắn rằng những con người này đã biết nói, và vốn từ vựng của họ đã có ít ra là vào khoảng 1/3 vốn từ cơ bản của các cư dân Nam Đảo hiện đại. Vậy là trước khi có đợt biển tiến Holocene Trung vào khoảng 5000 năm trước, những người vùng Soi Nhụ có thể qua lại hoặc giao lưu một cách dễ dàng với các cư dân thuộc các đảo Đông Nam Á bằng thuyền bè và kể cả đi bộ. Chính họ đã là một trong những cội ngồn văn hóa và ngôn ngữ của các cư dân biển và hải đảo Malayo-Polynesian. Vì vậy, nói tới ngôn ngữ Proto-Malayo-Polynesian thì không thể bỏ qua được nhóm cư dân các văn hóa Soi Nhụ, Cái Bèo, và Hạ Long của Việt Nam, chứ không chỉ duy nhất là nhóm cư dân bản địa Đài Loan. (Hà Hữu Nga 2006)
Trước hết, để làm rõ thêm vấn đề này, xin được nhắc lại một giả thiết nghiên cứu mà lâu nay chúng tôi đã xây dựng và theo đuổi: Các cộng đồng người tiền sử thuộc các văn hóa Soi Nhụ (khoảng 25.000 – 6.000 năm trước), văn hóa Cái Bèo (khoảng 6.000 – 4.000 trước), văn hóa Hạ Long (khoảng 4.000-3000 năm trước) trong khu vực vịnh Hạ Long và các vùng ven biển xung quanh là những cộng đồng sống với biển bằng nghề đóng thuyền, bè, đi biển, khai thác biển; họ trao đổi với các cộng đồng săn bắt - hái lượm – làm nông trên bờ và kết nối nền văn minh Việt cổ với các cộng đồng ngoài các đảo xa. Chính họ đã góp phần tạo dựng ngữ hệ Malay-Polynesian, nói cách khác, họ là một trong những tổ tiên của các cộng đồng người Malayo-Polynesian hiện đại; và cũng chính họ đã góp phần xây dựng cơ tầng Malay trong tiếng Việt cổ đại, có nghĩa là tiếng Việt thời Hùng Vương, tiếng Việt của nền văn minh Đông Sơn. Vì vậy đối với tôi, sự tương đồng giữa tiếng Việt cổ đại với các nhóm ngôn ngữ thuộc ngữ hệ Malayo-Polynesian là điều hoàn toàn bình thường. Vấn đề là ở chỗ phải tìm lại được các yếu tố tương đồng ấy trong các trường hợp cụ thể nào mà thôi. (Hà Hữu Nga 2012, Số 214-10-2, tr.18)
Như vậy là tiếng Việt thời Hùng Vương, tiếng Việt của nền văn minh Đông Sơn, hay nói cách khác, tiếng Việt trước khi tiếp xúc với văn hóa Hán, về cơ bản là tiếng Việt với hệ thống từ vựng mang đậm các yếu tố Malayo-Polynesian. Và đợt biển tiến khoảng 5000 - 4500 năm trước là một trong những nguyên nhân di cư ồ ạt của các cộng đồng, bộ lạc ven biển do chịu tác động trực tiếp của đợt biển tiến đó. Chính các di dân này đã góp phần tạo dựng các nền văn hóa Malayo-Polynesian trên hầu hết miền Trung, Tây Nguyên và miền Nam Việt Nam. Và cũng chính họ đã chuyên chở các yếu tố văn hóa và ngôn ngữ thuộc nền văn minh Đông Sơn đến bán đảo Malaysia, quần đảo Indonesia và quần đảo Philippines. Đương nhiên các quá trình đó còn được tiếp tục trong suốt lịch sử quan hệ, tương tác văn hóa hai chiều và nhiều chiều giữa Đông Nam Á lục địa, Đông Á với Đông Nam Á hải đảo và xa hơn nữa. Trong quá trình lịch sử đó không ít các yếu tố văn hóa và ngôn ngữ Việt cổ thuộc nền văn minh Đông Sơn đã được lưu giữ tại các tộc người có gốc gác từ nền văn minh Đông Sơn, hoặc có mối quan hệ sâu đậm với nền văn minh Đông Sơn tại các khu vực Đông Nam Á hải đảo, đặc biệt là tại các vùng núi hẻo lánh, ít chịu tác động của các yếu tố văn hóa ngoại lai trong quá trình Ấn Độ hóa và thực dân Tây phương hóa ở Malaysia, Indonesia và Philippines.
_______________________________________
(Còn nữa…)
Nguồn: Hà Hữu Nga (2024). Giá trị văn hóa của di sản Vịnh Hạ Long - Quần đảo Cát Bà. Kỷ yếu Hội thảo Khoa học Nhận diện, đánh giá những giá trị văn hóa tiêu biểu, độc đáo trên vịnh Hạ Long. UBND Tỉnh Quảng Ninh – Ban Quản lý Vịnh Hạ Long tổ chức ngày 30 tháng 10 năm 2024.
Tài liệu dẫn
Alipio A. J. Paul (2006). Natural Resource Conflicts in the Philippine Cordillera Mountains. La Trinidad, Benguet, Philippines. Cordillera Conservation Trust, Philippine.
Arnold M. (1889). Culture and anarchy an essay in political and social criticism. Edition: Popular ed View all formats and editions, Publisher: Smith, Elder, London, 1889.
Boas, Franz (1887). Museums of Ethnology and their classification. Published in Science 9: 589.
Beck L. & Cable T.T (1998). Interpretation for 21th Century. Fifteen Guiding Principles for interpreting Nature and Culture, Sagamore Publishing, Champaign, Il.
Beck, L & Cable, T.T (2011). The Gifts of Interpretation: Fifteen Guiding Principles for Interpreting Nature and Culture, Sagamore Pub.
Bellwood, P. (1984,1985). A hypothesis for Austronesian origins. In Asian Perspectives No. 26 (1: 107-117).
Bellwood P. 2004. First Farmers – The Origins of Agricultural Societies. Blackwell Publishing.
Bennett, J. (2001). Natural Heritage Valuation Methods: Applications to Cultural Heritage’ in Heritage Economics: Challenges for Heritage Conservation and Sustainable Development in the 21st Century, Australian Heritage Commission, Australia.
Bình Nguyên Lộc 1971-2007. Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam. Chương V: Dấu vết Mã Lai trong xã hội Việt Nam ngày nay. Bách Bộc xuất bản, Sài Gòn 1971. Bản điện tử do talawas thực hiện ngày 13/10/2007.
Blust, Robert (1984,1985). The Austronesian homeland, a linguistic perspective. In Asian Perspectives No. 26(1):4567.
Boas,
Franz 1963 [1911]. The Mind of Primitive Man New York: Collier Books.
page 149.
Boas, Franz (1996). The Study of Geography. In Volksgeist as Method
and Ethic: Essays on Boasian Anthropology and the German Anthropological
Tradition. J. George W. Stocking, ed. Pp. 9-17. History of Anthropology,
Volume 8. Madison, WI and London, UK: University of Wisconsin Press.
Bock P.K. (1969). Modern Cultural Anthropology – An Introduction. Alfred A. Kroff, New York.
Bourdieu, Pierre (1977). Outline of a Theory of Practice. Cambridge: Cambridge University Press.
Boyd, R., & Richerson, P. J. (1985). Culture and the evolutionary process. University of Chicago Press.
Bùi Vinh – Trần Trọng Hà (1999). Hòn Ngò (Quảng Ninh), trong Những phát hiện mới về Khảo cổ học 1999, Hà Nội 2000.
Burger, J., Kirchner, M., Bramanti, B., Haak, W., & Thomas, M. G. (2007). Absence of the lactase-persistence-associated allele in early Neolithic Europeans. Proceedings of the National Academy of Science, 104, 3736–3741.
Callon, Michel (1986). Some elements of a sociology of translation: Domestication of the scallops and the fishermen of Saint Brieuc Bay. In Power, Action and Believ: A New Sociology of Knowledge, edited by J. Law, pp. 196-233. Routledge and Kegan Paul, London.
Callon, Michel and Bruno Latour (1991). Collins, Harry and Steven Yearley 1992 Epistemological Chicken. In Science as Practice and Culture, edited by Andrew Pickering, pp. 301-326. University of Chicago Press, Chicago.
Cao Huy Đỉnh 1969. Người anh hùng làng Dóng. Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
Cao Xuân Hạo (2004). Song Viết là gì? Vài luận cứ nhỏ cho một vấn đề vẫn tồn nghi. Tạp chí Ngôn ngữ, số1, năm 2004, tr. 53 – 60.
Cary, Max (1956). Maes, Qui et Titianus. In The Classical Quarterly, New Series, 6.3/4 (July–October 1956), pp. 130–134.
Cavalli-Sforza, L. L., & Feldman, M. W. (1981). Cultural transmission and evolution: A quantitative approach. Princeton: Princeton University Press.
Caverhill, John 1767. Some Attempts to ascertain the utmost Extent of the Knowledge of the Ancients in the East Indies. In Proceedings of the Royal Society of London; Philosophical Transactions, vol.57, 1767, pp.155-174. Publisher: Royal Society of London.
Chakravarti Adhir K. 1972. Early Sino-Indian Maritime Trade and Fu-Nan, D.C. Sircar (ed.), Early Indian Trade and Industry, Calcutta, University of Calcutta Centre of Advanced Study in Ancient Indian History and Culture,Lectures and Seminars, no.VIII-A, part I, 1972, pp.101-117.
Coedès, George (1968). The Indianized States of Southeasts Asia. Honolulu: EastWest Center Press.
De Rhodes A. (1991). Từ điển Annam – Lusitan – Latinh (Thường gọi là Từ điển Việt – Bồ - La). Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
De Sausure F. 1973. Giáo trình ngôn ngữ học đại cương. Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
Dumbraveanu D., Ana Craciun, and Anca Tudoricu (2016). Principles of interpretation, tourism and heritage interpretation – The experience of Romanian museums. In Human Geographies, Vol. 10, No. 1, May 2016.
Durham, W. H. (1991). Coevolution: Genes, culture, and human diversity. Stanford: Stanford University Press.
Đào Duy Anh (1938, 1998). Việt Nam Văn hóa Sử cương. Nxb. Đồng Tháp.
Đào Duy Anh (1962; 2005). Sự cần thiết chỉnh lý tài liệu trong công tác nghiên cứu và phiên dịch. Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 37, tháng 4, 1962; in lại trong Đào Duy Anh – Nghiên cứu Văn hóa và Ngữ văn, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội 2005, tr. 211-229.
Đinh Văn Tuấn. (2011). Giải mã bí ẩn SONG VIẾT: SONG VIẾT chính là chiết tự của chữ XƯƠNG. Tạp chí Ngôn ngữ, số 3/2011. tr.58- 71.
Đoàn Ngọc Phan, (1975). Phải chăng song viết, song kiết là song cát. Tạp chí Văn học, số 2-1975, Hà Nội.
Đỗ Văn Hỷ (1967). Góp phần giải quyết những tồn nghi trong “Quốc âm Thi tập”. Tạp chí Văn học, số 6-1967, Hà Nội.
Đỗ Văn Ninh (1968). Khai quật hang Soi Nhụ, Quảng Ninh, trong Nghiên cứu Lịch sử, số 117 – 12 – 1968.
Đỗ Văn Ninh (1971). Báo cáo khai quật chùa Lấm trên đảo Thừa Cống, Cẩm Phả (Quảng Ninh). Tư liệu của Viện Khảo cổ học, Hà Nội.
Đỗ Văn Ninh (2004). Thương cảng Vân Đồn – Sách tham khảo Khảo cổ học. Nxb. Thanh niên, Hà Nội.
Fribourg Group (2007). Fribourg Declaration on Cultural Rights. (Document for UNESCO) organized by The Interdisciplinary Institute of Ethnics and Human Rights at The Fribourg University.
Friedmann, JR. (1966). Regional Development Policy – A Case Study of Venezuela. MIT Press, Cambridge.
Friedmann, JR (1967). A General Theory of Polarized Development, mimeo, Santiago, Chile, August.
Friedmann, JR (1968). The Role of Cities in National Development, mimeo, Santiago, Chile, February.
Gaillard, Jean Christophe and Joel P. Mallari (2004). The peopling of the Philippines: A cartographic synthesis. Hukay 6 127.
Geertz, Clifford (1973). Religion as a Cultural System. In The Interpretation of Cultures, by C. Geertz, pp. 87-125. Basic Books, New York.
Glazer, Mark (1994). Cultural Relativism. Texas: University of Texas-Pan American.
Guangdong Science and Technology Press (1993). The collection of antiquities from silk road on South China Sea.
Gudeman, Stephen and Chris Hann (2015). Introduction: Ritual, Economy and the Institutions of the Base. In Economy and Ritual - Studies of Postsocialist Transformations, Edited by Stephen Gudeman and Chris Hann, Published by Berghahn Books.
Hà Hữu Nga (1982, 1985) Thời đại đá mới Việt Nam và một Mô hình Tổng quát. (Viết cho Hội thảo kỷ niệm năm mươi năm văn hóa Hòa Bình năm 1982, sau đó công bố trong Những phát hiện mới về Khảo cổ học Việt Nam năm 1984 (Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1985)
Hà Hữu Nga (1996). Bản sắc Dân tộc và Phát triển. Tư liệu của Trung tâm Nghiên cứu và Tư vấn về Phát triển, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam.
Hà Hữu Nga (1997). Có một nền văn hóa Soi Nhụ tại khu vực Vịnh Hạ Long, trong Những phát hiện mới về Khảo cổ học 1997, Hà Nội 1998.
Ha Huu Nga (1998). Relationships between the Soi Nhu and Ha Long cultures. Paper presented in the 16th Congress of the Indo-Pacific Prehistory Association, Melaka, Malaysia 1 – 7th, July 1998.
Hà Hữu Nga – Nguyễn Văn Hảo (1998). Hạ Long thời Tiền sử, Nxb. Thế giới – Ban Quản lý Vịnh Hạ Long, Hà Nội.
Hà Hữu Nga (1999a). Hạ Long lịch sử. Ban Quản lý Vịnh Hạ Long, Quảng Ninh.
Hà Hữu Nga (1999b). Văn hóa Soi Nhụ - Một cội nguồn của ngữ hệ Malayo-Polynesian. Đề tài khoa học Xây dựng Bảo tàng Sinh thái Vịnh Hạ Long - Ban Quản lý Vịnh Hạ Long năm 1999. Tp Hạ Long, Quảng Ninh.
Hà Hữu Nga (2000). Soi Nhụ Nền văn hóa cổ nhất hiện biết trên vịnh Hạ Long. Kỷ yếu Hội thảo Vịnh Hạ Long – 5 năm Di sản Thế giới, do Uỷ ban Nhân dân tỉnh Quảng Ninh – Bộ Văn hóa Thông tin và Uỷ ban Quốc gia UNESCO của Việt Nam tổ chức tại thành phố Hạ Long tháng 4 năm 2000.
Hà Hữu Nga (2001a). Văn hóa Bắc Sơn. Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
Hà Hữu Nga (2001b). Khảo cổ học Đông Bắc Việt Nam từ những hệ thống sinh thái nhân văn tới các cấu trúc xã hội tiền nhà nước. Bài tham gia Hội nghị Quốc tế “Một thế kỷ khảo cổ học Việt Nam". Viện Khảo cổ học thuộc Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia tổ chức tại Hà Nội. Đăng lại trong: Viện Khoa học Xã hội Việt Nam – Viện Khảo cổ học (2004), Một thế kỷ Khảo cổ học Việt Nam, Tập I, Nxb. KHXH, Hà Nội, tr. 117-139.
Hà Hữu Nga (2003). Trần Nhân Tông trong viễn cảnh Nhân học Phật giáo. Kỷ yếu Hội thảo Khoa học quốc gia Thân thế và sự nghiệp Trần Nhân Tông (1258 - 1308), ĐHKH Huế, Tp. Huế, tháng 12-2003.
Hà Hữu Nga (2004). Văn hóa Hạ Long và Quá trình Hình thành Nhà nước Việt Cổ: Tiếp cận Khảo cổ học Nhận thức. Bài viết cho Bảo tàng Quảng Ninh - Đề tài khoa học "Nghiên cứu văn hoá Hạ Long, đề xuất một số giải pháp bảo tồn và phát huy", Tp. Hạ Long, Quảng Ninh 2004.
Hà Hữu Nga (2005). Khảo cổ học cộng đồng - đề xuất nghiên cứu di chỉ Ba Vũng (Hạ Long, Vân Đồn, Quảng Ninh). Tạp chí Khảo cổ học, Số 6 (138) (XI-XII), 2005
Hà Hữu Nga (2006). Văn hóa Soi Nhụ - một cội nguồn của ngữ hệ Nam Đảo. Trong Những phát hiện mới về Khảo cổ học 2005. Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội 2006.
Hà Hữu Nga (2008). Đô thị và Vùng kinh tế. Bài viết cho Đề tài cấp Bộ Nghiên cứu cơ sở lý thuyết cho việc xác định các ưu tiên trong phát triển bền vững vùng kinh tế, Viện Phát triển Bền vững vùng Bắc Bộ, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, do tác giả làm Chủ nhiệm.
Hà Hữu Nga (2010). Phân tích các bên liên quan trong các Dự án lớn và các Chương trình Trợ giúp Phát triển. Ngân hàng Thế giới, Tài liệu Hướng dẫn được chuẩn bị theo yêu cầu của World Bank - Ngân hàng Thế giới tại Hà Nội, và tác giả trực tiếp tham gia tập huấn điểm cho các bên liên quan tại các tỉnh Lào Cai, Cao Bằng, Hải Phòng, Quảng Nam, Gia Lai, Kiên Giang năm 2010.
Hà Hữu Nga (2011a). Kattigara – Kinh đô huyền thoại Việt. Bài viết cho Đề tài Quan điểm và giải pháp phát triển nhanh và bền vững đô thị vùng Bắc Bộ giai đoạn 2011 – 2020. Đề tài Khoa học cấp Bộ, Viện Phát triển Bền vững vùng, Viện Hàn lâm KHXHVN.
Hà Hữu Nga (2011b). Song Viết – Tiếng ngọc lụa reo trong những cốt cách thanh cao. https://dzunglam.blogspot.com/2011/11/
Hà Hữu Nga (2011c). Hải Phòng - phát triển trong viễn cảnh mạng thành phố toàn cầu. Kỷ yếu Hội thảo Xây dựng và Phát triển thành phố Hải Phòng nhanh – bền vững giai đoạn 2011-2025: Vấn đề và Giải pháp. Liên hiệp các hội KH&KT Hải Phòng, tháng 10/ 2011.
Hà Hữu Nga (2012). Phù Đổng – Cội nguồn sức mạnh Việt. Tạp chí Văn hóa Nghệ An, Số 212& 213, năm 2012 và Số 214-10-2, năm 2012.
Hà Hữu Nga (2015a). Hình tượng Man Nương, hệ thống Tứ pháp và cái được biểu đạt siêu việt. Kỷ yếu Hội thảo Khoa học Vùng văn hóa Luy Lâu và công tác phát triển ngành Du lịch ở Bắc Ninh, Liên hiệp các hội KH&KT tỉnh Bắc Ninh và UBND huyện Thuận Thành, tháng 9 năm 2015.
Hà Hữu Nga (2015b). Đô thị và vùng kinh tế. Tạp chí Phát triển bền vững vùng, Số 3 (9/2015).
Hà Hữu Nga (2015c). Văn hóa như một hệ giá trị phát triển cơ bản. Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu, Số 7 (178), 2015.
Hà Hữu Nga (2020). Tự quản cộng đồng như một loại hình hành động xã hội trong xây dựng Nông thôn mới bền vững ở Việt Nam. Tạp chí Nghiên cứu Con người, số 2 (107) 2020, tr. 40-51.
Hà Hữu Nga (2021). Tiếp cận lễ hội truyền thống từ lý thuyết văn bản. Tạp chí Văn hóa học, Số 6 (58)-2021.
Hà Hữu Nga (2022). Đô thị động lực và các động lực đô thị hóa. Bài tham gia Hội thảo Khoa học Đô thị Động lực và Phát triển Du lịch Sinh thái Văn hóa. Viện Nghiên cứu Ứng dụng Văn hóa và Du lịch, Hà Nội tháng 12 năm 2022.
Hà Hữu Nga (2023a). Khảo cổ học Tôn giáo: Siêu việt - Nội tại và Nghi lễ. Kỷ yếu Hội thảo Khoa học Khảo cổ học Tôn giáo – Nghi lễ, Đại học KHXH&NV-ĐHQGHN, Hà Nội 2023.
Hà Hữu Nga (2023b). Kinh tế nghi lễ - Nội hàm Khái niệm và gợi ý Ứng dụng cho Lễ hội Đền Bảo Hà. Kỷ yếu Hội thảo Khoa học Thần vệ quốc Hoàng Bẩy – Bảo Hà: Công tác Quản lý và Phát huy Giá trị Di tích Lịch sử, Bảo Yên, Lào Cai ngày 26/8/2023 do UBND huyện Bảo Yên tổ chức, tr.71-86.
Hà Hữu Nga (2023c). Kinh tế Nghi lễ và Xã hội Truyền thống người Dao. Kỷ yếu Hội thảo Khoa học Vận dụng Lý thuyết Nhân học, Tôn giáo học Đương đại trong Nghiên cứu Nghi lễ người Dao. Viện Nghiên cứu Ứng dụng Văn hóa - Du lịch và Đại học Thái Nguyên-Phân hiệu Lào Cai tổ chức, Hà Nội 29/12/2023. Tr. 25-49.
Hà Hữu Nga (2024). Bản sắc tộc người và Kinh tế sáng tạo Hộ gia đình Dân tộc thiểu số vùng núi phía Bắc. Hội thảo Khoa học Phát huy bản sắc văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số trong phát triển kinh tế hộ gia đình vùng núi phía Bắc”. Khoa Kinh tế - Du lịch, Phân hiệu Đại học Thái Nguyên tại tỉnh Lào Cai, tháng Tư năm 2024.
Hà Văn Tấn (1970). Nghiên cứu thời đại các vua Hùng, hiện trạng và triển vọng. Trong Quản lý Văn vật, số 19, Hà Nội, tr.64.
Hà Văn Tấn (1974a). Từ gốm Phùng Nguyên đến trống đồng. Trong Khảo cổ học, số 13, Hà Nội.
Hà Văn Tấn (1974b). Đóng góp vào lịch sử một kiểu khuyên tai. Trong Khảo cổ học, số 15, Hà Nội.
Hà Văn Tấn (1982). Trống đồng cổ loa, di chỉ Đình Tràng và Văn minh sông Hồng. Trong Phát hiện Cổ Loa, Sở Văn hóa Thông tin Hà Nội, Hà Nội.
Hamilton R. W. (ed.) (1998). From the Rainbow's Varied Hue: Textiles of the Southern Philippines. Fowler Museum of Cultural History, University of California at Los Angeles.
Hán Văn Khẩn, chủ trì (2003). Báo cáo khai quật di tích Cống Tây (Quảng Ninh). Tư liệu của Khoa Lịch sử, Trường ĐH KHXH & NV (ĐHQG Hà Nội)
Hardenberg R. (2014). Ritual Economy and Ritual Resource - Some General Remarks. Summerschool “Ritual as Resource”, Tübingen University.
Haudricourt A.G. (1960). Note sur les dialects de la resgion de Moncay, BEFEO, tome L; fasc.1; p.172.
Hawkes, Jon (2001). The Four Pillar of Sustainability - Culture’s essential role in public planning. Common Ground Publishing Pty Ltd in association with the Cultural Development Network (Vic).
Herrmann, Albert 1938. Der Magnus Sinus und Cattigara nach Ptolemaus. Compte-rendu du Congrès international de géographie (Amsterdam).
Heshmat, S (2015). Ten Common Myths About Emotions (and Why They're Wrong), Psychology Today, Sussex Publishers LLC, United Kingdom.
Hoàng Anh Tuấn (2008a). Vị trí của Việt Nam trong hệ thống thương mại Biển Đông thời cổ trung đại, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, Hà Nội, 9-10/2008, tr. 1-16.
Hoàng Anh Tuấn (2008b). Vùng duyên hải Đông Bắc trong chiến lược thương mại của người phương Tây thế kỷ XVII. Kỷ yếu Hội thảo khoa học: Thương cảng Vân Đồn: Lịch sử, tiềm năng kinh tế và các mối giao lưu văn hóa, Quảng Ninh, 7/2008, tr. 327-349.
Hoàng Xuân Chinh, Nguyễn khắc Sử (1973). Báo cáo khai quật di chỉ Cái Bèo, đảo Cát Bà, Hải Phòng, năm 1973. Tư liệu Viện Khảo cổ học.
Hoàng Xuân Chinh (1999). Công cụ cuội ghè đẽo vùng duyên hải và hải đảo Đông Bắc, trong Những phát hiện mới về Khảo cổ học 1999, Hà Nội 2000.
Institute on the Far East Works (1915). Note II. Extracts from the Geography of Ptolemy. Vol. I. Second Series No. XXXVII. Issued for 1915 by Society Cathay and the Way thither 1915. Liberary of Wellesley College Presented by Institute on the Far East Works, (Ptolemy K. 1915).
Keynes, John Maynard (1923). A Tract on Money In Reformation. MacMillan and Co., Limited St Martins’ Street, London 1924, pp.80-82.
Kim, Y. Y. (2007). Ideology, identity, and intercultural communication: An analysis of differing academic conceptions of cultural identity. Journal of Intercultural Communication Research, 36(3), 237–253.
Laffan, Michael 2005. Finding Java: Muslim nomenclature of insular Southeast Asia from Śrîvijaya to Snouck Hurgronje. Asia Research Institute, Working Paper Series No. 52. Princeton University.
Latour, Bruno (1993). We Have Never Been Modern. London: Harvester.
Latour, Bruno (1999a). On Recalling ANT. In Actor Network Theory and After edited by J. Law and J. Hassard, pp. 15-25. Oxford: Blackwell.
Latour, Bruno (1999b). For David Bloor . . . and Beyond: A Reply to David Bloor's Anti-Latour. Studies in the History and Philosophy of Science 30(1):81-112.
Latour, Bruno (2005). Reassembling the Social: An Introduction to Actor-Network-Theory. Oxford; New York: Oxford University Press.
Latour, Bruno (1988). The Pasteurization of France. Harvard University Press, Cambridge.
Latour, Bruno (1993). We Have Never Been Modern. London: Harvester.
Latour, Bruno (1999a). On Recalling ANT. In Actor Network Theory and After edited by J. Law and J. Hassard, pp. 15-25. Oxford: Blackwell.
Latour, Bruno (1999b). For David Bloor . . . and Beyond: A Reply to David Bloor's Anti-Latour. Studies in the History and Philosophy of Science 30(1):81-112.
Latour, Bruno (2005). Reassembling the Social: An Introduction to Actor-Network-Theory. Oxford; New York: Oxford University Press.
Law, John (1986). On the Methods of Long Distance Control: Vessels, Navigation and the Portuguese Route to India. In Power, Action and Belief: A New Sociology of Knowledge? edited by J. Law, pp x-x. Routledge and Kegan Paul, London.
Law, John and John Hassard (eds.) (1999). Actor Network Theory and After. Oxford: Blackwell.
Lê Hữu Mục (1996). Song viết là Sàng vạt. Vietnamologica, số 2-1996 – Trung Tâm Việt Nam Học Canada.
Lê Mạnh Thát (1999). Nghiên cứu về Thiền Uyển Tập Anh, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh.
Lê Mạnh Thát (2003). Lịch sử Phật giáo Việt Nam, T.1, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh.
Lê Minh Khai (Liam Kelly Christopher) (2010). Bản Sắc and Identity. https: leminhkhai.wordpress.com/ Lê Minh Khai (Liam Kelly Christopher) (2013). Nghiên cứu từ Kẻ của Trần Kinh Hòa vào năm 1950. Bản dịch của Hà Hữu Nga, posted in https://leminhkhaiviet.wordpress.com
Lịch Đạo Nguyên (chú), Dương Thủ Kính, Hùng Hội Trinh (sớ), Đoàn Hy Trọng (điểm hiệu), Trần Kiều Dịch (phúc hiệu) 2005. Thủy Kinh chú sớ. Nxb. Thuận Hóa, Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, (Bản dịch của Nguyễn Bá Mão).
Lorek, Maria (2015). Des pôles de croissance vers des systèmes d'innovation territorialises dans une « nouvelle » économie de marche : le cas de Gdansk (Pologne). Dans Marché et organisations 2015/1 (N° 22), pages 35 à 61.
Lưu Trần Tiêu, Trịnh Căn (1983). Khai quật di chỉ Cái Bèo (Hải Phòng). Thông báo khoa học, số 1/1983. Viện Bảo tàng Lịch sử Việt Nam.
Lưu Tỳ, Nguyễn Thế Tiệp, Nguyễn Tứ Dần,...(1985). Đặc điểm địa mạo thềm lục địa Việt Nam và các vùng lân cận, trong Khảo cổ học, số 2 – 1985.
Malleret L. 1951. Les fouilles d’Oc-Eo (1944). Rapport préliminaire, BEFEO 1951.
Malleret L. 1962. L’Archéologie du delta du Mékong, Tome Troisiéme, La culture du Fu-nan, Paris, 1962, chap.XXV, “Oc-Èo et Kattigara”, pp.421-54.
Mankiw, N. G. (2000). The Savers–Spenders Theory of Fiscal Policy, American Economic Review 90(2): 120–125.
Maraña M. (2010). Culture and Development Evolution and Prospects. UNESCO Etxea. Working Papers. No. 1.
Marx, Karl (1956a). Kritik der politischen Ökonomie, In Marx-Engels-Werke, (MEW), Berlin 1956ff.
Marx, Karl (1956b). Deutsche Ideologie, In Marx-Engels-Werke, (MEW), Berlin 1956ff.
Marx, Karl (1962). Das Kapital. Kritik der politischen Ökonomie. Erster Band. Buch I: Der Produktionsprozeß des Kapitals. In: Institut für Marxismus-Leninismus beim ZK der SED (Hrsg.): Karl Marx Friedrich Engels Werke (MEW). Band 23. Dietz Verlag, Berlin 1962.
Mauss, Marcel (1990). The Gift: The Form and Reason for Exchange in Archaic Societies. Translated [1925] by W. D. Halls. W. W. Norton, New York.
McAnany, Patricia A., and E. Christian Wells (2008). Towards a Theory of Ritual Economy. In Dimensions of Ritual Economy, edited by E.C. Wells and P.A. McAnany, pp. 1–16. Emerald Group Publishing Limited, Bingley, UK.
Mourato, S. & Mazzanti, M. (2002). Economic Valuation of Cultural Heritage: Evidence and Prospects. In Assessing the Values of Cultural Heritage, The Getty Conservation Institute, Los Angeles.
Ngô Đức Thịnh (2007). Văn hóa dân gian và văn hóa dân tộc, đăng trên Tạp chí Cộng sản (http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Nghiencuu-Traodoi/2007/2441/Van-hoa-dan-gian-va-van-hoa-dan-toc.aspx, posted 26/2/2007).
Ngô Sĩ Liên (1967). Đại Việt sử ký Toàn thư, T.I, Hà Nội.
Nguyễn Công Hoan (1974). Song viết hay song kiết, song viết. Tạp chí Văn học, số 5. Hà Nội.
Nguyễn Hồng Phong (1963). Tìm hiểu tính cách dân tộc. Nxb. Khoa học.
Nguyễn Khải Hoàn 2011. Tục kết chạ ở các làng cổ ven song Cầu: Kim Thượng Trâu Lỗ sắt son một lời thề. http://cema.gov.vn/modules.php?name.
Nguyễn Khắc Sử (2005). Khảo cổ học vùng duyên hải Đông Bắc Việt Nam. NXB Khoa học Xã hội 2005.
Nguyễn Kim Dung (1996). Công xưởng và kỹ thuật chế tạo đồ trang sức bằng đá thời đại đồng thau ở Việt Nam. Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
Nguyễn Kim Dung, Nguyễn Đình Bướng, Bùi Thu Phương, Nguyễn Trường Đông (2001). Khai quật Bãi Bến (Đảo Cát Bà, Hải Phòng). Trong Những phát hiện mới về Khảo cổ học năm 2000, tr.110-111.
Nguyễn Ngọc Chất, Vũ Quốc Hiền, Lê Ngọc Hùng (2008). Nghiên cứu Hệ thống di tích thương cảng Vân Đồn thực trạng và những vấn đề. Thông báo Khoa học của Bảo tàng Lịch sử Quốc gia, tr.129-143.
Nguyễn Ngọc Chất và các cộng sự (2009). Báo cáo kết quả Điều tra, thám sát và khai quật di tích Bảo Tháp (Vân Đồn, Quảng Ninh) năm 2009. Tư liệu của Bảo tàng Lịch sử Quốc gia, Hà Nội
Nguyễn Ngọc Chất và các cộng sự (2010). Báo cáo kết quả Điều tra, thám sát và khai quật di tích Bảo Tháp (Vân Đồn, Quảng Ninh) lần thứ 2 - năm 2010. Tư liệu của Bảo tàng Lịch sử Quốc gia, Hà Nội.
Nguyễn Phú Trọng (2021). Bài phát biểu tại chỉ đạo tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc ngày 24 tháng 11 năm 2021. Hà Nội.
Nguyễn Tài Cẩn (1974, 1985). Thử tìm cách đọc nôm hai chữ «song viết». Tạp chí Văn học, số 2 năm 1974; Đăng lại trong Một số vấn đề về chữ Nôm, Nxb. Đại học và Trung học Chuyên nghiệp, Hà Nội 1985, tr. 181-209.
Nguyễn Tài Cẩn (1975, 1985). Bàn thêm về “song viết? song biết? song kiết?. Tạp chí Văn học, số 6. 1975 ; Đăng lại trong Một số vấn đề về chữ Nôm, Nxb. Đại học và Trung học Chuyên nghiệp, Hà Nội 1985, tr. 210-227.
Nguyễn Tài Cẩn (2005). Xin trở lại vấn đề Song Viết. Trong Tập biên khảo về Khoa học xã hội và nhân văn Từ Đông sang Tây do Cao Huy Thuần, Nguyễn Tùng, Trần Hải Hạc, Vĩnh Sính chủ biên. Nxb. Đà Nẵng, Tp. Đà Nẵng 2005.
Nguyễn Tài Cẩn (2011). Xin trở lại vấn đề SONG VIẾT. http://vanhoanghean.com.vn/chi-tiet-tin-tuc/2076-xin-tro-lai-van-de-song-viet
Nguyễn Thị Phương Chi, Nguyễn Tiến Dũng. (2007). Về các mối giao thương của quốc gia Đại Việt thời Lý - Trần (thế kỷ XI-XIV). Nghiên cứu Lịch sử. Số 7.
Nguyễn Thị Phương Chi (2013). Chiến lược phòng thủ đất nước qua hệ thống thái ấp thời Trần (Thế kỷ XIII-XIV). Nghiên cứu Lịch sử. Số 2 (442).
Nguyễn Thị Phương Thảo (2015). Văn hóa vùng biển đảo Quảng Ninh (Qua nghiên cứu các lễ hội truyền thống). Luận án Tiến sĩ Văn hóa học, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội.
Nguyễn Thị Tâm (2018). Quản lý di tích và lễ hội đình Giang Võng, phường Hà Khánh, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh. Luận văn Thạc sĩ Quản lý Văn hóa khóa 5 (2016-2018), Trường Đại học Sư phạm Nghệ thuật Trung ương.
Nguyễn Tiến Dũng (2010). Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư và những hoạt động ở Vân Đồn nửa cuối thế kỷ XIII. Di tích lịch sử - văn hóa thương cảng Vân Đồn. Nxb. Khoa học xã hội.
Nguyễn Trãi (1976). Nguyễn Trãi Toàn tập. Uỷ ban Khoa học Xã hội Việt Nam – Viện Sử học. In lần thứ hai có sửa chữa và bổ sung. Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
Nguyễn Trường Đông (2001). Mũi khoan ở di chỉ Bãi Bến (Đảo Cát Bà, Hải Phòng). Trong Những phát hiện mới về Khảo cổ học năm 2000, tr.124-127.
Nguyễn Văn Huyên 1938, 1996a. Hội Phù Đổng (Một trận đánh thần kỳ trong truyền thuyết Việt Nam-1938). Góp phần nghiên cứu văn hóa Việt Nam, tập II, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr.7-26.
Nguyễn Văn Huyên 1938, 1996b. Hát và múa Ải Lao ở hội Phù Đổng (Bắc Ninh). Trong Góp phần nghiên cứu văn hóa Việt Nam, tập II, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr.45-68.
Nguyễn Văn Kim (2010). Kinh tế công thương thời Mạc. Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 12, năm 2010.
Nguyễn Văn Kim (2023). Thương cảng quốc tế Vân Đồn tiềm năng vị thế và các quan hệ vùng liên vùng. Tạp chí Khoa học xã Hội Việt Nam, Số 6 (186), 2023.
Oberai A. S. 1993. Population growth, employment and poverty in thirdworld mega-cities: analytical and policy issues. New York: St. Martin's Press, xv-224 p.
Pagiola, S. (1996). Economic Analysis of Investments in Cultural Heritage: Insights from Environmental Economics, World Bank Staff Paper, Washington DC.
Perroux, François (1955). Note sur la notion de pole de croissance? In Économie appliquée Année 1955, pp. 307-320.
Perroux, François (1967). Note sur la ville considérée comme pôle de développement et comme foyer du progress. In Revue Tiers Monde Année 1967, No. 32, pp. 1147-1158.
Peterson George E., G. Thomas Kingsley and Jeffrey P. Telgarsky 1991. Rethinking the Role of Urban Areas in National Economic Development. In Urban Economies and National Development, editedby George E. Peterson, G. Thomas Kingsley and Jeffrey P. Telgarsky, Policy Research Series, USAID Washington, D. C., 1991, Chapter 1, pp. 5-21.
Phạm Đình Hổ (1989). Vũ trung tùy bút. Dựa theo bản dịch của Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Quảng Tuân khảo đính và chú thích. Nxb. Trẻ - Hội Nghiên cứu Giảng dạy Văn học TP. Hồ Chí Minh. Tp. Hồ Chí Minh.
Phạm Minh Huyền, Nguyễn Văn Huyên, Trịnh Sinh 1987. Trống Đông Sơn. Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội.
Phan Huy Chú (1992). Lịch triều Hiến chương Loại chí. Tập II: Lễ nghi chí, Khoa mục chí, Quốc dụng chí, Hình luật chí. Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Lương Ninh 1991. Lịch sử Việt Nam, tập 1, NXB Đại học và Giáo dục Chuyên nghiệp.
Phan Ngọc (1994). Văn hóa Việt Nam và cách tiếp cận mới, Nxb Văn hóa Thông tin.
Ptolemy K. (1885). Ancient India as described by Ptolemy. Translated by J.W. McCrindle, Publisher: Trübner.
Quốc hội (2022). Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở. Luật số: 10/2022/QH15, Hà Nội, ngày 10 tháng 11 năm 2022.
Rappaport, Roy A. (1979). Ecology, Adaptation, and the Ills of Functionalism. In Ecology, Meaning, and Religion, by R. A. Rappaport, pp. 43-95. North Atlantic Books, Richmond, California.
Rappaport, Roy A. (1984). Pigs for the Ancestors: Ritual in the Ecology of a New Guinea People. 2nd edition. Yale University Press, New Haven, Connecticut.
Rappaport, Roy A. (1999). Ritual and Religion in the Making of Humanity. Cambridge Studies in Social and Cultural Anthropology No. 110. Cambridge University Press, Cambridge, UK.
Rawlinson, H. G. 1916. Intercourse between India and the Western World from the Earliest Times to the Fall of Rome. Cambridge : University Press, 1916. - vi, [2].
Ricker, William (1982). Liberalism against Populism: A Confrontation between the Theory of Democracy and the Theory of Social Choice. San Francisco: W. H. Freeman.
Riley T. M. (1995). Ptolemy’Use of his Predecessors’ Data. Transactions of the American Philosophical Association 125 (1995) 221 – 225, California State University, Sacramento.
Robbins L. (1932) An Essay on the Nature and Significance of Economic Science, London: Macmillan.
Rodgers S., Anne Summerfield, John Summerfield (2007). Gold Cloths of Sumatra: Indonesia’s “Songkets” from Ceremony to Commodity. Leiden: KITLV Press, Holland.
Rypkema, Donovan (2009). The Economics of Heritage, http://www.unescobkk.org/.
Sahlins, Marshall (1972a). The Domestic Mode of Production: The Structure of Underproduction. In Stone Age Economics, by M. Sahlins, pp. 41-99. Aldine Publishing Company, New York.
Sahlins, Marshall (1972b). The Domestic Mode of Production: Intensification of Production. In Stone Age Economics, by M. Sahlins, pp. 101-148. Aldine Publishing Company, New York
Santiago, L. Quindoza (2009). Many Stories, One Journey: Literary translation in the Philippines. University of Hawaii at Manoa, C&E Publishing.
Sarkar H.B. (1981). A geographical introduction to South-East Asia: The Indian perspective. Bijdragen tot de Taal-, Land- en Volkenkunde (hereafter BKI) 137-2/3 (1981): 293-323.
Solheim II, Wilhelm G. (2006). Origins of the Filipinos and their Languages. Nineth Philippine Linguistics Congress (2527 January 2006). Organized by the Department of Linguistics, University of the Philippines.
Short, J.R., Y. Kim, M. Kuus and H. Wells (1996). The Dirty Little Secret of World Cities Research: Data problems in Comparative Analysis. International Journal of Urban and Regional Research, 20:4, 697-717.
Sở Văn hoá và Thể thao Quảng Ninh (2016). Hồ sơ di tích lịch sử đình Giang Võng. Tp. Hạ Long, Quảng Ninh.
Spencer-Oatey, H. (2012). What is culture? A compilation of quotations. GlobalPAD Core Concepts.
Summerfield A., Summerfield J., ed., (1999). Walk in splendor-ceremonial dress and the Minangkabau. Los Angeles, UCLA Fowler Museum of Cultural History 1999.
Super R. H. (1965). Culture and Anarchy with Friendship's Garland and Some Literary Essays, Volume V of The Complete Works of Matthew Arnold, The University of Michigan Press, 1965.
Tacoli, Cecilia (1998). Rural-urban interactions: a guide to the literature. In Environment and Urbanization, Vol. 10, No. 1, April 1998.
Thích Gia Quang (2024). Yên Tử trong sự nghiệp đoàn kết, xây dựng và phát triển đất nước. Tạp chí Nghiên cứu Phật học, Số tháng 1/2024.
Throsby, T. (1997). Seven Questions in the Economics of Cultural Heritage. In Hutter, M. and Rizzo, I. (eds) Economic Perspectives on Cultural Heritage, MacMillan Press, London.
Tilden F., (1967). Interpreting Our Heritage, University of North Carolina Press.
Trần Ngọc Thêm (2009). Giá trị và sự chuyển đổi hệ giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam. Báo cáo trình bày tại Hội thảo khoa học “Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam trong quá trình đổi mới và hội nhập”, do Khoa Văn hóa học (Trường ĐH KHXH&NV – ĐHQG TP.HCM) phối hợp với Ban chủ nhiệm Đề tài KX. 03.14/06-10 (Chương trình KX.03/06-10) tổ chức ngày 17-18/9/2009 tại Biên Hòa, Đồng Nai.
Trần Quốc Vượng (1974). Vài suy nghĩ tản mạn về trống đồng. Trong Khảo cổ học, số 14, Hà Nội, tr. 71-81.
Trần Quốc Vượng (1993). Mấy nét khái quát lịch sử cổ xưa về cái nhìn về biển của Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 1, 1993.
Trần Quốc Vượng (1996). Mấy ý kiến về trống đồng và Tâm thức Việt cổ. Trong Theo dòng lịch sử - Những vùng đất, thần và tâm thức người Việt. Nxb. Văn hóa, Hà Nội, tr 39-65.
Trần Quốc Vượng 2000. Việt Nam và biển Đông, Tạp chí Văn hoá dân gian, số 3(71), 2000.
Trần Trọng Kim (2011). Việt Nam Sử Lược, Nxb.Văn Học
Trần Văn Giàu (1980). Giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội.
Trần Văn Giáp, Phạm Trọng Điềm (1956). Quốc âm thi tập, trong "Ức Trai di tập" - phiên âm chú giải, Nxb. Văn Sử Địa, H., 1956.
Trình Năng Chung, Nguyễn Kim Dung, Nguyễn Gia Đối, Lê Minh Tâm 1999. Phát hiện mới một số di chỉ hang động trên đảo Cát Bà (Hải Phòng), trong Những phát hiện mới về Khảo cổ học 1999, Hà Nội 2000.
Trịnh Hoành Thái - Hoàng Thiệu Luân [鄭宏泰 - 黃紹倫] (2012)]. 身份认同:台,港,澳的比较. 香港大学亚洲研究中心 (trịnh hoành thái - hoàng thiệu luân (2012). Thân phần nhận đồng: Đài, Cảng, Áo đích bỉ giác. hương cảng đại học á châu nghiên cứu trung tâm. https://www.modernchinastudies.org/us/issues/past-issues/100-mcs-2008 issue (Trịnh Hoành Thái - Hoàng Thiệu Luân (2012). Bản sắc: So sánh Đài Loan, Hồng Kông và Macao. Trung tâm nghiên cứu châu Á của Đại học Hồng Kông).
Trịnh Sinh (1988). A comment on the bronze drums dícovered in Thailand. Comparative Thai-Vietnamese Archaeoloy: Culture in Metal Age. Bangkok.
Trịnh Sinh (1997). Nhân chiếc trống đồng Đông Sơn mới tìm được ở Triết Giang, Trung Quốc. Tạp chí Khảo cổ học, số 3 năm 1997.
Tylor E. (1871). Primitive Culture. Volumes 1, 2. London: John Murray. London 1871.
UNESCO (2002). Universal Declaration on Cultural Diversity - A document for the World
Summit on Sustainable Development, Johannesburg, 26 Aug. – 4 Sept. 2002. Series 1.
Uchino M. (2005). Socio-cultural History of Palempang “Songket”. In Indonesian and Malay World. Vol. 33, No. 96, July 2005.
United Nations Centre for Human Settlements (Habitat) (1992). Multilingual Glossary of Human Settlements Term, Nairobi 1992.
Uỷ ban Khoa học Xã hội Việt Nam – Viện Sử học (1976). Nguyễn Trãi Toàn tập. In lần thứ hai - có sửa chữa và bổ sung. Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
Vermeulen J. and Tony Whitten (1999). Biodiversity and Cultural Property in the Management of Limestone Resources – Lessons from East Asia, The World Bank, Washington D.C.
Viện Sử học Việt Nam (1991). Quốc triều Hình luật (Luật hình Triều Lê). Nxb. Pháp lý, Hà Nội.
Vũ Duy Mền (2002). Ngoại thương Việt Nam thế kỷ XVII-XVIII. Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế, số 292, tháng 9 năm 2002.
Vũ Duy Mền (2017). Phật giáo ở Giao Châu trong thiên niên kỷ đầu Công nguyên. Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 11 – 2017.
Wade G., (2009). The Polity of Yelang (夜郎) and the Origins of the Name ‘China’. Institute of Southeast Asian Studies, Singapore, Sino-Platonic Papers, 188 (May 2009).
Watanabe, John M. (2007). Ritual Economy and the Negotiation of Autarky and Interdependence in a Ritual Mode of Production. In Mesoamerican Ritual Economy - Archaeological and Ethnological Perspectives, Edited by E. Christian Wells and Karla L. Davis-Salazar, University Press of Colorado, Published by the University Press of Colorado.
White J.C. (1995). Incorporating Heterarchy into Theory on Socio-political Development: The Case from Southeast Asia. Heterarchy and the Analysis of Complex Societies. Archaeological Papers of the American Anthropological Association, No.6.
Whitten T., (1998). Limestone Karst of Ha Long Bay, Vietnam. Nottingham Trent University, UK.
Wolf, Eric R. (1966). Peasants. Prentice-Hall, Englewood Cliffs, New Jersey.
Yea-Wen Chen and Hengjun Lin (2016). Cultural Identities, Subject: Communication and Culture, Online Publication Date: Jul 2016. https://oxfordre.com/communication/view/
Yúdice G. (2002). Las industrias culturales: más allá de la lógica puramente económica, el aporte social, Pensar Iberoamérica. Number 1, June-September 2002, OEI.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét