Powered By Blogger

Thứ Tư, 12 tháng 2, 2025

Giá trị văn hóa của di sản Vịnh Hạ Long - Quần đảo Cát Bà (IV)

Hà Hữu Nga

3.1.3 Tạo lập truyền thống trao đổi, buôn bán đường dài trên biển với Đông Á, Đông Nam Á và Thế giới (Tiêu chí 2, 3)

Xã hội Hạ Long-Cát Bà thời tiền-sơ sử là một phức hợp gồm các nhóm làm nông – thủ công – trao đổi và khai thác. Các quá trình trao đổi không chỉ diễn ra với những xã hội khác ở vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng, với các xã hội miền núi như Mai Pha (Lạng Sơn), Hà Giang, và các xã hội Nam Trung Quốc, mà còn diễn ra trong chính các nhóm người và các điểm dân cư khác nhau giữa những người khai thác và những người làm nông; giữa những người làm nông và người làm thủ công; giữa những người thủ công và những người khai thác. Và có lẽ trung tâm của mọi trao đổi ấy đã diễn ra tập trung nhất tại khu vực sông Bạch Đằng – sông Chanh, có nghĩa là tại vùng Tràng Kênh, nơi mà các mô hình sản xuất nông nghiệp, sản xuất thủ công và thương mại đều đạt tới đỉnh điểm. Mô hình sinh thái nhân văn cửa sông – vũng vịnh – đảo ấy đã tạo dựng quyền lực cho nhóm tinh hoa làm nông – thương mại; nhóm tinh hoa thủ công – thương mại. Chính họ là những người có điều kiện thuận lợi nhất để kiểm soát các nguồn, kể cả các nguồn cho sản xuất và tiêu dùng. Nhưng có lẽ quyền lực của nhóm Tràng Kênh là lớn nhất, bởi vì đây là trung tâm trao đổi các nguồn quan trọng nhất, với lưu lượng lớn nhất. Về một phương diện nào đó, có thể nói rằng toàn bộ hoạt động của xã hội Hạ Long bị chi phối bởi trung tâm này. Nó luôn đóng vai trò là nơi phân phối hàng hóa và thông tin từ những thế giới bên ngoài vào toàn bộ vùng châu thổ sông Hồng, và quyền lợi của giới tinh hoa trong xã hội Hạ Long gắn liền với quyền lợi của giới tinh hoa vùng châu thổ. Về bản chất, mô hình Hạ Long khác với mô hình Mai Pha, Hà Giang là các xã hội định hướng làm nông, cho nên càng phát triển thì càng khan hiếm đất. Ngược lại, định hướng của xã hội Hạ Long là khai thác và trao đổi cho nên giới tinh hoa của xã hội này khao khát kiểm soát được các nguồn và các luồng thương mại đường dài. Đối với họ tri thức về sông biển và phương tiện để kiểm soát được giao thương sông biển – cụ thể là con thuyền, luôn luôn là những thúc bách hàng đầu.

Các xã hội Hạ Long-Cát Bà đã góp phần vào nền văn minh Việt cổ trước hết là: 1) Hợp phần sông biển và phương diện văn hóa mà biểu tượng của nó chính là hình ảnh con thuyền và vai trò của con thuyền trong nền văn minh Đông Sơn; 2) Đóng góp quan trọng thứ hai của họ chính là các tri thức về sông biển và những hiện tượng thiên văn liên quan đến thủy triều, mưa gió, dông bão thông qua quan sát trăng sao và lịch con nước; 3) Đóng góp quan trọng thứ ba là tri thức và kinh nghiệm thủy chiến trong lĩnh vực quân sự; 4) Có thể coi xã hội Hạ Long vừa là xã hội liên bộ lạc, vừa là tác nhân kích thích sự phát triển văn hóa – văn minh nội sinh tiền nhà nước Việt cổ từ cả các nguồn ngoại sinh; 5) Truyền thống văn hóa biển Soi Nhụ - Cái Bèo – Hạ Long, đặc biệt sau giai đoạn biển tiến Holocene Trung đã góp phần lan tỏa văn hóa trên toàn vùng Đông Nam Á Lục địa và Hải Đảo. (Hà Hữu Nga 2001b, tr.137; Hà Hữu Nga 2005, 2006).

Bước vào đầu thời đại Kim khí, toàn bộ châu thổ sông Hồng đã trở thành vùng hạch phát triển của khu vực Bắc Đông Dương - Nam Trung Quốc.  Vì vậy một loạt xã hội miền núi và ven biển, trong đó có xã hội Hạ Long - đã trở thành những cấu trúc vệ tinh của vùng hạch châu thổ. Và chính lực hướng tâm châu thổ đã tạo nên những trung tâm vệ tinh hướng về vùng hạch. Đối với trường hợp xã hội Hạ Long, trung tâm ấy chính là cửa ngõ mở vào vùng châu thổ sông Hồng, và cửa ngõ ấy không đâu khác ngoài khu vực cửa sông Bạch Đằng, một ngã ba nối các huyết mạch Cát Bà – Hạ Long – Châu thổ sông Hồng và Tràng Kênh chính là trung tâm đó. Không giống với hầu hết những mô hình vùng khác – nơi mà trung tâm của hệ thống chính là trung tâm địa lý vùng – xã hội Hạ Long lại có trung tâm nằm về cực tây của vùng về phương diện địa lý. Vị trí đó cho người ta một ấn tượng lệch. Nhưng như vậy lại thành hợp lý, bởi một lý do đơn giản là nơi đó mới có khả năng cân bằng được hệ thống sinh thái nhân văn biển Hạ Long với một hệ thống sinh thái nông nghiệp hạ lưu châu thổ bao gồm khu vực Hải Dương - Hải Phòng – Thái Bình ngày nay. Và có lẽ đó chính là hệ sinh thái nông nghiệp mà sách Giao Châu ngoại vực ký ghi nhận là “Theo nước triều lên xuống mà làm”. Đây là một bằng chứng rất quan trọng đề cập tới vai trò của xã hội Hạ Long trong hệ thống các xã hội đã góp phần tạo dựng nền văn minh Việt cổ. Như vậy chí ít Giao Châu ngoại vực ký cũng đã cho thấy xã hội Hạ Long đã đóng góp trí tuệ của mình vào nền văn minh châu thổ sông Hồng bằng tri thức khoa học của họ về chế độ thủy triều. Quan sát thủy triều là công việc của cư dân biển, trong khi đó thủy triều và các quy luật “con nước” lại gắn liền với sự chi phối của mặt trăng – cơ sở của lịch pháp phương Đông. Mặt trăng – Con nước – Thủy triều Tập quán di chuyển, kiếm ăn và sinh sản của các luồng tôm cá chính là những tri thức thường nhật của cư dân Hạ Long, ấy là chưa kể tới hiểu biết về thiên văn: xem sao, định vị, xác định phương hướng trên biển, quan sát mây, mưa, dông bão để tồn tại, trao đổi và phát triển trong môi trường biển. (Hà Hữu Nga 2001b, tr.134)

Trong giai đoạn Tiền sử muộn, của Việt Nam, cấu trúc quyền lực vùng là những thực tế - xã hội – chính trị tiền nhà nước, một bước quá độ từ chế độ dân chủ bộ lạc tiến tới một cấu trúc chính trị độc đoán tiền tư bản chủ nghĩa. Thông thường cấu trúc này tồn tại phổ biến trong mọi loại hình sinh thái nhân văn thời Sơ sử, thậm chí cả trong giai đoạn lịch sử của khu vực Đông Nam Á. Trong bối cảnh đó, quyền lực gắn liền với các đầu vào nội sinh và ngoại sinh để duy trì sự vận hành và phát triển của hệ thống. Joyce White là một trong số ít nhà nghiên cứu đã thành công trong việc xây dựng một hình thái cấu trúc quyền lực vùng cho Đông Nam Á lục địa. Theo White, đây là một xã hội phi thứ bậc, chí ít đã xuất hiện từ thiên niên kỷ II TCN. Cấu trúc của xã hội này bao gồm các mô hình sau: 1) Đa nguyên văn hóa; 2) Các nền kinh tế bản địa được đặc trưng bởi: a) Đơn vị sản xuất dựa trên cơ sở hộ; b) Cơ chế đa trung tâm cạnh tranh phân phối các loại hàng hóa riêng của từng vùng thông qua hệ thống trao đổi, buôn bán đường dài; 3) Hệ thống vị thế xã hội linh động, thiên về thành đạt quyền lực cá nhân của thủ lĩnh; 4) Giải quyết xung đột và tập trung quyền lực bằng cách liên minh, cạnh tranh – hợp tác ở trung tâm, định kỳ cố kết bằng chiến tranh, kiểm soát, chinh phục hoặc các hình thức bạo lực khác (White J., 1995: 104).

Đã có ý kiến cho rằng các hoa văn trên mặt trống đồng là một hệ thống lịch của người Việt cổ. Dù nhận định đó có không đúng chăng nữa thì việc người Việt cổ có một hệ thống lịch pháp là điều đương nhiên. Những biểu tượng chuyển động biểu kiến của mặt trời và hình ngôi sao trung tâm mặt trống, tượng cóc trên mặt trống, v.v…đã chứng tỏ rằng người Việt cổ đã quan sát thiên văn, đã ghi nhận những hiện tượng tự nhiên thành quy luật. Không thể nói rằng đó không phải là những tri thức cơ bản về lịch pháp, và thậm chí có thể nói đó chính là lịch pháp. Nếu chấp nhận giả định đề đó thì chí ít cũng là chấp nhận một nửa công lao sáng tạo lịch pháp Việt cổ thuộc về những người quan sát mặt trăng, và đó không phải ai khác ngoài những cư dân biển Hạ Long. Những mối liên hệ giữa mặt trăng – thủy triều – con nước – tập tính của tôm cá được người Hạ Long quan sát, đúc kết thành quy luật, đã cắm một cột mốc quan trọng trên con đường phát triển của xã hội Hạ Long. Đó là xã hội của những người chuyên môn hóa sản xuất đồ trang sức bằng đá quý và bán quý tại khu vực Tràng Kênh, mà chuyên môn hóa trong bất kỳ lĩnh vực sản xuất nào cũng chứng tỏ một trình độ phát triển cao của các quá trình phân công lao động. Nó làm cho mối liên hệ phụ thuộc giữa các nhóm người ngày càng cao, và đó chính là động lực thúc đẩy quá trình phát triển trao đổi đường dài của họ. (Hà Hữu Nga 2001b, tr.135) Định hướng trao đổi và thương mại đã thúc đẩy các quá trình chuyên môn hóa. Hàng loạt nghiên cứu về công xưởng chế tác mũi khoan tại di chỉ Bãi Bến, Cát Bà và công xưởng chế tác đồ trang sức tại Tràng Kênh, Hải Phòng đã cho thấy điều đó (Nguyễn Kim Dung 1996: 79, 170; Nguyễn Kim Dung, Nguyễn Đình Bướng, Bùi Thu Phương, Nguyễn Trường Đông 2001: 110; 124; Nguyễn Kim Dung 2001).

Sở dĩ chúng ta có thể xếp công việc sản xuất đồ trang sức vào lĩnh vực sản xuất hàng hóa biểu tượng cổ đại, vì đầu vào nguyên liệu và đầu vào kỹ năng sản xuất đều khan hiếm. Đặc biệt đầu vào kỹ năng đòi hỏi người thợ phải ký thác một hàm lượng trí tuệ cao để tạo thành hệ biểu tượng có ý nghĩa mà người ta có thể đọc được. Chính vì vậy, mỗi cấu phần, mỗi chi tiết của sản phẩm phải là một chữ cái, và toàn bộ sản phẩm phải là một hoặc những mệnh đề. Và như vậy, mỗi món “đồ trang sức” phải là một nhãn hiệu nhằm phân biệt các cá nhân, các nhóm người phù hợp với vai trò và vị thế xã hội của họ. Trong thời đại đó, mục đích sản xuất “đồ trang sức” không phải chỉ là để thực hiện chức năng thẩm mỹ; và sản xuất biểu tượng không phải là khu vực sản xuất thứ sinh, mà nó là một hình thức sản xuất hình ảnh vị thế xã hội, kết tinh trí tuệ nhân loại để mở màn thời đại văn minh của con người. Cùng với “đồ trang sức”, các sản phẩm gốm, đồng cao cấp, vải có hoa văn, v.v…đều có thể được xếp vào khu vực sản xuất biểu tượng, và các hệ thống biểu tượng đó chính là cơ sở để ra đời chữ viết. (Hà Hữu Nga 2001b, tr.136) Thực tế cho thấy, bản chất của sản xuất biểu tượng của xã hội Hạ Long cũng là một loại hình sản xuất các thông điệp mang thông tin, và nó là cấu phần chủ đạo của nền kinh tế tri thức cổ đại, và là loại hàng hóa uy tín cho giới tinh hoa vùng, khu vực và thế giới, đặc biệt là các vùng biển Đông Á, Đông Nam Á, Nam Á và thậm chí vươn tới cả thế giới Địa Trung Hải của Ptolemy nữa. Một trong những bằng chứng ấy chính là một địa danh nổi tiếng ở cực đông quả địa cầu đối với Thế giới Hy Lạp cổ đại là Kattigara mà cho đến giờ hầu hết các học giả trên thế giới đều thừa nhận nó nằm ở Việt Nam.   

Trong thời gian Alexander Đại đế (365-323 TCN) mở một loạt chiến dịch lớn tiến về phương Đông, đánh bại Đế quốc Ba Tư vào năm 334 TCN, chinh phục Ai Cập năm 332-331 TCN, và thiết lập nền cai trị tại Ấn Độ vào năm 326 TCN thì vùng đất sau này được gọi là China (Đất Tần - Trung Quốc) chưa có nước Tần, còn người Hy Lạp thì thực sự bắt đầu quan tâm đến các Vùng đất Chưa biết (Terra Incognita) ở Phương Đông theo đường biển. Các bộ óc lớn nhất của thế giới Hy Lạp – La Mã cổ đại như Erathostenes (276-194 TCN), Hipparchus (190-120 TCN), Strabo (63 TCN - 24 SCN), Marinus (70-130 SCN), và đặc biệt là Ptolemy đã kế tiếp nhau xây dựng bản đồ thế giới, xác định vị trí của các đất nước, các đô thị quan trọng nhất trên trái đất, trong đó có Kattigara, một địa danh được cho là thuộc cực đông của thế giới theo quan niệm Hy Lạp cổ đại. (Ptolemy K. 1885) Trong khoảng 2000 năm nay biết bao nhiêu công sức, trí tuệ, khát vọng và cả sinh mạng người đã được đánh đổi để mong tìm ra vị trí chính xác của cái đô thị đầy duyên nợ ấy, nhưng dường như Kattigara vẫn còn là một ẩn số lớn đối với người đời. Ptolemy (90-168 SCN) là một học giả cổ đại nổi tiếng, mang họ Hy Lạp sống ở thành phố Alexandria. Ông nổi tiếng với tư cách là nhà thiên văn học, toán học, và đặc biệt là nhà địa lý học, học thuyết Địa tâm gắn liền với tên tuổi ông đã thống trị thế giới cả ngàn năm dòng. Tuy nhiên di sản của Ptolemy còn lại cho đến bây giờ lại là các bản đồ phục dựng vào thế kỷ XIV-XVI, dựa trên các dữ liệu trong công trình Địa lý học của ông. Giá trị của những bản đồ này đã được thẩm định một cách nghiêm nhặt và đã cho thấy một mức độ chính xác nhất định về các con số thể hiện các tọa độ và một số địa danh được mô tả, trong đó có đô thị cổ Kattigara trong công trình của Ptolemy. (Riley T. M., 1995)

Cái tên Kattigara không phải là do Ptolemy tìm kiếm được thông tin trực tiếp và đưa vào công trình Địa lý học, mà do ông sử dụng lại từ công trình của Marinus. Có thể nói nhờ có Ptolemy thì người đời sau mới biết được vị thế và đóng góp to lớn của Marinus cho Địa lý học thế giới. Nhưng chính bản thân Marinus cũng để lại cho Ptolemy những vấn đề mà ông không giải quyết được, chẳng hạn có một cái tên Alexandros mà Marinus nói về hải trình của ông ta đến Kattigara, nhưng lại không rõ là người này có trực tiếp đến Kattigara hay ông ta phái người đi đến đó. Marinus đã sử dụng tuyến hải hành của các thương nhân hoặc nhà hải hành nào đó đã đến Kattigara, và Ptolemy đã phê phán việc xác định đó. “Vì ông nói với chúng ta rằng các khoảng cách mà một kẻ tên Maes nào đó có họ Titianus, một người Macedonian, và cũng là một thương nhân giống như cha ông ấy; đâu phải tự ông ta thực hiện cuộc hải hành mà là cử người tới buôn bán với người Seres” (Người Dâu tằm). Nhưng rất may là sau này người ta đã tìm được nguồn thông tin thứ hai mà Marinus đã sử dụng cho việc tính toán đoạn đường đến Kattigara. Nhân vật Maes Titanius chính là nhà lữ hành đã từng đi theo con đường tơ lụa trên bộ từ Địa Trung Hải tới phương Đông vào cuối thế kỷ I TCN hoặc đầu thế kỷ (Cary M. 1956: 130-134).  Cư dân ở đó được mô tả là “lễ phép, đầu tóc bờm xờm, mũi tẹt và hay ngồi xổm” (Rawlinson H. G. 1916, 133-4).

Trong số 8.000 địa danh được ông ghi chú và mô tả thì Kattigara là cái tên gắn liền với nhiều nhân vật lừng lẫy từ thời cổ đại, trong đó có Marinus, Maes Titianus và bản thân Ptolemy; các nhà thám hiểm vĩ đại thời trung đại: Cristoforo Colombo (1451-1506), Amerigo Vespucci (1454-1512), Fernand de Magellan (1480-1521); và các học giả danh tiếng thời hiện đại như Ferdinand von Richthofen (1833-1905), George Coedes (1886-1969), Édouard Chavannes (1865-1918), Louis Malleret (1901-1970) v.v...cùng với rất nhiều nhà nghiên cứu tên tuổi khác của Đông Nam Á, và của Việt Nam. Hàng trăm năm nay, người ta đã tìn kiếm Kattigara ở Nam Mỹ, Ấn Độ, Trung Quốc, Philippines, Malaysia, Campuchia và cuối cùng hầu hết các học giả đều cho rằng nó thuộc Việt Nam. Nhưng ngay tại Việt Nam thì cũng có nhiều nơi được suy đoán là đô thị Kattigara như Hà Tiên (Caverhill J. 1767), Óc Eo (Malleret 1951, 1962; Chakravarti 1972), Sài Gòn (Herrmann 1938), Hà Nội (Institute on the Far East Works 1915; Rawlinson, H. G. 1916), và đặc biệt là Hòn Gai, trung tâm của vùng di sản Hạ Long-Cát Bà. (Bình Nguyên Lộc 1971 – 2007)

Học giả Bình Nguyên Lộc đi tìm Kattigara tại vùng Vịnh Hạ Long của Việt Nam bằng cách dựa vào sự phân tích chính cái địa danh ấy bằng tiếng Việt. Vốn là người khẳng định nguồn gốc Mã Lai của người Việt, theo công thức Việt = Mã Lai, ông cho rằng: “Bắc Việt chỉ mới mất những danh từ thuần Việt là Bông, Trái, Muỗng, Ghe vào đầu đời Thanh vì lưu vong nhà Minh tràn ngập vùng đó. Thế nên không ai biết Hòn Gay là cái gì. Có lẽ đó là cái đảo mà ngày xưa là Bến Ghe thương hồ, và nó ăn khớp phần nào với Kattigara của Ptolémée, chớ Kattigara không thể là Óc Eo như ông Melleret đã viết. Kathi có thể nào là Kẻ Thị chăng? Vâng, Kẻ Thị và Kẻ Chợ cũng thế thôi. Và Kathi Gara là Kẻ Thị Gay, tức thành phố ghe thuyền, tức thương cảng. Cũng nên biết rằng Ptolémée đến nơi đó vào cuối thế kỷ thứ II SCN, thế nghĩa là ta bị Mã Viện chinh phục gần hai trăm năm rồi, và sự vay mượn danh từ Thị đã xảy ra rồi. Hoặc Katti hay Kathi là Cái Xị của Quảng Đông không chừng, vì dân cổ Tây Âu đã tràn sang đó để buôn bán vì bị trị trước và vì thạo thương mãi hơn ta. Dầu sao, không vì thế mà Kattigara lại nằm trong tỉnh Quảng Đông như có nhiều ông Tây đã nói, vì Gara không ăn vào với địa danh nào cả trừ với Gay ở Hòn Gay mà thôi. Kattigara cũng không thể là Óc Eo như ông Melleret đã viết vì ông R.A. Stein đối chiếu sự miêu tả cảnh vật của Ptolémée thì thấy nó không ăn khớp với vùng Óc Eo tí nào cả” (Bình Nguyên Lộc 1971 – 2007).

Thời đại ra đời của đô thị Kattigara cũng chính là thời đại chứng kiến sự phát triển đến đỉnh cao của nền văn minh Đông Sơn với những chiếc trống đồng nổi tiếng, chạm khắc hình ảnh những con thuyền uy nghi, theo con đường tơ lụa cổ đại trên biển và các tuyến đường sông đi khắp thế giới. Chứng cớ xa nhất về phía bắc là chiếc trống đồng “đặc sản” của Đông Sơn đã có mặt ở Triết Giang, Trung Quốc. Ngôi mộ số 10 có trống minh khí, được xác định vào thời Tây Hán, tức trùng vào thời Đông Sơn muộn (Trịnh Sinh 1997). Nhiều khả năng Điền quốc trở thành nơi cung cấp nguyên liệu đồng và trao đổi nhiều công nghệ đồng với Lạc Việt, đặc biệt là những công nghệ được người vùng Lưỡng Hà và Ấn Độ sáng tạo từ rất sớm. Bên cạnh đó Lạc Việt còn nhận được các sản phẩm và công nghệ chăn nuôi, chẳng hạn bò, dê, ngựa. Trong khi đó Lạc Việt cung cấp cho Điền các sản phẩm nông nghiệp như lúa gạo, các loại nông sản, và đặc biệt là các sản phẩm biển như đồi mồi, ngọc trai, cá, muối, tơ tằm, và nhất là nguồn tiền vỏ sò cowries của vùng biển Hạ Long v.v...Riêng nguồn hàng hóa đặc biệt này cũng có thể làm cho Lạc Việt có một vị thế không gì sánh nổi đối với Điền quốc, vì đơn giản loại sò ốc đó là vật trao đổi ngang giá, là tiền đối với một quốc gia nằm ở ngã ba đường giữa một bên là Ấn Độ ở phương Tây, một bên Trung Quốc ở phương Đông và cao nguyên Thanh Tạng ở phương Bắc. Tại Thạch Trại Sơn, nơi chôn cất các nhân vật hoàng tộc Điền, các nhà khảo cổ học đã phát hiện được một chiếc bình đồng thiếc trang trí 2 con hổ và 7 con bò, chứa vỏ sò, ốc được sử dụng làm tiền tệ, do người Điền chế tạo trong thời kỳ Tây Hán (202 TCN – 9). Những bằng chứng đó cho thấy cửa ra biển qua Lạc Việt đối với Điền quốc là có tính chất sống còn. (Hà Hữu Nga 2011a)

Ở phía bắc của Lạc Việt, từ thời Chiến quốc, thế kỷ VII TCN đã xuất hiện một nhà nước tự trị có tên gọi là Dạ Lang được cho là tổ tiên của người Di/Lô Lô. Trung tâm của nước này là xã Khả Lạc, huyện Hách Chương, tỉnh Quý Châu, Trung Quốc ngày nay. Sử ký của Tư Mã Thiên mục Tây Nam Di chí gọi nước này là 牂牁 Tường Kha và đã mô tả cuộc tấn công của 庄跤 Trang Kiệu, một tướng nước Sở vào Dạ Lang vào cuối thế kỷ IV hoặc đầu thế kỷ III TCN. Cuối thế kỷ I TCN, Dạ Lang gây chiến tranh với các quốc gia láng giềng để mở rộng lãnh thổ và quyền lực. Theo Sử ký thì Dạ Lang đã từng phát triển rất hùng mạnh, có tới 100 nghìn quân tinh nhuệ, tàu bè của người Dạ Lang đi lại trên mặt sông, quang cảnh hết sức tấp nập. Năm 136 TCN Hán Vũ đế cử Đường Mông làm Lang trung tướng dẫn 1000 binh sĩ và mấy vạn dân đem theo lương thực và công cụ sản xuất xuất phát từ Ba quận vượt qua Phù Quan (Hợp Giang, Tứ Xuyên) đến Dạ Lang. Đường Mông tuyên truyền với Chúa Dạ Lang Đa Đồng về sức mạnh của Hán triều, ban tặng của cải để Đa Đồng cho Đường Mông đặt cơ quan quản lý ở đó và cử con trai Chúa Dạ Lang làm Lệnh ở đó. Năm 130 TCN Hán Vũ đế đặt Dạ Lang thành quận huyện và mở đường từ Ba Thục thông đến sông Tường Kha. Sau khi tiêu diệt Nam Việt, nhà Hán tấn công Thả Lan, tây nam huyện Hoàng Bình, Quý Châu ngày nay, giết chết mấy vạn người, đặt thành quận Tường Kha. Chúa Dạ Lang thấy Nam Việt của nhà Triệu bị tiêu diệt liền quy thuận nhà Hán và được Vũ đế phong làm Dạ Lang vương vào năm 111 TCN (Wade G., 2009).

Về phía đông bắc Lạc Việt, văn hóa Đông Sơn cũng đã phát huy ảnh hưởng không nhỏ, đặc biệt là khu vực Lưỡng Quảng, vốn là vùng đất của tổ tiên người Tày – Thái cổ. Đây chính là vùng đệm quan trọng, giống như một dạng phên dậu phía đông bắc cho quốc gia Lạc Việt trong công cuộc ngăn cản sự đồng hóa của phương Bắc, bắt đầu từ thời Tần (221 – 206 TCN) và sau đó là nhà Tây Hán (202 TCN – 9 SCN). Nếu như Điền quốc do một người nước Sở đến tiếm quyền cát cứ khi các thế lực phương Bắc của người Hoa tranh chấp Trung Nguyên thì hệt như vậy, Quốc gia Nam Việt của Triệu Đà cũng ra đời trong bối cảnh nhà Tần và sau đó là nhà Tây Hán không đủ sức với tay trực tiếp thống trị vùng đất Bách Việt phía nam sông Dương Tử. Dù Triệu Đà có mưu lược đến mấy thì cũng phải tự mình hòa đồng với người Việt để cát cứ và buộc phải chống lại những người chủ cũ Tần Hán của mình ở Trung Nguyên. Để tranh thủ sự ủng hộ của người Việt, và có thể yên ổn cai trị Nam Việt quốc chủ yếu thuộc hai tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây ngày nay, Triệu Đà đã thi hành những chính sách hòa hoãn và mềm dẻo với người Việt, đặc biệt là với người Lạc Việt. Trên thực tế, Đà không đủ sức đánh bại được người Lạc Việt ở vùng Bắc Bộ Việt Nam ngày nay, nên mới buộc phải cho con trai là Trọng Thủy gửi rể ở cung đình của An Dương Vương tại Cổ Loa, và đến lúc lừa chiếm được Âu Lạc thì cũng chỉ để lại hai quan sứ cai quản Giao Chỉ và Cửu Chân mà thôi (Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Lương Ninh 1991).  

Đây cũng chính là thời kỳ văn hóa Đông Sơn đã có những ảnh hưởng sâu đậm đến các dân tộc trong vùng Đông Nam Á như Lào, Thái Lan, Malaysia, và Indonesia, mà đại diện là chiếc trống đồng Đông Sơn nổi tiếng. Một số trống đồng Đông Sơn tìm thấy ở sâu trong địa phận Lào như trống Đon Đét, trống Phôn Xa Vẳn, trống Huổi Hủa Xang I và II, trống Viêng Xay ở vùng mường Viêng Xay của tỉnh Sầm Nưa (Phạm Minh Huyền, Nguyễn Văn Huyên, Trịnh Sinh 1987). Tại Thái Lan đã phát hiện được 22 chiếc trống đồng Đông Sơn (Trịnh Sinh 1988: 93-102). Đó là những trống đồng tìm được trong hang Ongbah giống với trống đồng Quảng Xương, Hữu Chung (P. Sorensen 1979), trống đồng tìm thấy ở hang Thung Yang (R.B. Smith 1979). Các nhà khảo cổ cũng tìm thấy trống Đông Sơn ở Ko Samui, tỉnh Surathani, miền nam Thái Lan, chỉ cách bờ biển có 300 m. Vùng bờ biển của Malaysia cũng phát hiện được trống Đông Sơn, điển hình là hai chiếc trống Kuala Torengganu I và II ở bờ phía đông của bán đảo nước này. Vùng Kampon Sungai Lang cũng tìm được 2 trống Đông Sơn cùng được chôn ngửa trong một vò gốm. Đặc biệt ở vùng quần đảo Indonesia phát hiện khá nhiều trống đồng Đông Sơn trên các đảo, điển hình như trống Xiandua, đảo Java. Đảo này còn có nhóm trống Somarang, trống Dieng. Trên đảo Sumbava có nhóm trống Sanghi gồm 6 chiếc trống Đông Sơn. Trên các đảo Roti, Salayar và nhiều đảo nhỏ khác cũng tìm thấy khá nhiều trống Đông Sơn. Quần đảo Kai, gần Irian Jaya, có lẽ là vùng tìm thấy trống đồng Đông Sơn xa nhất về phía đông mang dấu tích giao lưu văn hoá. Trống đồng Đông Sơn có mặt ở quần đảo này muộn hơn, có thể vào khoảng 200 năm trước Công Nguyên (Trịnh Sinh 1997).

Sau thời đại các vua Hùng-Thục, dấu ấn giao lưu, trao đổi, buôn bán với thế giới Đông Á còn thấy rất rõ trên vùng Hạ Long – Cát Bà, mà trung tâm là thương cảng Vân Đồn. Tại thôn Đá Bạc, xã Minh Châu, huyện Vân Đồn đã phát hiện được một khu mộ của một gia đình thương nhân nhà Hán, hiện vật gồm hàng loạt thể loại hàng hóa uy tín như đồ đồng, đồ vàng bạc, chuỗi hạt, đá quý, đồ gốm sứ. (Đỗ Văn Ninh 2004, tr.96-101) Đặc biệt là trong mộ còn phát hiện được một chậu đồng mà ở phần đáy có trang trí hoa văn giống hệt trống đồng Đông Sơn phát hiện tại thôn Hữu Chung, xã Hà Thanh, huyện Tứ Kỳ có niên đại khoảng 2.300-2.100 năm trước. Sử sách nước ta còn ghi: Kỷ tỵ năm thứ mười đời vua Lý Anh Tông (1149), thuyền buôn ba nước Trảo Oa, Lộ Lạc, Xiêm La vào Hải Đông xin ở lại buôn bán, bàn cho lập trang ở Vân Đồn để mua bán hàng quý, dâng tiến sản vật địa phương. (Ngô Sĩ Liên, 1967, tr. 281)

Từ đó Vân Đồn chính thức trở thành thương cảng lớn của nước Đại Việt, trang Vân Đồn trở thành đơn vị hành chính cấp cuối cùng trong hệ thống hành chính cấp địa phương. Vì lý do an ninh quốc gia, Nhà Lý quy định, tàu thuyền nước ngoài đến nước ta giao thương đều phải cập cảng Vân Đồn, không được tiến sâu vào nội địa. Thương nhân thường đem tới ngọc dạ quang, vải vóc, lụa là. Đến thời nhà Trần, cư dân ở Vân Đồn phần lớn đều theo nghề buôn bán. Nguồn thu nhập, việc ăn uống, may mặc đều dựa vào khách buôn ngoại quốc. Vụ buôn nón Ma Lôi của Trần Khánh Dư vừa thể hiện rõ tư duy thương nghiệp của giới quý tộc Trần, vừa chứng tỏ sức mua, sự giàu có của các thương nhân ngoại quốc và cả các nhóm cư dân, thương nhân Việt. Để bảo vệ an ninh, ông đã yêu cầu cư dân Vân Đồn phải đội nón Việt. Do đấy, người trong trang nối gót tranh nhau mua nón, ban đầu mua mỗi chiếc không quá một tiền, sau giá đắt, bán mỗi chiếc nón trị giá một tấm vải. Số vải thu được tới hàng nghìn tấm. Nguồn hàng trao đổi ở Vân Đồn thường là ngọc trai, vải vóc, đồ sứ. (Nguyễn Văn Kim, 2023, tr.85)

Hàng hóa thương nhân ngoại quốc mua của nước ta chủ yếu là trầm hương, ngọc trai, ngà voi, vỏ quế, sừng tê giác, vàng, bạc, đồng, diêm tiêu, hải sản. Thời nhà Trần (1225-1400), thị trường hương liệu thế giới sôi động, việc phát minh ra con đường hàng hải xuyên biển từ Trung Quốc đến Ai Cập đã đẩy nhịp độ buôn bán quốc tế phát triển mạnh hơn. Buôn bán ở thương cảng Vân Đồn tấp nập, mở rộng với nhiều nước như Nhật Bản, Trung Quốc, Nhật Bản, Philippines, các nước Đông Nam Á, Nam Á, Hoàng Hải và vùng Địa Trung Hải. Việc trấn giữ, quản lý ngoại thương vùng Vân Đồn được vua Trần giao cho các thân vương, đại thần trọng chức. Nổi bật trong số đó là Nhân huệ vương Trần Khánh Dư. Lúc này Vân Đồn được bảo vệ chặt chẽ. Rào gỗ được dựng lên quanh những nơi buôn bán và bãi biển xung yếu của đảo. Không chỉ mở rộng về địa giới hành chính, Vân Đồn từ trang được nâng lên thành một trấn, lập vào thời Trần Dụ Tông (1345), thuộc lộ Hải Đông, sau đổi là lộ An Bang. (Nguyễn Thị Phương Chi, Nguyễn Tiến Dũng 2007, tr.27; Nguyễn Tiến Dũng 2010; Nguyễn Thị Phương Chi 2013). Ngoài việc buôn bán, các vua Trần còn cho xây dựng nhiều chùa tháp với quy mô lớn như chùa Lấm, chùa Trong, chùa Cát, Bảo Tháp… ở xã Thắng Lợi để đáp ứng nhu cầu tôn giáo cho cư dân và khách buôn nước ngoài sùng bái đạo Phật. (Đỗ Văn Ninh 1971; Hán Văn Khẩn, 2003; Nguyễn Ngọc Chất và các cộng sự 2009; 2010).

Thời Hậu Lê (1428-1527), triều đình quy định rất rõ hoạt động ở thương cảng Vân Đồn trong bộ Quốc triều hình luật, còn gọi là luật Hồng Đức. Chương Tạp luật với 92 điều, trong đó có một số điều dành riêng cho các vấn đề liên quan đến Thương cảng Vân Đồn. Điều 60 của Tạp luật ghi: “Các quan ty vô cớ mà đi riêng ra những trang ngoài Vân Đồn các trấn ngoài quan ải thì bị xử tội đồ hay lưu; thưởng cho người tố cáo, tước một tư.” Điều 61: “Những quân lính các trấn ven biên giới cùng các trang vùng duyên hải mà giấu giếm chở người nước ngoài vào kinh thành thì xử biếm năm tư; không có quan chức thì xử tội đồ, làm chủng điền binh, và phạt tiền 100 quan; thưởng cho người tố cáo một phần ba. Quan trông coi và chủ trang vô tình không biết thì xử biếm một tư.” Điều 62: “Những trang trại ven bờ bể mà đón tiếp thuyền buôn, ngầm dỡ hộ hang hóa lên bờ, thì xử biếm bat ư, phải phạt gấp ba tang vật để sung công; lấy một phần thưởng cho người tố giác. Nguồi chủ trang trại ấy mất chức giám trang.” Điều 63: “Người ở trang Vân Đồn chở hàng hóa Trung Quốc lên kinh thành mà không có giấy của An Phủ ty cấp cho, khi đến bến Triều Đông lại không để cho Đề bạc ty kiểm soát đã đem đi bán lén lút, cùng là khi về không có giấy của Đề bạc ty cấp cho; đến chỗ Thông mậu (nơi buôn bán trao đổi hang hóa với người nước ngoài), trường lại không đến cho An Phủ ty kiểm soát, mà đã về thẳng trang thì đều phải biếm một tư và phạt tiền 100 quan”. Điều 64: “Thuyền bè ngoại quốc đến trang Vân Đồn buôn bán mà quan Sát Hải sứ (khám xét hàng) đi riêng ra ngoài cửa bể kiểm soát trước thì xử biếm một tư. Thuyền buôn ấy muốn đậu lại lâu thì trang chủ phải làm giấy trình An Phủ ty làm bằng mới được ở lại; nếu tragn chủ không trình mà tự ý cho ở lại thì xử biếm hai tư và phạt tiền 200 quan; thưởng cho người tố cáo một phần ba. Nếu chứa những người ngoại quốc chưa đủ tuổi theo luật đã định thì xử biếm một tư, và phạt tiền 50 quan; thưởng cho người tố cáo cũng một phần ba.” (Viện Sử học Việt Nam 1991, tr. 210, 211)       

Đến thời nhà Mạc (1527-1677), với chính sách mở cửa về thương mại, hoạt động ngoại thương tại thương cảng Vân Đồn lại hưng thịnh, đặc biệt là loại mặt hàng gốm sứ. Thuyền buôn Trung Hoa, Đông Nam Á và phương Tây thường xuyên qua lại biển Đông. Dưới thời Mạc, nhiều lò gốm sứ đã được mở ở vùng ven biển Quảng Ninh, Hải Phòng để phục vụ xuất khẩu. Trong những năm qua, khảo sát hệ thống thương cảng Vân Đồn tại các bến bãi cổ ven biển từ Móng Cái về Yên Hưng, các nhà khảo cổ đã phát hiện nhiều đồ gốm, nhất là gốm sành, tiền có niên đại thời Mạc. So với đồ gốm sành thời Trần thường to, dày thì gốm sành thời Mạc mỏng hơn, độ nung cao hơn. Tại một số nơi như chùa Quỳnh Lâm, tháp mộ sư phía sau chùa Hoa Yên, Yên Tử ngày nay còn có dấu vết trùng tu của thời Mạc với các mảng kiến trúc trang trí hoa văn lá đề, men xanh lục đặc trưng. Nhà Mạc còn cho xây dựng chùa ở Vụng huyện, xã Thắng Lợi, xây thành lũy ở Cẩm Phả, Hoành Bồ để phòng thủ đất nước.  (Vũ Duy Mền 2002; Nguyễn Văn Kim 2010) Thời Lê trung hưng (1533-1789), hoạt động giao thương ở Vân Đồn vẫn được phát triển. Ngoài việc buôn bán, nhà Lê còn quan tâm xây dựng đình làng để làm nơi sinh hoạt văn hoá tâm linh cho cư dân biển đảo như đình Cái Làng, đình Cống Cái, xã Quan Lạn. Nhìn chung, từ cuối thế kỉ XVI đầu thế kỉ XVII, với sự chuyển giao quyền lực từ triều Mạc sang triều đình Lê-Trịnh, cửa ngõ thông thương của Đại Việt tiếp tục dịch chuyển từ Dương Kinh xuống vùng cửa sông Thái Bình. Như vậy là, chỉ trong vòng khoảng một trăm năm dưới triều Mạc và triều Lê-Trịnh, cửa ngõ thương mại chính yếu của quốc gia Đại Việt đã liên tục chuyển dịch xuống phía nam: từ Vân Đồn (thế kỉ XII – XVI) qua Dương Kinh (thế kỉ XVI) xuống vùng cửa sông Thái Bình (thế kỉ XVII – khoảng thế kỉ XIX). Bên cạnh đó, việc triều Mạc và Lê-Trịnh từng bước nới lỏng chính sách đối với ngoại thương, đồng thời cho phép thương nhân nước ngoài lưu trú và buôn bán tại các khu vực nội địa như Phố Hiến, Thăng Long cũng làm suy giảm vai trò của một số trung tâm buôn bán ven biển. (Hoàng Anh Tuấn 2008a; 2008b)

_______________________________________

(Còn nữa…)

Nguồn: Hà Hữu Nga (2024). Giá trị văn hóa của di sản Vịnh Hạ Long - Quần đảo Cát Bà. Kỷ yếu Hội thảo Khoa học Nhận diện, đánh giá những giá trị văn hóa tiêu biểu, độc đáo trên vịnh Hạ Long. UBND Tỉnh Quảng Ninh – Ban Quản lý Vịnh Hạ Long tổ chức ngày 30 tháng 10 năm 2024.

Tài liệu dẫn

Alipio A. J. Paul (2006). Natural Resource Conflicts in the Philippine Cordillera Mountains. La Trinidad, Benguet, Philippines. Cordillera Conservation Trust, Philippine.

Arnold M. (1889). Culture and anarchy an essay in political and social criticism. Edition: Popular ed View all formats and editions, Publisher: Smith, Elder, London, 1889.

Boas, Franz (1887). Museums of Ethnology and their classification. Published in Science 9: 589.

Beck L. & Cable T.T (1998). Interpretation for 21th Century. Fifteen Guiding Principles for interpreting Nature and Culture, Sagamore Publishing, Champaign, Il.

Beck, L & Cable, T.T (2011). The Gifts of Interpretation: Fifteen Guiding Principles for Interpreting Nature and Culture, Sagamore Pub.

Bellwood, P. (1984,1985). A hypothesis for Austronesian origins. In Asian Perspectives No. 26 (1: 107­-117).

Bellwood P. 2004. First Farmers – The Origins of Agricultural Societies. Blackwell Publishing.

Bennett, J. (2001). Natural Heritage Valuation Methods: Applications to Cultural Heritage’ in Heritage Economics: Challenges for Heritage Conservation and Sustainable Development in the 21st Century, Australian Heritage Commission, Australia.

Bình Nguyên Lộc 1971-2007. Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam. Chương V: Dấu vết Mã Lai trong xã hội Việt Nam ngày nay. Bách Bộc xuất bản, Sài Gòn 1971. Bản điện tử do talawas thực hiện ngày 13/10/2007.

Blust, Robert (1984,­1985). The Austronesian homeland, a linguistic perspective.  In Asian Perspectives No. 26(1):45­67.

Boas, Franz 1963 [1911]. The Mind of Primitive Man New York: Collier Books. page 149.

Boas, Franz (1996). The Study of Geography. In Volksgeist as Method and Ethic: Essays on Boasian Anthropology and the German Anthropological Tradition. J. George W. Stocking, ed. Pp. 9-17. History of Anthropology, Volume 8. Madison, WI and London, UK: University of Wisconsin Press. 

Bock P.K. (1969). Modern Cultural Anthropology – An Introduction. Alfred A. Kroff, New York.

Bourdieu, Pierre (1977). Outline of a Theory of Practice. Cambridge: Cambridge University Press.

Boyd, R., & Richerson, P. J. (1985). Culture and the evolutionary process. University of Chicago Press.

Bùi Vinh – Trần Trọng Hà (1999). Hòn Ngò (Quảng Ninh), trong Những phát hiện mới về Khảo cổ học 1999, Hà Nội 2000.

Burger, J., Kirchner, M., Bramanti, B., Haak, W., & Thomas, M. G. (2007). Absence of the lactase-persistence-associated allele in early Neolithic Europeans. Proceedings of the National Academy of Science, 104, 3736–3741.

Callon, Michel (1986). Some elements of a sociology of translation: Domestication of the scallops and the fishermen of Saint Brieuc Bay. In Power, Action and Believ: A New Sociology of Knowledge, edited by J. Law, pp. 196-233. Routledge and Kegan Paul, London.

Callon, Michel and Bruno Latour (1991). Collins, Harry and Steven Yearley 1992 Epistemological Chicken. In Science as Practice and Culture, edited by Andrew Pickering, pp. 301-326. University of Chicago Press, Chicago.

Cao Huy Đỉnh 1969. Người anh hùng làng Dóng. Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.

Cao Xuân Hạo (2004). Song Viết là gì? Vài luận cứ nhỏ cho một vấn đề vẫn tồn nghi. Tạp chí Ngôn ngữ, số1, năm 2004, tr. 53 – 60.

Cary, Max (1956). Maes, Qui et Titianus. In The Classical Quarterly, New Series, 6.3/4 (July–October 1956), pp. 130–134.

Cavalli-Sforza, L. L., & Feldman, M. W. (1981). Cultural transmission and evolution: A quantitative approach. Princeton: Princeton University Press.

Caverhill, John 1767. Some Attempts to ascertain the utmost Extent of the Knowledge of the Ancients in the East Indies. In Proceedings of the Royal Society of London; Philosophical Transactions, vol.57, 1767, pp.155-174. Publisher: Royal Society of London.

Chakravarti Adhir K. 1972. Early Sino-Indian Maritime Trade and Fu-Nan, D.C. Sircar (ed.), Early Indian Trade and Industry, Calcutta, University of Calcutta Centre of Advanced Study in Ancient Indian History and Culture,Lectures and Seminars, no.VIII-A, part I, 1972, pp.101-117.

Coedès, George (1968). The Indianized States of Southeasts Asia.  Honolulu: East­West Center Press.

De Rhodes A. (1991). Từ điển Annam – Lusitan – Latinh (Thường gọi là Từ điển Việt – Bồ - La). Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.

De Sausure F. 1973. Giáo trình ngôn ngữ học đại cương. Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.

Dumbraveanu D., Ana Craciun, and Anca Tudoricu (2016). Principles of interpretation, tourism and heritage interpretation – The experience of Romanian museums. In Human Geographies, Vol. 10, No. 1, May 2016.

Durham, W. H. (1991). Coevolution: Genes, culture, and human diversity. Stanford: Stanford University Press.

Đào Duy Anh (1938, 1998). Việt Nam Văn hóa Sử cương. Nxb. Đồng Tháp.

Đào Duy Anh (1962; 2005). Sự cần thiết chỉnh lý tài liệu trong công tác nghiên cứu và phiên dịch. Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 37, tháng 4, 1962; in lại trong Đào Duy Anh – Nghiên cứu Văn hóa và Ngữ văn, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội 2005, tr. 211-229.

Đinh Văn Tuấn. (2011). Giải mã bí ẩn SONG VIẾT: SONG VIẾT chính là chiết tự của chữ XƯƠNG. Tạp chí Ngôn ngữ, số 3/2011. tr.58- 71.

Đoàn Ngọc Phan, (1975). Phải chăng song viết, song kiết là song cát. Tạp chí Văn học, số 2-1975, Hà Nội.

Đỗ Văn Hỷ (1967). Góp phần giải quyết những tồn nghi trong “Quốc âm Thi tập”. Tạp chí Văn học, số 6-1967, Hà Nội.

Đỗ Văn Ninh (1968). Khai quật hang Soi Nhụ, Quảng Ninh, trong Nghiên cứu Lịch sử, số 117 – 12 – 1968. 

Đỗ Văn Ninh (1971). Báo cáo khai quật chùa Lấm trên đảo Thừa Cống, Cẩm Phả (Quảng Ninh). Tư liệu của Viện Khảo cổ học, Hà Nội.

Đỗ Văn Ninh (2004). Thương cảng Vân Đồn – Sách tham khảo Khảo cổ học. Nxb. Thanh niên, Hà Nội.

Fribourg Group (2007). Fribourg Declaration on Cultural Rights. (Document for UNESCO) organized by The Interdisciplinary Institute of Ethnics and Human Rights at The Fribourg University.

Friedmann, JR. (1966). Regional Development Policy – A Case Study of Venezuela. MIT Press, Cambridge.

Friedmann, JR (1967). A General Theory of Polarized Development, mimeo, Santiago, Chile, August.

Friedmann, JR (1968). The Role of Cities in National Development, mimeo, Santiago, Chile, February.

Gaillard, Jean­ Christophe and Joel P. Mallari (2004). The peopling of the Philippines: A cartographic synthesis.  Hukay 6 1­27.

Geertz, Clifford (1973). Religion as a Cultural System. In The Interpretation of Cultures, by C. Geertz, pp. 87-125. Basic Books, New York.

Glazer, Mark (1994). Cultural Relativism. Texas: University of Texas-Pan American.

Guangdong Science and Technology Press (1993). The collection of antiquities from silk road on South China Sea.

Gudeman, Stephen and Chris Hann (2015). Introduction: Ritual, Economy and the Institutions of the Base. In Economy and Ritual - Studies of Postsocialist Transformations, Edited by Stephen Gudeman and Chris Hann, Published by Berghahn Books.

Hà Hữu Nga (1982, 1985) Thời đại đá mới Việt Nam và một Mô hình Tổng quát. (Viết cho Hội thảo kỷ niệm năm mươi năm văn hóa Hòa Bình năm 1982, sau đó công bố trong  Những phát hiện mới về Khảo cổ học Việt Nam năm 1984 (Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1985) 

Hà Hữu Nga (1996). Bản sắc Dân tộc và Phát triển. Tư liệu của Trung tâm Nghiên cứu và Tư vấn về Phát triển, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam.  

Hà Hữu Nga (1997). Có một nền văn hóa Soi Nhụ tại khu vực Vịnh Hạ Long, trong Những phát hiện mới về Khảo cổ học 1997, Hà Nội 1998.

Ha Huu Nga (1998). Relationships between the Soi Nhu and Ha Long cultures. Paper presented in the 16th Congress of the Indo-Pacific Prehistory Association, Melaka, Malaysia 1 – 7th, July 1998.

Hà Hữu Nga – Nguyễn Văn Hảo (1998). Hạ Long thời Tiền sử, Nxb. Thế giới – Ban Quản lý Vịnh Hạ Long, Hà Nội.

Hà Hữu Nga (1999a). Hạ Long lịch sử. Ban Quản lý Vịnh Hạ Long, Quảng Ninh.

Hà Hữu Nga (1999b). Văn hóa Soi Nhụ - Một cội nguồn của ngữ hệ Malayo-Polynesian. Đề tài khoa học Xây dựng Bảo tàng Sinh thái Vịnh Hạ Long - Ban Quản lý Vịnh Hạ Long năm 1999. Tp Hạ Long, Quảng Ninh.

Hà Hữu Nga (2000). Soi Nhụ Nền văn hóa cổ nhất hiện biết trên vịnh Hạ Long. Kỷ yếu Hội thảo Vịnh Hạ Long – 5 năm Di sản Thế giới, do Uỷ ban Nhân dân tỉnh Quảng Ninh – Bộ Văn hóa Thông tin và Uỷ ban Quốc gia UNESCO của Việt Nam tổ chức tại thành phố Hạ Long tháng 4 năm 2000.

Hà Hữu Nga (2001a). Văn hóa Bắc Sơn. Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.

Hà Hữu Nga (2001b). Khảo cổ học Đông Bắc Việt Nam từ những hệ thống sinh thái nhân văn tới các cấu trúc xã hội tiền nhà nước. Bài tham gia Hội nghị Quốc tế “Một thế kỷ khảo cổ học Việt Nam". Viện Khảo cổ học thuộc Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia tổ chức tại Hà Nội. Đăng lại trong: Viện Khoa học Xã hội Việt Nam – Viện Khảo cổ học (2004), Một thế kỷ Khảo cổ học Việt Nam, Tập I, Nxb. KHXH, Hà Nội, tr. 117-139.

Hà Hữu Nga (2003). Trần Nhân Tông trong viễn cảnh Nhân học Phật giáo. Kỷ yếu Hội thảo Khoa học quốc gia Thân thế và sự nghiệp Trần Nhân Tông (1258 - 1308), ĐHKH Huế, Tp. Huế, tháng 12-2003.

Hà Hữu Nga (2004). Văn hóa Hạ Long và Quá trình Hình thành Nhà nước Việt Cổ: Tiếp cận Khảo cổ học Nhận thức. Bài viết cho Bảo tàng Quảng Ninh - Đề tài khoa học "Nghiên cứu văn hoá Hạ Long, đề xuất một số giải pháp bảo tồn và phát huy", Tp. Hạ Long, Quảng Ninh 2004.

Hà Hữu Nga (2005). Khảo cổ học cộng đồng - đề xuất nghiên cứu di chỉ Ba Vũng (Hạ Long, Vân Đồn, Quảng Ninh). Tạp chí Khảo cổ học, Số 6 (138) (XI-XII), 2005

Hà Hữu Nga (2006). Văn hóa Soi Nhụ - một cội nguồn của ngữ hệ Nam Đảo. Trong Những phát hiện mới về Khảo cổ học 2005. Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội 2006.

Hà Hữu Nga (2008). Đô thị và Vùng kinh tế. Bài viết cho Đề tài cấp Bộ Nghiên cứu cơ sở lý thuyết cho việc xác định các ưu tiên trong phát triển bền vững vùng kinh tế, Viện Phát triển Bền vững vùng Bắc Bộ, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, do tác giả làm Chủ nhiệm. 

Hà Hữu Nga (2010). Phân tích các bên liên quan trong các Dự án lớn và các Chương trình Trợ giúp Phát triển. Ngân hàng Thế giới, Tài liệu Hướng dẫn được chuẩn bị theo yêu cầu của World Bank - Ngân hàng Thế giới tại Hà Nội, và tác giả trực tiếp tham gia tập huấn điểm cho các bên liên quan tại các tỉnh Lào Cai, Cao Bằng, Hải Phòng, Quảng Nam, Gia Lai, Kiên Giang năm 2010.

Hà Hữu Nga (2011a). Kattigara – Kinh đô huyền thoại Việt. Bài viết cho Đề tài Quan điểm và giải pháp phát triển nhanh và bền vững đô thị vùng Bắc Bộ giai đoạn 2011 – 2020. Đề tài Khoa học cấp Bộ, Viện Phát triển Bền vững vùng, Viện Hàn lâm KHXHVN.

Hà Hữu Nga (2011b). Song Viết – Tiếng ngọc lụa reo trong những cốt cách thanh cao. https://dzunglam.blogspot.com/2011/11/ 

Hà Hữu Nga (2011c). Hải Phòng - phát triển trong viễn cảnh mạng thành phố toàn cầu. Kỷ yếu Hội thảo Xây dựng và Phát triển thành phố Hải Phòng nhanh – bền vững giai đoạn 2011-2025: Vấn đề và Giải pháp. Liên hiệp các hội KH&KT Hải Phòng, tháng 10/ 2011.

Hà Hữu Nga (2012). Phù Đổng – Cội nguồn sức mạnh Việt. Tạp chí Văn hóa Nghệ An, Số 212& 213, năm 2012 và Số 214-10-2, năm 2012. 

Hà Hữu Nga (2015a). Hình tượng Man Nương, hệ thống Tứ pháp và cái được biểu đạt siêu việt. Kỷ yếu Hội thảo Khoa học Vùng văn hóa Luy Lâu và công tác phát triển ngành Du lịch ở Bắc Ninh, Liên hiệp các hội KH&KT tỉnh Bắc Ninh và UBND huyện Thuận Thành, tháng 9 năm 2015. 

Hà Hữu Nga (2015b). Đô thị và vùng kinh tế. Tạp chí Phát triển bền vững vùng, Số 3 (9/2015).

Hà Hữu Nga (2015c). Văn hóa như một hệ giá trị phát triển cơ bản. Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu, Số 7 (178), 2015.

Hà Hữu Nga (2020). Tự quản cộng đồng như một loại hình hành động xã hội trong xây dựng Nông thôn mới bền vững ở Việt Nam. Tạp chí Nghiên cứu Con người, số 2 (107) 2020, tr. 40-51.

Hà Hữu Nga (2021). Tiếp cận lễ hội truyền thống từ lý thuyết văn bản. Tạp chí Văn hóa học, Số 6 (58)-2021.

Hà Hữu Nga (2022). Đô thị động lực và các động lực đô thị hóa. Bài tham gia Hội thảo Khoa học Đô thị Động lực và Phát triển Du lịch Sinh thái Văn hóa. Viện Nghiên cứu Ứng dụng Văn hóa và Du lịch, Hà Nội tháng 12 năm 2022.

Hà Hữu Nga (2023a). Khảo cổ học Tôn giáo: Siêu việt - Nội tại và Nghi lễ. Kỷ yếu Hội thảo Khoa học Khảo cổ học Tôn giáo – Nghi lễ, Đại học KHXH&NV-ĐHQGHN, Hà Nội 2023.

Hà Hữu Nga (2023b). Kinh tế nghi lễ - Nội hàm Khái niệm và gợi ý Ứng dụng cho Lễ hội Đền Bảo Hà. Kỷ yếu Hội thảo Khoa học Thần vệ quốc Hoàng Bẩy – Bảo Hà: Công tác Quản lý và Phát huy Giá trị Di tích Lịch sử, Bảo Yên, Lào Cai ngày 26/8/2023 do UBND huyện Bảo Yên tổ chức, tr.71-86.

Hà Hữu Nga (2023c). Kinh tế Nghi lễ và Xã hội Truyền thống người Dao. Kỷ yếu Hội thảo Khoa học Vận dụng Lý thuyết Nhân học, Tôn giáo học Đương đại trong Nghiên cứu Nghi lễ người Dao. Viện Nghiên cứu Ứng dụng Văn hóa - Du lịchĐại học Thái Nguyên-Phân hiệu Lào Cai  tổ chức, Hà Nội 29/12/2023. Tr. 25-49. 

Hà Hữu Nga (2024). Bản sắc tộc người và Kinh tế sáng tạo Hộ gia đình Dân tộc thiểu số vùng núi phía Bắc. Hội thảo Khoa học Phát huy bản sắc văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số trong phát triển kinh tế hộ gia đình vùng núi phía Bắc”. Khoa Kinh tế - Du lịch, Phân hiệu Đại học Thái Nguyên tại tỉnh Lào Cai, tháng Tư năm 2024.

Hà Văn Tấn (1970). Nghiên cứu thời đại các vua Hùng, hiện trạng và triển vọng. Trong Quản lý Văn vật, số 19, Hà Nội, tr.64.

Hà Văn Tấn (1974a). Từ gốm Phùng Nguyên đến trống đồng. Trong Khảo cổ học, số 13, Hà Nội.

Hà Văn Tấn (1974b). Đóng góp vào lịch sử một kiểu khuyên tai. Trong Khảo cổ học, số 15, Hà Nội.

Hà Văn Tấn (1982). Trống đồng cổ loa, di chỉ Đình Tràng và Văn minh sông Hồng. Trong Phát hiện Cổ Loa, Sở Văn hóa Thông tin Hà Nội, Hà Nội.

Hamilton R. W. (ed.) (1998). From the Rainbow's Varied Hue: Textiles of the Southern Philippines. Fowler Museum of Cultural History, University of California at Los Angeles.

Hán Văn Khẩn, chủ trì (2003). Báo cáo khai quật di tích Cống Tây (Quảng Ninh). Tư liệu của Khoa Lịch sử, Trường ĐH KHXH & NV (ĐHQG Hà Nội)

Hardenberg R. (2014). Ritual Economy and Ritual Resource - Some General Remarks. Summerschool “Ritual as Resource”, Tübingen University.

Haudricourt A.G. (1960). Note sur les dialects de la resgion de Moncay, BEFEO, tome L; fasc.1; p.172.

Hawkes, Jon (2001). The Four Pillar of Sustainability - Culture’s essential role in public planning. Common Ground Publishing Pty Ltd in association with the Cultural Development Network (Vic).

Herrmann, Albert 1938. Der Magnus Sinus und Cattigara nach Ptolemaus. Compte-rendu du Congrès international de géographie (Amsterdam).

Heshmat, S (2015). Ten Common Myths About Emotions (and Why They're Wrong), Psychology Today, Sussex Publishers LLC, United Kingdom.

Hoàng Anh Tuấn (2008a). Vị trí của Việt Nam trong hệ thống thương mại Biển Đông thời cổ trung đại, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, Hà Nội, 9-10/2008, tr. 1-16.

Hoàng Anh Tuấn  (2008b). Vùng duyên hải Đông Bắc trong chiến lược thương mại của người phương Tây thế kỷ XVII. Kỷ yếu Hội thảo khoa học: Thương cảng Vân Đồn: Lịch sử, tiềm năng kinh tế và các mối giao lưu văn hóa, Quảng Ninh, 7/2008, tr. 327-349.

Hoàng Xuân Chinh, Nguyễn khắc Sử (1973). Báo cáo khai quật di chỉ Cái Bèo, đảo Cát Bà, Hải Phòng, năm 1973. Tư liệu Viện Khảo cổ học.

Hoàng Xuân Chinh (1999). Công cụ cuội ghè đẽo vùng duyên hải và hải đảo Đông Bắc, trong Những phát hiện mới về Khảo cổ học 1999, Hà Nội 2000.

Institute on the Far East Works (1915). Note II. Extracts from the Geography of PtolemyVol. I. Second Series No. XXXVII. Issued for 1915 by Society Cathay and the Way thither 1915. Liberary of Wellesley College Presented by Institute on the Far East Works, (Ptolemy K. 1915).

Keynes, John Maynard (1923). A Tract on Money In Reformation. MacMillan and Co., Limited St Martins’ Street, London 1924, pp.80-82.

Kim, Y. Y. (2007). Ideology, identity, and intercultural communication: An analysis of differing academic conceptions of cultural identity. Journal of Intercultural Communication Research, 36(3), 237–253.

Laffan, Michael 2005. Finding Java: Muslim nomenclature of insular Southeast Asia from Śrîvijaya to Snouck Hurgronje. Asia Research Institute, Working Paper Series No. 52. Princeton University.

Latour, Bruno (1993). We Have Never Been Modern. London: Harvester.

Latour, Bruno (1999a). On Recalling ANT. In Actor Network Theory and After edited by J. Law and J. Hassard, pp. 15-25. Oxford: Blackwell.

Latour, Bruno (1999b). For David Bloor . . . and Beyond: A Reply to David Bloor's Anti-Latour. Studies in the History and Philosophy of Science 30(1):81-112.

Latour, Bruno (2005). Reassembling the Social: An Introduction to Actor-Network-Theory. Oxford; New York: Oxford University Press.

Latour, Bruno (1988). The Pasteurization of France. Harvard University Press, Cambridge.

Latour, Bruno (1993). We Have Never Been Modern. London: Harvester.

Latour, Bruno (1999a). On Recalling ANT. In Actor Network Theory and After edited by J. Law and J. Hassard, pp. 15-25. Oxford: Blackwell.

Latour, Bruno (1999b). For David Bloor . . . and Beyond: A Reply to David Bloor's Anti-Latour. Studies in the History and Philosophy of Science 30(1):81-112.

Latour, Bruno (2005). Reassembling the Social: An Introduction to Actor-Network-Theory. Oxford; New York: Oxford University Press.

Law, John (1986). On the Methods of Long Distance Control: Vessels, Navigation and the Portuguese Route to India. In Power, Action and Belief: A New Sociology of Knowledge? edited by J. Law, pp x-x. Routledge and Kegan Paul, London.

Law, John and John Hassard (eds.) (1999). Actor Network Theory and After. Oxford: Blackwell.

Lê Hữu Mục (1996). Song viết là Sàng vạt. Vietnamologica, số 2-1996 – Trung Tâm Việt Nam Học Canada.

Lê Mạnh Thát (1999). Nghiên cứu về Thiền Uyển Tập Anh, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh.

Lê Mạnh Thát (2003). Lịch sử Phật giáo Việt Nam, T.1, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh.

Lê Minh Khai (Liam Kelly Christopher) (2010). Bản Sắc and Identity. https: leminhkhai.wordpress.com/ Lê Minh Khai (Liam Kelly Christopher)  (2013). Nghiên cứu từ Kẻ của Trần Kinh Hòa vào năm 1950. Bản dịch của Hà Hữu Nga, posted in https://leminhkhaiviet.wordpress.com

Lịch Đạo Nguyên (chú), Dương Thủ Kính, Hùng Hội Trinh (sớ), Đoàn Hy Trọng (điểm hiệu), Trần Kiều Dịch (phúc hiệu) 2005. Thủy Kinh chú sớ. Nxb. Thuận Hóa, Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, (Bản dịch của Nguyễn Bá Mão).

Lorek, Maria (2015).  Des pôles de croissance vers des systèmes d'innovation territorialises dans une « nouvelle » économie de marche : le cas de Gdansk (Pologne). Dans Marché et organisations 2015/1 (N° 22), pages 35 à 61.

Lưu Trần Tiêu, Trịnh Căn (1983). Khai quật di chỉ Cái Bèo (Hải Phòng). Thông báo khoa học, số 1/1983. Viện Bảo tàng Lịch sử Việt Nam.

Lưu Tỳ, Nguyễn Thế Tiệp, Nguyễn Tứ Dần,...(1985). Đặc điểm địa mạo thềm lục địa Việt Nam và các vùng lân cận, trong Khảo cổ học, số 2 – 1985.

Malleret L. 1951. Les fouilles d’Oc-Eo (1944). Rapport préliminaire, BEFEO 1951.

Malleret L. 1962. L’Archéologie du delta du Mékong, Tome Troisiéme, La culture du Fu-nan, Paris, 1962, chap.XXV, “Oc-Èo et Kattigara”, pp.421-54.

Mankiw, N. G. (2000). The Savers–Spenders Theory of Fiscal Policy, American Economic Review 90(2): 120–125.

Maraña M. (2010). Culture and Development Evolution and Prospects. UNESCO Etxea. Working Papers. No. 1.

Marx, Karl (1956a). Kritik der politischen Ökonomie, In Marx-Engels-Werke, (MEW), Berlin 1956ff.

Marx, Karl (1956b). Deutsche Ideologie, In Marx-Engels-Werke, (MEW), Berlin 1956ff.

Marx, Karl (1962). Das Kapital. Kritik der politischen Ökonomie. Erster Band. Buch I: Der Produktionsprozeß des Kapitals. In: Institut für Marxismus-Leninismus beim ZK der SED (Hrsg.): Karl Marx Friedrich Engels Werke (MEW). Band 23. Dietz Verlag, Berlin 1962.

Mauss, Marcel (1990). The Gift: The Form and Reason for Exchange in Archaic Societies. Translated [1925] by W. D. Halls. W. W. Norton, New York.

McAnany, Patricia A., and E. Christian Wells (2008). Towards a Theory of Ritual Economy. In Dimensions of Ritual Economy, edited by E.C. Wells and P.A. McAnany, pp. 1–16. Emerald Group Publishing Limited, Bingley, UK.

Mourato, S. & Mazzanti, M. (2002). Economic Valuation of Cultural Heritage: Evidence and Prospects. In Assessing the Values of Cultural Heritage, The Getty Conservation Institute, Los Angeles.

Ngô Đức Thịnh (2007). Văn hóa dân gian và văn hóa dân tộc, đăng trên Tạp chí Cộng sản (http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Nghiencuu-Traodoi/2007/2441/Van-hoa-dan-gian-va-van-hoa-dan-toc.aspx, posted 26/2/2007).

Ngô Sĩ Liên (1967). Đại Việt sử ký Toàn thư, T.I, Hà Nội.

Nguyễn Công Hoan (1974). Song viết hay song kiết, song viết. Tạp chí Văn học, số 5. Hà Nội. 

Nguyễn Hồng Phong (1963). Tìm hiểu tính cách dân tộc. Nxb. Khoa học.

Nguyễn Khải Hoàn 2011. Tục kết chạ ở các làng cổ ven song Cầu: Kim Thượng Trâu Lỗ sắt son một lời thề. http://cema.gov.vn/modules.php?name.

Nguyễn Khắc Sử (2005). Khảo cổ học vùng duyên hải Đông Bắc Việt Nam. NXB Khoa học Xã hội 2005.

Nguyễn Kim Dung (1996). Công xưởng và kỹ thuật chế tạo đồ trang sức bằng đá thời đại đồng thau ở Việt Nam. Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.

Nguyễn Kim Dung, Nguyễn Đình Bướng, Bùi Thu Phương, Nguyễn Trường Đông (2001). Khai quật Bãi Bến (Đảo Cát Bà, Hải Phòng). Trong Những phát hiện mới về Khảo cổ học năm 2000, tr.110-111.

Nguyễn Ngọc Chất, Vũ Quốc Hiền, Lê Ngọc Hùng (2008). Nghiên cứu Hệ thống di tích thương cảng Vân Đồn thực trạng và những vấn đề. Thông báo Khoa học của Bảo tàng Lịch sử Quốc gia, tr.129-143.

Nguyễn Ngọc Chất và các cộng sự (2009). Báo cáo kết quả Điều tra, thám sát và khai quật di tích Bảo Tháp (Vân Đồn, Quảng Ninh) năm 2009. Tư liệu của Bảo tàng Lịch sử Quốc gia, Hà Nội

Nguyễn Ngọc Chất và các cộng sự (2010). Báo cáo kết quả Điều tra, thám sát và khai quật di tích Bảo Tháp (Vân Đồn, Quảng Ninh) lần thứ 2 - năm 2010. Tư liệu của Bảo tàng Lịch sử Quốc gia, Hà Nội.

Nguyễn Phú Trọng (2021). Bài phát biểu tại chỉ đạo tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc ngày 24 tháng 11 năm 2021. Hà Nội.

Nguyễn Tài Cẩn (1974, 1985). Thử tìm cách đọc nôm hai chữ «song viết». Tạp chí Văn học, số 2 năm 1974; Đăng lại trong Một số vấn đề về chữ Nôm, Nxb. Đại học và Trung học Chuyên nghiệp, Hà Nội 1985, tr. 181-209. 

Nguyễn Tài Cẩn (1975, 1985). Bàn thêm về “song viết? song biết? song kiết?. Tạp chí Văn học, số 6. 1975 ; Đăng lại trong Một số vấn đề về chữ Nôm, Nxb. Đại học và Trung học Chuyên nghiệp, Hà Nội 1985, tr. 210-227. 

Nguyễn Tài Cẩn (2005). Xin trở lại vấn đề Song Viết. Trong Tập biên khảo về Khoa học xã hội và nhân văn Từ Đông sang Tây do Cao Huy Thuần, Nguyễn Tùng, Trần Hải Hạc, Vĩnh Sính chủ biên. Nxb. Đà Nẵng, Tp. Đà Nẵng 2005. 

Nguyễn Tài Cẩn (2011). Xin trở lại vấn đề SONG VIẾT. http://vanhoanghean.com.vn/chi-tiet-tin-tuc/2076-xin-tro-lai-van-de-song-viet

Nguyễn Thị Phương Chi, Nguyễn Tiến Dũng. (2007). Về các mối giao thương của quốc gia Đại Việt thời Lý - Trần (thế kỷ XI-XIV). Nghiên cứu Lịch sử. Số 7.

Nguyễn Thị Phương Chi (2013). Chiến lược phòng thủ đất nước qua hệ thống thái ấp thời Trần (Thế kỷ XIII-XIV). Nghiên cứu Lịch sử. Số 2 (442).

Nguyễn Thị Phương Thảo (2015). Văn hóa vùng biển đảo Quảng Ninh (Qua nghiên cứu các lễ hội truyền thống). Luận án Tiến sĩ Văn hóa học, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội.

Nguyễn Thị Tâm (2018). Quản lý di tích và lễ hội đình Giang Võng, phường Hà Khánh, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh. Luận văn Thạc sĩ Quản lý Văn hóa khóa 5 (2016-2018), Trường Đại học Sư phạm Nghệ thuật Trung ương.

Nguyễn Tiến Dũng (2010). Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư và những hoạt động ở Vân Đồn nửa cuối thế kỷ XIII. Di tích lịch sử - văn hóa thương cảng Vân Đồn. Nxb. Khoa học xã hội.

Nguyễn Trãi (1976). Nguyễn Trãi Toàn tập. Uỷ ban Khoa học Xã hội Việt Nam – Viện Sử học. In lần thứ hai có sửa chữa và bổ sung. Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.

Nguyễn Trường Đông (2001). Mũi khoan ở di chỉ Bãi Bến (Đảo Cát Bà, Hải Phòng). Trong Những phát hiện mới về Khảo cổ học năm 2000, tr.124-127.

Nguyễn Văn Huyên 1938, 1996a. Hội Phù Đổng (Một trận đánh thần kỳ trong truyền thuyết Việt Nam-1938). Góp phần nghiên cứu văn hóa Việt Nam, tập II, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr.7-26.

Nguyễn Văn Huyên 1938, 1996b. Hát và múa Ải Lao ở hội Phù Đổng (Bắc Ninh). Trong Góp phần nghiên cứu văn hóa Việt Nam, tập II, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr.45-68.

Nguyễn Văn Kim (2010). Kinh tế công thương thời Mạc. Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 12, năm 2010.

Nguyễn Văn Kim (2023). Thương cảng quốc tế Vân Đồn tiềm năng vị thế và các quan hệ vùng liên vùng. Tạp chí Khoa học xã Hội Việt Nam, Số 6 (186), 2023.

Oberai A. S. 1993. Population growth, employment and poverty in thirdworld mega-cities: analytical and policy issues. New York: St. Martin's Press, xv-224 p.

Pagiola, S. (1996). Economic Analysis of Investments in Cultural Heritage: Insights from Environmental Economics, World Bank Staff Paper, Washington DC.

Perroux, François (1955). Note sur la notion de pole de croissance? In Économie appliquée Année 1955,  pp. 307-320.

Perroux, François (1967). Note sur la ville considérée comme pôle de développement et comme foyer du progress. In Revue Tiers Monde Année 1967, No. 32, pp. 1147-1158.

Peterson George E., G. Thomas Kingsley and Jeffrey P. Telgarsky 1991. Rethinking the Role of Urban Areas in National Economic Development. In Urban Economies and National Development, editedby George E. Peterson, G. Thomas Kingsley and Jeffrey P. Telgarsky, Policy Research Series, USAID Washington, D. C., 1991, Chapter 1, pp. 5-21.

Phạm Đình Hổ (1989). Vũ trung tùy bút. Dựa theo bản dịch của Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Quảng Tuân khảo đính và chú thích. Nxb. Trẻ - Hội Nghiên cứu Giảng dạy Văn học TP. Hồ Chí Minh. Tp. Hồ Chí Minh.

Phạm Minh Huyền, Nguyễn Văn Huyên, Trịnh Sinh 1987. Trống Đông Sơn. Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội.

Phan Huy Chú (1992). Lịch triều Hiến chương Loại chí. Tập II: Lễ nghi chí, Khoa mục chí, Quốc dụng chí, Hình luật chí. Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.

Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Lương Ninh 1991. Lịch sử Việt Nam, tập 1, NXB Đại học và Giáo dục Chuyên nghiệp.

Phan Ngọc (1994). Văn hóa Việt Nam và cách tiếp cận mới, Nxb Văn hóa Thông tin.

Ptolemy K. (1885). Ancient India as described by Ptolemy. Translated by J.W. McCrindle, Publisher: Trübner.

Quốc hội (2022). Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở. Luật số: 10/2022/QH15, Hà Nội, ngày 10 tháng 11 năm 2022.

Rappaport, Roy A. (1979). Ecology, Adaptation, and the Ills of Functionalism. In Ecology, Meaning, and Religion, by R. A. Rappaport, pp. 43-95. North Atlantic Books, Richmond, California.

Rappaport, Roy A. (1984). Pigs for the Ancestors: Ritual in the Ecology of a New Guinea People. 2nd edition. Yale University Press, New Haven, Connecticut.

Rappaport, Roy A. (1999). Ritual and Religion in the Making of Humanity. Cambridge Studies in Social and Cultural Anthropology No. 110. Cambridge University Press, Cambridge, UK.

Rawlinson, H. G. 1916. Intercourse between India and the Western World from the Earliest Times to the Fall of Rome. Cambridge : University Press, 1916. - vi, [2].

Ricker, William (1982). Liberalism against Populism: A Confrontation between the Theory of Democracy and the Theory of Social Choice. San Francisco: W. H. Freeman.

Riley T. M. (1995). Ptolemy’Use of his Predecessors’ Data. Transactions of the American Philosophical Association 125 (1995) 221 – 225, California State University, Sacramento.

Robbins L. (1932) An Essay on the Nature and Significance of Economic Science, London: Macmillan.

Rodgers S., Anne Summerfield, John Summerfield (2007). Gold Cloths of Sumatra: Indonesia’s “Songkets” from Ceremony to Commodity. Leiden: KITLV Press, Holland.

Rypkema, Donovan (2009). The Economics of Heritage, http://www.unescobkk.org/. 

Sahlins, Marshall (1972a). The Domestic Mode of Production: The Structure of Underproduction. In Stone Age Economics, by M. Sahlins, pp. 41-99. Aldine Publishing Company, New York.

Sahlins, Marshall (1972b). The Domestic Mode of Production: Intensification of Production. In Stone Age Economics, by M. Sahlins, pp. 101-148. Aldine Publishing Company, New York

Santiago,  L. Quindoza (2009). Many Stories, One Journey: Literary translation in the Philippines. University of Hawaii at Manoa, C&E Publishing.

Sarkar H.B. (1981). A geographical introduction to South-East Asia: The Indian perspective. Bijdragen tot de Taal-, Land- en Volkenkunde (hereafter BKI) 137-2/3 (1981): 293-323.

Solheim II, Wilhelm G. (2006). Origins of the Filipinos and their Languages. Nineth Philippine Linguistics Congress (25­27 January 2006). Organized by the Department of Linguistics, University of the Philippines.

Short, J.R., Y. Kim, M. Kuus and H. Wells (1996). The Dirty Little Secret of World Cities Research: Data problems in Comparative Analysis. International Journal of Urban and Regional Research, 20:4, 697-717.

Sở Văn hoá và Thể thao Quảng Ninh (2016). Hồ sơ di tích lịch sử đình Giang Võng. Tp. Hạ Long, Quảng Ninh.

Spencer-Oatey, H. (2012). What is culture? A compilation of quotations. GlobalPAD Core Concepts.

Summerfield A., Summerfield J., ed., (1999). Walk in splendor-ceremonial dress and the Minangkabau. Los Angeles, UCLA Fowler Museum of Cultural History 1999.

Super R. H. (1965). Culture and Anarchy with Friendship's Garland and Some Literary Essays, Volume V of The Complete Works of Matthew Arnold, The University of Michigan Press, 1965.

Tacoli, Cecilia (1998). Rural-urban interactions: a guide to the literature. In Environment and Urbanization, Vol. 10, No. 1, April 1998.

Thích Gia Quang (2024). Yên Tử trong sự nghiệp đoàn kết, xây dựng và phát triển đất nước. Tạp chí Nghiên cứu Phật học, Số tháng 1/2024.

Throsby, T. (1997). Seven Questions in the Economics of Cultural Heritage. In Hutter, M. and Rizzo, I. (eds) Economic Perspectives on Cultural Heritage, MacMillan Press, London.

Tilden F., (1967). Interpreting Our Heritage, University of North Carolina Press.

Trần Ngọc Thêm (2009). Giá trị và sự chuyển đổi hệ giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam. Báo cáo trình bày tại Hội thảo khoa học Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam trong quá trình đổi mới và hội nhập”, do Khoa Văn hóa học (Trường ĐH KHXH&NV – ĐHQG TP.HCM) phối hợp với Ban chủ nhiệm Đề tài  KX. 03.14/06-10 (Chương trình KX.03/06-10) tổ chức ngày 17-18/9/2009 tại Biên Hòa, Đồng Nai.

Trần Quốc Vượng (1974). Vài suy nghĩ tản mạn về trống đồng. Trong Khảo cổ học, số 14, Hà Nội, tr. 71-81.

Trần Quốc Vượng (1993). Mấy nét khái quát lịch sử cổ xưa về cái nhìn về biển của Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 1, 1993.

Trần Quốc Vượng (1996). Mấy ý kiến về trống đồng và Tâm thức Việt cổ. Trong Theo dòng lịch sử - Những vùng đất, thần và tâm thức người Việt. Nxb. Văn hóa, Hà Nội, tr 39-65.

Trần Quốc Vượng 2000. Việt Nam và biển Đông, Tạp chí Văn hoá dân gian, số 3(71), 2000.

Trần Trọng Kim (2011). Việt Nam Sử Lược, Nxb.Văn Học

Trần Văn Giàu (1980). Giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội.

Trần Văn Giáp, Phạm Trọng Điềm (1956). Quốc âm thi tập, trong "Ức Trai di tập" - phiên âm chú giải, Nxb. Văn Sử Địa, H., 1956.

Trình Năng Chung, Nguyễn Kim Dung, Nguyễn Gia Đối, Lê Minh Tâm 1999. Phát hiện mới một số di chỉ hang động trên đảo Cát Bà (Hải Phòng), trong Những phát hiện mới về Khảo cổ học 1999, Hà Nội 2000.

Trịnh Hoành Thái - Hoàng Thiệu Luân [鄭宏泰 - 黃紹倫] (2012)]. 身份认同:,,澳的比较. 香港大学亚洲研究中心 (trịnh hoành thái - hoàng thiệu luân (2012). Thân phần nhận đồng: Đài, Cảng, Áo đích bỉ giác. hương cảng đại học á châu nghiên cứu trung tâm. https://www.modernchinastudies.org/us/issues/past-issues/100-mcs-2008 issue (Trịnh Hoành Thái - Hoàng Thiệu Luân (2012). Bản sắc: So sánh Đài Loan, Hồng Kông và Macao. Trung tâm nghiên cứu châu Á của Đại học Hồng Kông).

Trịnh Sinh (1988). A comment on the bronze drums dícovered in Thailand. Comparative Thai-Vietnamese Archaeoloy: Culture in Metal Age. Bangkok.

Trịnh Sinh (1997). Nhân chiếc trống đồng Đông Sơn mới tìm được ở Triết Giang, Trung Quốc. Tạp chí Khảo cổ học, số 3 năm 1997.

Tylor E. (1871). Primitive Culture. Volumes 1, 2. London: John Murray. London 1871.

UNESCO (2002). Universal Declaration on Cultural Diversity - A document for the World

Summit on Sustainable Development, Johannesburg,  26 Aug. – 4 Sept. 2002. Series 1.

Uchino M. (2005). Socio-cultural History of PalempangSongket”. In Indonesian and Malay World. Vol. 33, No. 96, July 2005.

United Nations Centre for Human Settlements (Habitat) (1992). Multilingual Glossary of Human Settlements Term, Nairobi 1992.

Uỷ ban Khoa học Xã hội Việt Nam – Viện Sử học (1976). Nguyễn Trãi Toàn tập. In lần thứ hai - có sửa chữa và bổ sung. Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.

Vermeulen J. and Tony Whitten (1999). Biodiversity and Cultural Property in the Management of Limestone Resources – Lessons from East Asia, The World Bank, Washington D.C.

Viện Sử học Việt Nam (1991). Quốc triều Hình luật (Luật hình Triều Lê). Nxb. Pháp lý, Hà Nội.

Vũ Duy Mền (2002). Ngoại thương Việt Nam thế kỷ XVII-XVIII. Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế, số 292, tháng 9 năm 2002.

Vũ Duy Mền (2017).  Phật giáo ở Giao Châu trong thiên niên kỷ đầu Công nguyên. Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 11 – 2017.

Wade G., (2009). The Polity of Yelang (夜郎) and the Origins of the Name ‘China’. Institute of Southeast Asian Studies, Singapore, Sino-Platonic Papers, 188 (May 2009).

Watanabe, John M. (2007). Ritual Economy and the Negotiation of Autarky and Interdependence in a Ritual Mode of Production. In Mesoamerican Ritual Economy - Archaeological and Ethnological Perspectives, Edited by E. Christian Wells and Karla L. Davis-Salazar, University Press of Colorado, Published by the University Press of Colorado.

White J.C. (1995). Incorporating Heterarchy into Theory on Socio-political Development: The Case from Southeast Asia. Heterarchy and the Analysis of Complex Societies. Archaeological Papers of the American Anthropological Association, No.6. 

Whitten T., (1998). Limestone Karst of Ha Long Bay, Vietnam. Nottingham Trent University, UK.

Wolf, Eric R. (1966). Peasants. Prentice-Hall, Englewood Cliffs, New Jersey.

Yea-Wen Chen and Hengjun Lin (2016). Cultural Identities, Subject: Communication and Culture, Online Publication Date: Jul 2016. https://oxfordre.com/communication/view/

Yúdice G. (2002). Las industrias culturales: más allá de la lógica puramente económica, el aporte social, Pensar Iberoamérica. Number 1, June-September 2002, OEI.

 

 

 

 

 

 

 

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét