Powered By Blogger

Thứ Năm, 15 tháng 9, 2022

Chủ nghĩa Lịch sử: Lịch sử và Ý nghĩa Thuật ngữ (I)

Georg G. Iggers

Người dịch: Hà Hữu Nga

[Tr.129] Trong vài năm gần đây, một số lượng đáng kể sách và bài báo đã xuất hiện ở Đức, Hoa Kỳ và Ý về chủ đề chủ nghĩa lịch sử. Tuy nhiên, không có sự nhất trí nào trong khối văn liệu ấy về ý nghĩa của thuật ngữ này.1 Do đó, ba cuộc thảo luận rất khác nhau đã được tiến hành đồng thời, theo đuổi các chủ đề khác nhau và chỉ đôi khi giao nhau. Một số tác phẩm đã đề cập đến cái gọi là “cuộc khủng hoảng của chủ nghĩa lịch sử” trong bối cảnh cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Ở đây, chủ nghĩa lịch sử đã bị đồng nhất với tương đối luận và mất niềm tin vào các giá trị của văn hóa phương Tây hiện đại. Tương đối luận này đã được coi là một khía cạnh thường trực của đời sống trí tuệ trong các điều kiện của thế giới hiện đại. Một khối văn liệu rất khác đã xác định chủ nghĩa lịch sử hẹp hơn với quan điểm và thực hành sử học của học thuật thế kỷ XIX và trong phạm vi khoa học nhân văn thế kỷ XX. Cuối cùng, thuật ngữ “Chủ nghĩa Lịch sử Mới” đã được các nhà phê bình văn học và văn hóa ở Mỹ sử dụng gần đây trong một bối cảnh vẫn còn khác. Trong bài tiểu luận này, tôi sẽ giới hạn vào việc kiểm tra tài liệu về hai cách sử dụng đầu tiên của thuật ngữ ấy.

Lịch sử thuật ngữ

[tr.130] Việc sử dụng thuật ngữ chủ nghĩa lịch sử Historismus đầu tiên tôi có thể tìm được, xuất hiện trong một tập hợp các ghi chú rời rạc về ngữ văn mà Friedrich Schlegel đã ghi lại vào năm 1797. Ở đây thuật ngữ này mang một số ý nghĩa sau đấy của nó. Đối với Schlegel, “chủ nghĩa lịch sử [sic] của Winkelmann” đã đưa đến một “kỷ nguyên mới” trong triết học khi công nhận “tính khác biệt vô hạn” (den unermesslichen Unterschied) và “tính chất hoàn toàn độc đáo của thời Cổ đại.” Trái ngược với Winckelmann, các “triết gia đắc nhân tâm” của thế kỷ mười tám đã bóp méo đặc tính của thời cổ đại bằng cách chồng lên nó các quan niệm triết học. Schlegel cảnh báo chống lại một “quan điểm [Ansicht] lý thuyết, nhưng phi lịch sử...[k]hông có bất kỳ tham chiếu nào đến những con người cụ thể [Ohne alle persönliche Indikationen].”2 Vào năm sau, Novalis sử dụng thuật ngữ Chủ nghĩa lịch sử theo chiều hướng liệt kê rất hỗn tạp đủ loại phương pháp (hóa học, toán học, nghệ thuật, v.v. của Fichte, của Kant), nhưng không gán cho nó một ý nghĩa rõ ràng.3

Thuật ngữ Historismus thỉnh thoảng được sử dụng ở Đức trong hai phần ba đầu thế kỷ XIX, ví dụ, L.Feuerbach,4 C.J. Braniss,5 I.H.Fichte6 (con trai của J.G.Fichte), và Carl Prantl,7 với một ý nghĩa không khác với Schlegel đã sử dụng. Historismus biểu thị một định hướng lịch sử thừa nhận tính cá nhân trong “không gian-thời gian cụ thể” của nó (Prantl), như Trường phái Quy luật Lịch sử (Savigny và Eichhorn) theo đuổi, khác biệt với chủ nghĩa kinh nghiệm định hướng-thực kiện (Factum) cũng như với triết học xây dựng-hệ thống về lịch sử theo cách thức Hegel (Haym)8 mà bỏ qua thực tính. Karl Werner, trong cuốn sách năm 1879 về Giambattista Vico,9 đã nhìn thấy cốt lõi của quan điểm lịch sử chủ nghĩa trong quan niệm của Vico cho rằng tâm trí con người không biết thực tại nào khác ngoài lịch sử: lịch sử được con người tạo ra, và do đó phản ánh ý định của con người, tức là, ý nghĩa. Còn tự nhiên, không được con người tạo ra, nên không hề phản ánh ý nghĩa nào có thể hiểu theo cách này. Do đó, chủ nghĩa lịch sử bị ràng buộc chặt chẽ với một hình thức nhất định của chủ nghĩa duy tâm nhận thức luận [tr.131], báo trước lập trường sau này của Croce10và Collingwood11cho rằng lịch sử luôn liên quan đến tư tưởng, nghĩa là đến các ý nghĩa phải được hiểu rõ.

Từ những giả định này, một lý thuyết về tri ​​thức lịch sử được các nhà tư tưởng theo khuynh hướng lịch sử vào thế kỷ 19 tạo hình, dù họ không thực sự sử dụng thuật ngữ này. Trường phái Lịch sử Đức, phát triển trong các đại học của thế kỷ 19, đã được xác lập dựa trên những giả định này.12 Leopold Ranke đã phân biệt rất sớm giữa cái mà ông gọi là cách tiếp cận lịch sử với cách tiếp cận triết học. Lập luận của ông là trong khi triết học tìm cách quy giản thực tại thành một hệ thống hy sinh những phẩm chất độc đáo của thế giới lịch sử, thì lịch sử lại chọn cách để hiểu được về cái chung thông qua việc đắm mình trong cái riêng.13 Tuy nhiên, có một mối quan hệ họ hàng giữa cái thế giới mà Hegel và Ranke đã nhìn nhận. Cả hai đều giả định một sự cố kết ẩn giấu đằng sau thế giới hiện tượng. Trong khi Ranke nhấn mạnh cần thiết tiến hành từ việc tái thiết mang tính phê phán các sự kiện tạo thành lịch sử, thì ông cũng tin rằng ngoài việc tái thiết quá khứ này, wie es eigentlich gewesen thực ra thì, các lực lượng vĩ đại đã định hình lịch sử cũng sẽ trở nên rõ ràng.14 Đối với ông, mỗi cá nhân cũng như mỗi thể chế siêu cá nhân to lớn, dù là các nhà nước, quốc gia, nhà thờ hay các nền văn hóa, đều tạo thành một tổng thể có ý nghĩa cụ thể phù hợp với nền kinh tế rộng lớn hơn của ý chí thần thánh.15 Do đó, mục đích của nghiên cứu lịch sử không bị vét kiệt bởi công việc tái thiết tự sự về một quá khứ có thật mà bao gồm việc nắm bắt sự gắn kết bao quát phù hợp với quá khứ đó.16

Những ý tưởng ngẫu nhiên này trong các tiểu luận và bài giảng của Ranke đã được thể hiện nghiêm ngặt hơn trong các phiên bản khác nhau của Lịch sử nước Anh của Droysen sau năm 1857 và trong đánh giá phê bình năm 1861 tập đầu Lịch sử nước Anh của Henry Thomas Buckle. Giả định mối liên hệ giữa các cá nhân là những tổng thể có ý nghĩa cấu thành thế giới lịch sử và lịch sử theo nghĩa rộng hơn, Droysen đã tìm cách xây dựng các nguyên tắc cho một khoa học về lịch sử [tr.132], mà đặc tính khoa học của nó bao gồm việc vượt khỏi bằng chứng được thiết lập bởi cuộc kiểm tra mang tính phê phán đối với các nguồn sử liệu để hiểu được tính cố kết của lịch sử. Tuy nhiên, việc hiểu được tính cố kết đó không phải thông qua logic quy nạp hoặc diễn dịch của khoa học tự nhiên mà thông qua cái được Droysen gọi là “diễn giải”.17 Điều đó giả định rằng nhà sử học đã nghiên cứu các thực thể có khả năng hiểu được bởi vì chúng bao hàm các tập hợp ý nghĩa. Vì vậy, đối với Droysen cũng như đối với Wilhelm von Humboldt, Savigny, hay Ranke, lịch sử là một khoa học tường giải.18 Dẫu sao nó cũng là một khoa học.

Wilhelm Dilthey và sau ông là các nhà triết học Tân-Kantians (Kant-Mới) của trường phái Freiburg, Wilhelm Windelband và Heinrich Rickert, đặt ra cho mình nhiệm vụ thiết lập lịch sử và Geisteswissenschaften các khoa học nhân văn hoặc Kulturwissenschaften nghiên cứu văn hóa là khoa học nghiêm ngặt trong cách tiếp cận của họ như khoa học tự nhiên nhưng bằng một lôgic khảo sát đã thừa nhận rằng họ đòi hỏi các phương pháp có khả năng diễn giải ý nghĩa bao hàm trong lịch sử và văn hóa.19 Sự phân biệt rạch ròi mà Dilthey và các Tân-Kantians đã thực hiện giữa các khoa học nhân văn và khoa học tự nhiên hơn là giữa lịch sử và triết học phản ánh thay đổi mà các khoa học tự nhiên đã trải qua kể từ nửa đầu thế kỷ 19, khi chúng vẫn hoạt động có tính ẩn dụ và lịch sử với phép loại suy sinh học và hữu cơ.20

Nếu chủ nghĩa lịch sử được hiểu là có một ý nghĩa về cơ bản tích cực như vậy, với tư cách là một triển vọng đặc biệt thích hợp cho việc nghiên cứu thế giới xã hội và văn hóa, thì nó lại đánh mất điều đó một khi giả định cơ bản về tính cố kết nền tảng của lịch sử bị đặt vấn đề. Điều này xảy ra rất sớm trong kinh tế học khi một số nhà lý thuyết kinh tế, Eugen Duhring (1866), Carl Menger (1884), và Adolf Wagner (1892),21 tấn công cách tiếp cận lịch sử đối với kinh tế học của Trường phái Lịch sử Kinh tế học (Wilhelm Roscher, Karl Knies và Gustav Schmoller). Giờ đây, họ sử dụng thuật ngữ này theo nghĩa phủ định để chỉ trích việc từ bỏ lý thuyết trong kinh tế học và sự nhầm lẫn giữa lý thuyết kinh tế với lịch sử kinh tế.

Một thách thức cơ bản hơn đối với tư tưởng lịch sử chủ nghĩa lạc quan xảy ra trong số các nhà tư tưởng chấp nhận các tiền đề nhận thức luận cơ bản của chủ nghĩa lịch sử - và ngày càng sử dụng thuật ngữ này - nhưng lại từ bỏ niềm tin vào tính cố kết [tr.133] của tiến trình lịch sử và cùng với nó là niềm tin của họ vào phẩm chất của văn hóa phương Tây hiện đại. Tư tưởng của các nhà lịch sử chủ nghĩa từ Ranke vào những năm 1830 đến Friedrich Meinecke trong những năm 1930 có mối quan hệ nước đôi với ý tưởng về tiến bộ. Một mặt, ý tưởng về tiến bộ là không thể chấp nhận được từ quan điểm của những người nhấn mạnh rằng mọi thời đại phải được nhìn nhận theo khuôn khổ riêng của nó, “trực tiếp với Chúa,”22 nhưng mặt khác, những người như Ranke và Droysen, cũng tin tưởng sâu sắc như Hegel về trạng thái vững chắc của văn hóa phương Tây hiện đại, hoặc như Meinecke, về phẩm chất độc đáo của văn hóa Đức.

Ernst Troeltsch giờ đây đã nói về “Cuộc khủng hoảng của chủ nghĩa lịch sử” (Krisis des Historismus).23 Troeltsch chấp nhận chủ nghĩa lịch sử như một cách tiếp cận học thuật hợp lệ đối với thực tại văn hóa, nhưng vẫn tin rằng nghiên cứu lịch sử, không phải là chiếc chìa khóa để tiếp thu được văn hóa, đã từng bước cho thấy tính tương đối và do đó tính không hợp lệ của các giá trị và niềm tin của Văn hóa phương Tây. Nhưng chủ nghĩa lịch sử, sự thừa nhận rằng tất cả các ý tưởng và giá trị của con người đều có điều kiện lịch sử và có thể thay đổi, đã trở thành thái độ áp đảo, không thể tránh khỏi của thế giới phương Tây trong thế kỷ 19 và 20. Đối với Karl Mannheim, nó đã trở thành chính điều kiện của tồn tại hiện đại.24 Chủ nghĩa lịch sử giờ đây là một phần của quá trình trí thức hóa và bừng tỉnh mà Max Weber đã nói.25 Tuy nhiên, Mannheim xem nó không phải là kết quả của nghiên cứu khoa học mà là của biến đổi xã hội của thế giới hiện đại với sự phá hủy các chuẩn mực truyền thống.

Cuộc thảo luận về tính tương đối của các giá trị lịch sử đã được Friedrich Nietzsche khởi xướng - mặc dù ông không sử dụng thuật ngữ này trong bài tiểu luận của mình về Vom Nutzen und Nachteil der Historie für das Leben (1874), Lợi ích và Bất lợi của Lịch sử đối với Cuộc sống,26 trong đó ông đả phá nghiên cứu học thuật lịch sử như nó đã được phát triển trong giới học thuật hàn lâm Đức vì tính không liên quan và tác động làm tê liệt hành động con người của nó. Đối với phần lớn nền văn hóa tư sản thế kỷ XIX, lịch sử đã trở thành chiếc chìa khóa để hiểu con người, nhưng đối với Nietzsche, một mặt dường như không có lối ra nào cho lịch sử và mặt khác lịch sử không có ý nghĩa khách quan. Troeltsch, một nhà thần học được đào tạo, đã phải đối mặt với tình huống khó xử này trong Tính tuyệt đối của Cơ đốc giáo và Lịch sử Tôn giáo - Die Absolutheit des Christentums und die Religionsgeschichte (1902),27 trong đó ông nhận ra rằng nghiên cứu lịch sử về Cơ đốc giáo đã phá hủy tuyên bố Cơ đốc giáo là một tôn giáo chân chính [tr.134], và chỉ ra tính đa nguyên của niềm tin.

Nhưng Troeltsch không muốn từ bỏ đức tin Cơ đốc cũng như niềm quyến luyến với văn hóa phương Tây của ông. Đối với ông, có hai cách thoát khỏi tình thế khó xử này, cả hai cách đều không thuyết phục về mặt trí tuệ: một, điều mà Troeltsch bác bỏ, là từ bỏ cách tiếp cận học thuật lịch sử đối với việc nghiên cứu tôn giáo và văn hóa. Các nhà thần học Tin lành, trong số đó có Albrecht Ritschl,28 đã chọn cách này khi nhấn mạnh rằng tôn giáo chỉ dựa vào đức tin. Karl Barth và các nhà thần học về khủng hoảng, Rudolf Bultmann, Friedrich Gogarten, và Reinhold Niebuhr ở Mỹ, đã đi xa hơn. Kết hợp việc nhấn mạnh về tha tính hoàn toàn của Thiên Chúa với một cái nhìn cực kỳ bi quan về bản chất con người và về tiến trình lịch sử, họ phủ nhận các giá trị của nền văn hóa tư sản hiện đại vốn đã hình thành nên một cấu phần chủ chốt trong chủ thuyết Kulturprotestantismus Tin lành Văn hóa của Troeltsch.29

Troeltsch đã chọn cách giải quyết “cuộc khủng hoảng của chủ nghĩa lịch sử” bằng cách đạt đến sự tổng hợp các giá trị phương Tây thông qua nghiên cứu lịch sử về văn hóa phương Tây.30 Tuy nhiên, niềm tin vào phẩm giá đặc biệt của thế giới phương Tây hiện đại ấy, mà Troeltsch đã bám víu mãi cho đến cả sau Thế chiến Thứ nhất, ngày càng không thể chấp nhận được không chỉ đối với các nhà thần học về khủng hoảng, những người sẵn sàng hy sinh trí tuệ của mình cho đức tin, mà còn đối với cả các nhà tư tưởng khác nhau như Max Weber và Martin Heidegger, những người đã nhấn mạnh tính lịch sử tổng thể của tồn tại người với các hàm ý tương đối luận của nó. Đối với Heidegger, có một lối thoát trong cái thiên đường an toàn của Hữu thể siêu việt tư duy lôgic,31 tàn dư của truyền thống siêu hình mà Heidegger tìm cách phủ nhận; nhưng đối với Weber, cam kết tuân theo logic của nghiên cứu khoa học, tư duy hợp lý và khoa học, nhưng lịch sử vẫn không đưa ra được lời đáp cho các câu hỏi về giá trị mà lại bộc lộ một thế giới phi lý về mặt đạo đức.32

Đối với Weber, hệt như với Rickert,33 câu hỏi mà các học giả và các nhà khoa học đặt ra luôn xuất phát từ quan điểm giá trị của họ; còn đối với Mannheim, toàn bộ tri ​​thức đều phản ánh bối cảnh văn hóa và xã hội cụ thể bao hàm trong lịch sử. Hiểu biết của chúng ta về thực tại không phản ánh thực tại này như nó thực sự tồn tại, mà chỉ giải đáp được những câu hỏi của các học giả và nhà khoa học đặt ra về nó.34 Điều vẫn còn bất khả lay chuyển đối với Weber không phải là những kết luận của nghiên cứu khoa học, vốn được liên tục xem xét lại, mà là đúng hơn là logic nghiên cứu khoa học, vốn vừa là sản phẩm cụ thể của [tr.135] nền văn minh phương Tây vừa có giá trị phổ quát.35 Từ một quan điểm có phần tương tự, Hintze, khi chỉ trích nỗ lực của Troeltsch nhằm vượt qua tương đối luận lịch sử thông qua lịch sử, đã phân biệt chủ nghĩa lịch sử như một Weltanschauung – Thế giới quan theo nghĩa của Troeltsch và chủ nghĩa lịch sử với tư cách einer logischen Kategorialstruktur một phạm trù logic của tư tưởng.36 Chủ nghĩa lịch sử như một thế giới quan là một trong nhiều loại triết học, còn chủ nghĩa lịch sử với tư cách một phạm trù logic của tư tưởng thì có giá trị khoa học.

Karl Heussi trong Cuộc khủng hoảng của Chủ nghĩa Lịch sử - Die Krisis des Historismus (1932) một lần nữa đã lưu lại các cuộc thảo luận.37 Bốn năm sau, Friedrich Meinecke trong Sự xuất hiện Chủ nghĩa Lịch sử - Die Entstehung des Historismus (1936) đã đặt cho thuật ngữ này một hàm ý lạc quan, rất khác, tìm cách vượt qua cuộc khủng hoảng của chủ nghĩa lịch sử bằng cách nhấn mạnh các khía cạnh tích cực của cách tiếp cận lịch sử triệt để. Meinecke đồng nhất cách tiếp cận này với một truyền thống trí tuệ đặc biệt của Đức đã thay thế các quan niệm cổ điển của phương Tây về quy luật tự nhiên bằng một quan điểm di truyền tập trung vào vai trò của tính duy nhất và “tính cá nhân” trong lịch sử. Mặc dù chắc chắn không ủng hộ Chủ nghĩa xã hội quốc gia, nhưng một lần nữa vào năm 1936, ba năm sau khi Hitler “đăng quang” và ngay sau khi ban hành luật chủng tộc Nuremberg, Meinecke tuyên bố tính ưu việt của truyền thống văn hóa Đức và nhận thấy trong truyền thống chủ nghĩa lịch sử Đức cái “giai đoạn đạt tới tối thượng hiểu biết mọi thứ thuộc về con người,” sự phát triển trí tuệ quan trọng nhất ở châu Âu kể từ sau cuộc Cải cách Tin lành (thế kỷ 16).38 Trở lại với chủ nghĩa Tân-Platonism của thời kỳ cổ điển Đức, đặc biệt là với Goethe, Meinecke đã tìm cách vượt qua tương đối luận của chủ nghĩa lịch sử trong một thế giới văn hóa thanh tao, trong đó chính trị, vốn đã chiếm một vị trí quan trọng trong lịch sử tư tưởng trước đó của ông, giờ đây có vẻ không còn quan trọng nữa sau khi ông dường như đã thất vọng với tiến trình lịch sử thế kỷ XX. Cốt lõi của chủ nghĩa lịch sử là sự thừa nhận những khía cạnh phi lý và tự phát của cuộc sống mà truyền thống tư tưởng duy lý của phương Tây đã không thể giải quyết được.

Bên ngoài thế giới nói tiếng Đức, chủ nghĩa lịch sử đóng một vai trò lớn trong tư tưởng Ý thế kỷ XX với Benedetto Croce là đại diện quan trọng nhất của nó.39 Các lập trường tương tự với storicismo assoluto - chủ nghĩa lịch sử tuyệt đối của Croce đã được Jose Ortega y Gasset40 ở Tây Ban Nha và R. G. Collingwood41 ở Anh dẫn giải. Giống như Meinecke, họ cho rằng một thế giới quan tự nhiên chủ nghĩa hoàn toàn [tr.136] không đủ để hiểu được thực tại người vì tính duy nhất và tính cá nhân của thế giới lịch sử. Họ đồng ý rằng “lịch sử về cơ bản là một hành động của tư tưởng” (Croce); nhưng không giống như Meinecke, tin rằng cá nhân là “không thể tin được” và do đó không dễ cho việc khảo sát hợp lý, Croce và Collingwood tin rằng bản thân tư tưởng đã có một cấu trúc hợp lý, do đó tránh được chủ nghĩa chủ quan cấp tiến tiềm ẩn trong khái niệm Verstehen thấu hiểu của chủ nghĩa lịch sử Đức. Khi cho rằng lịch sử là “lịch sử về tự do”42, chủ nghĩa lịch sử của Croce gần với chủ nghĩa của Hegel hơn là với Ranke hay Meinecke.

Sự gần gũi này với Hegel đã được duy trì trong các cuộc thảo luận sau đó của Ý về chủ nghĩa lịch sử. Cùng thời với Croce, Giovanni Gentile nhấn mạnh tính trung tâm trong quan niệm của Hegel về nhà nước và do đó đã tạo cho chủ nghĩa lịch sử một định hướng chuyên chế về cơ bản tương thích với học thuyết Fascist. Antonio Gramsci trong những năm 1920 và 1930 đã diễn giải chủ nghĩa lịch sử theo khuôn khổ của chủ nghĩa Marxist như một triết học can dự chính trị. Trong những thập kỷ gần đây, các cuộc thảo luận đã đi theo ba hướng rất khác nhau. Duy trì tính liên tục với Croce, Giuseppe Galasso đã coi storicismo assoluto - chủ nghĩa lịch sử tuyệt đối của Croce là “lịch sử về tự do”, một hàm ý tự do và dân chủ như một cách tiếp cận chính trị và trí tuệ thích hợp hơn đối với các khoa học xã hội phân tích hiện đại, chủ nghĩa Marxism và Chủ nghĩa Lịch sử.43 Rời khỏi Croce, Fulvio Tessitore đồng nhất mình với Chủ nghĩa Lịch sử của Meinecke và nhấn mạnh tầm quan trọng của truyền thống Đức đối với tư tưởng và văn hóa Ý.44 Pietro Rossi cũng nhấn mạnh đến đóng góp của truyền thống Đức đối với tư tưởng xã hội hiện đại nhưng chọn ra Max Weber là nhà tư tưởng quan trọng nhất.45 Gần đây nhất , Giuseppe Cacciatore, xuất thân từ lập trường chủ nghĩa Marxist, đã xem xét phê phán các cuộc thảo luận của người Đức từ Wilhelm von Humboldt đến Ernst Cassirer.46

Cũng cần phải đề cập thêm hai cách sử dụng thuật ngữ này. Karl Popper trong Chủ nghĩa Lịch sử Khốn cùng đã đồng nhất thuật ngữ này với những nỗ lực của Hegel và Marx nhằm hình thành các quy luật phát triển lịch sử được các nhà Marxist sử dụng để hợp thức hóa sự kiểm soát độc tài của họ cho các cùng đích mạt thế luận.47 Việc sử dụng thuật ngữ này của Popper đã bị chỉ trích gay gắt là đặc dị, nhưng trên thực tế [tr.137] ông đã phân biệt giữa “chủ nghĩa lịch sử” Historizismus và “chủ nghĩa lịch sử” Historismus theo nghĩa tiếng Đức vào thời điểm mà “chủ nghĩa lịch sử” historism vẫn là thuật ngữ hiện hành trong thế giới nói tiếng Anh. Chỉ đến những năm 1940, dưới tác động của chủ nghĩa lịch sử storicismo của Croce, thì “chủ nghĩa lịch sử” historicism chuẩn thường mới thực sự thay thế “chủ nghĩa lịch sử” historism  trong tiếng Anh.48 Tiểu luận về “chủ nghĩa lịch sử” historicism trong Đại bách khoa Toàn thư Liên Xô,49 với sự nhấn mạnh về “sự phát triển hợp quy luật”, chứng minh rằng những người Marxist-Leninists, đối tượng chỉ trích của Popper, đã hiểu thuật ngữ “chủ nghĩa lịch sử” historicism như Popper định nghĩa.

Gần đây nhất thuật ngữ “Chủ nghĩa lịch sử Mới” đã xuất hiện trong các cuộc thảo luận văn chương Mỹ. Các cuộc thảo luận này ít dẫn tài liệu tham khảo từ các cuộc thảo luận trước đây ở Cựu Lục địa. Họ tìm cách vượt qua tình trạng ỉm hãm chủ thể và lịch sử trong tư tưởng cấu trúc luận và hậu cấu trúc luận. Họ chia sẻ việc bác bỏ thói lạc quan lịch sử của chủ nghĩa hậu hiện đại như nó hàm chứa trong cả tư tưởng lịch sử chủ nghĩa Đức và chủ nghĩa Marxist, nhưng lại thúc giục thừa nhận “tính đặc thù lịch sử và văn hóa của các ý tưởng”50 phần lớn đã bị mất trong tư tưởng hậu hiện đại.

Khủng hoảng của Chủ nghĩa Lịch sử

Để nỗ lực định nghĩa chủ nghĩa lịch sử, Otto Gerhard Oexle đã phân biệt giữa Chủ nghĩa lịch sử I và Chủ nghĩa lịch sử II.51 Chủ nghĩa lịch sử I đề cập đến các cuộc tranh luận mang tính triết học vào cuối thế kỷ XIX và khoảng 30 năm đầu thế kỷ XX đánh đồng tri ​​thức lịch sử với tương đối luận và coi tương đối luận là một vấn đề hiện sinh cần phải giải quyết nếu cuộc sống văn minh vẫn tiếp tục. Một số tác phẩm gần đây, Zur Geschichte des Begriffs und des Problems – Luận về Lịch sử Khái niệm và Vấn đề của Annette Wittkau (1992), Hiện đại và Khủng hoảng: Triết học Đức và Vấn đề Chủ nghĩa Lịch sử 1880-1930 chưa được xuất bản (bản thảo hoàn thành năm 1993) của Charles R. Bambach, và một số bài viết của Otto Gerhardt Oexle52 và Wolfgang Hardtwig53 đã xem xét [tr.138] chủ nghĩa lịch sử từ quan điểm này. Các nghiên cứu dành cho cái mà Oexle gọi là Chủ nghĩa Lịch sử II đề cập đến một tập hợp hiện tượng rất khác, với chuyên ngành lịch sử Đức khi nó xuất hiện vào thế kỷ XIX. Sử dụng thuật ngữ Kuhnian,54 Jörn Rüsen và các học trò của ông, Horst-Walter Blanke Schweers, Friedrich Jaeger, Dirk Fleischer, và Hans-Jürgen Pandel trong một loạt công trình nghiên cứu55 đã xem chủ nghĩa lịch sử như một “hệ mẫu” - theo thuật ngữ của Rüsen là “ma trận bộ môn”56 - dành cho các nghiên cứu lịch sử. Ulrich Muhlack trong tác phẩm Geschichtswissenschaft im Humanismus und in der Aujkldrung: Die Vorgeschichte des Historismus (1991) - Khoa học lịch sử trong chủ nghĩa nhân văn và trong tuyên ngôn: Tiền sử của chủ nghĩa lịch sử, tiếp theo là một tuyển tập về chính chủ nghĩa lịch sử, đã xem chủ nghĩa lịch sử tương tự như khoa học lịch sử (Geschichtswissenschaft).57 Jeremy Telman, người Mỹ, đã hoàn thành một luận văn đặt câu hỏi về các giả định cơ bản khác nhau của khối tài liệu này về sự xuất hiện của nghề lịch sử.58

Sức mạnh cuốn sách của Wittkau là ở chỗ bà đã xem xét vấn đề của chủ nghĩa lịch sử vì nó phải đương đầu không chỉ giữa các nhà triết học mà còn trong các ngành học khác: thần học, luật, kinh tế học, xã hội học và lịch sử. Tuy nhiên, người ta thấy rõ một điều trong cuốn sách của Wittkau cũng như trong phần lớn văn liệu Đức mà chúng tôi đã trích dẫn, đó là sự lãng quên gần như hoàn toàn đối với văn liệu không phải tiếng Đức. Xét cho cùng, các vấn đề của chủ nghĩa lịch sử là một phần của cuộc khủng hoảng ý thức rộng lớn hơn trong thế giới phương Tây hiện đại. Trong trường hợp của Wittkau, không một chú thích cuối trang hoặc một mục thư mục nào đề cập đến các nhà tư tưởng không phải người Đức - Croce, Collingwood và Ortega y Gasset không xuất hiện - cũng như không có bất kỳ tài liệu tiếng Anh hoặc tiếng Ý quan trọng nào được trích dẫn. Đối với bà cũng như đối với Oexle và ở mức độ thấp hơn là Hardtwig, nguồn gốc của cuộc khủng hoảng chủ nghĩa lịch sử nằm ở việc áp dụng ngày càng nhiều các phương pháp khoa học vào nghiên cứu lịch sử. Mục đích của cuốn sách của bà là để chứng tỏ rằng, “hiện tượng chủ nghĩa lịch sử được kết nối chặt chẽ trong tất cả các ngành khoa học văn hóa với việc thực hiện phương pháp khoa học thực nghiệm về tri thức và trong cuộc Auseinandersetzung đối đầu với chủ nghĩa lịch sử, mối quan tâm cơ bản là việc tương đối hóa các giá trị như là kết quả của những tiến bộ trong tri ​​thức lịch sử [geschichtswissenschaftliche Erkenntnis].”59 

Wittkau đúng khi khẳng định rằng những nhân vật chính mà bà đề cập trong cuốn sách của mình, ví dụ, Troeltsch và thậm chí cả Weber, đã nhìn nhận vấn đề theo các khôn khổ này. Nhưng liệu cuộc khủng hoảng có thực sự chủ yếu là kết quả của những tiến bộ của [tr.139] “tri thức khoa học” như Wittkau kiên định? Phê phán của Nietzsche về học thuật lịch sử đã bị Wittkau xem xét quá nghiêm khắc và quá thiếu óc phê phán – và Oexle cũng tương tự như vậy. Wittkau cho rằng thật quá dễ thấy nghiên cứu lịch sử phá hủy các giá trị đã được thiết lập. Nhưng trên thực tế, các nghiên cứu lịch sử được chuyên nghiệp hóa nói chung vào thế kỷ XIX đã dẫn đến tính hợp thức của các giá trị đã được thiết lập, hoặc trong trường hợp của các tác giả xã hội chủ nghĩa, dân tộc chủ nghĩa hoặc phân biệt chủng tộc đối với tính hợp thức của các giá trị mới vậy. Khẳng định của Nietzsche cho rằng nghiên cứu lịch sử được thực hiện vào thời của ông đã làm tê liệt hành động của con người đơn giản là không đúng. Người ta có thể hy vọng rằng nghiên cứu lịch sử mang tính phê phán sẽ bóc trần những huyền thoại đã biến lịch sử thành công cụ phục vụ các ý thức hệ chính trị và xã hội, nhưng nói chung là trường hợp ngược lại. Nghiên cứu lịch sử củng cố huyền thoại lịch sử. Tương đối luận văn hóa đang phát triển vào thời đó với việc đặt vấn đề về các chuẩn mực tôn giáo, xã hội và đạo đức cũ hơn chính là kết quả biến đổi xã hội hiện đại hơn là nguyên nhân của nó. Như Karl Mannheim đã nói về vấn đề này, “Việc viết sử không mang lại cho chúng ta chủ nghĩa lịch sử, mà đúng ra là quá trình lịch sử đã khiến chúng ta trở thành những nhà lịch sử chủ nghĩa.”60

Đối với Wittkau, Weber, thực sự không sử dụng thuật ngữ này, đã giải quyết vấn đề mà chủ nghĩa lịch sử đã đặt ra về sự hòa giải giữa khoa học và các giá trị một lần cuối cùng, cho thấy rằng “tri thức trong các khoa học văn hóa [kulturwissenschaftliche Erkenntnis] không đưa ra câu trả lời cho các câu hỏi về các chuẩn mực, mà chỉ bao gồm riêng tri thức về các thực kiện.”61 Từ giờ trở đi, bà lưu ý, “tri ​​thức giá trị trở thành một vấn đề của niềm tin cá nhân.”62 Tuy nhiên, điều này, theo ý kiến ​​của tôi, khiến cho Weber trở thành một người quá thực chứng luận. Xã hội học nhận thức verstehende Soziologie của Weber đã giả định rằng khoa học văn hóa hoặc sử dụng thuật ngữ của Weber, các khoa học xã hội, không xử lý các Tatsachen “sự kiện” mà xử lý các hệ thống ý nghĩa đòi hỏi các phương pháp định tính của “hiểu biết”. Vì vậy, đối với Weber khoa học xã hội đã vượt ra ngoài các sự kiện thực nghiệm để đến với các thực thể có ý nghĩa. Như chúng ta đã biết, Weber có thể hiểu được những điều này không phải thông qua quan sát trực tiếp mà bằng các “loại hình lý tưởng” mà nhà khoa học xã hội đã xây dựng để áp đặt cấu trúc lên sự hỗn loạn của dữ liệu thực nghiệm. Không hề chấm dứt suy đoán, khi Wittkau tin rằng Weber đã làm như vậy, trên thực tế, ông đã trình bày một hệ thống tư biện cao độ để tìm cách làm cho các quá trình xã hội trở nên dễ hiểu. Cũng không có sự phân biệt giữa thực kiện và giá trị tuyệt đối ở Weber dù có vẻ như vậy; chúng ta phải cẩn thận để không xem xét tuyên bố của Weber một cách thiếu cân nhắc theo giá trị bề mặt của nó. Giá trị đối với ông phụ thuộc vào các quyết định, nhưng cho đến nay khi các quyết định được đưa ra đối mặt với thực tại khắc nghiệt, đối với Weber chúng lại được xác định bởi một thế giới xung đột khách quan đượm màu một chủ nghĩa Darwinist xã hội và nam tính cởi mở đã dẫn Weber [tr.140] đến tán thành việc Đức phấn đấu giành quyền lực thế giới không chỉ dựa trên các quyết định cá nhân mà còn dựa trên đánh giá khoa học.63

Oexle và Hardtwig đã tiếp nối những dòng tương tự như của Wittakau khi nhấn mạnh rằng thành tựu vĩ đại của Weber nằm ở chỗ hiểu rằng chính phương pháp luận chứ không phải là các phát hiện mang lại cho khoa học, bao gồm cả khoa học xã hội, đặc tính khoa học của nó. Do đó khoa học trùng hợp với Forschung “nghiên cứu”. Với cái nhìn sâu sắc này, Hardtwig lưu ý, vì vậy khoa học được hiểu là trở nên đối lập không thể thay đổi đối với các quan niệm lịch sử chủ nghĩa cũ hơn về lịch sử vốn coi lịch sử là nguồn gốc của Bildung [giáo dưỡng] văn hóa và quy cho khoa học lịch sử nhiệm vụ thiết lập các chuẩn mực.64 Việc chuyển từ lịch sử với tư cách Bildung sang lịch sử với tư cách Forschung, cả Hardtwig và Oexle đều kiên định, khởi nguồn trong suốt thế kỷ XIX khi lịch sử bắt đầu coi đó là một ngành học nghiêm ngặt. Không chỉ Oexle và Hardtwig mà cả Rüsen và các học trò của ông65 cũng đều thống nhất rằng Droysen Đáng kính đã nhận ra đặc tính nghiên cứu của khoa học lịch sử trong công thức nổi tiếng của ông: Das Wesen der historischen Methode ist forschend zu verstehen - Bản chất của phương pháp lịch sử bao gồm sự hiểu biết thông qua nghiên cứu. Vì vậy, đối với Droysen, mục tiêu của nghiên cứu khoa học không phải là tri thức thực nghiệm mà là theo cách nói của ông chính là Interpretation diễn giải. Nhưng diễn giải ý nghĩa chỉ khả thể với Droysen bởi vì ông, cũng như Ranke, cho rằng có những sức mạnh tiềm ẩn tạo nên tính mạch lạc cho lịch sử. Như Hardtwig đã nói, Droysen một mặt nhận ra rằng nhà sử học không chỉ đơn thuần đương đầu với đối tượng của mình mà còn là một phần của nó,66 theo cách nói của Droysen, thì “nội dung của bản thân chúng ta [Ich] theo nhiều cách là một kết quả [Resultat] của lịch sử.”67 Nhưng mặt khác, Droysen cũng tin rằng có một sự hài hòa cơ bản giữa chủ thể và khách thể giúp nhà sử học có được tri ​​thức vững chắc. Do đó, người ta khó có thể khẳng định, như Wittkau đã làm, khi cho rằng Droysen đã giải phóng bản thân khỏi một triết học tư biện về lịch sử.68

Oexle và Hardtwig khẳng định một cách đúng đắn rằng chủ nghĩa lịch sử cũ là chủ nghĩa khách quan mặc dù, hoặc có lẽ vì những tiền giả định duy tâm của nó. Weber dứt khoát bác bỏ chủ nghĩa khách quan này bắt nguồn từ tiền đề Kantian cho rằng thực tại chỉ có thể được biết bằng các phạm trù lý tính của chúng ta, mà không bao giờ là một sự vật tự nó. Không có các giá trị hợp lệ phổ biến; mặt khác “nếu không có các nhà nghiên cứu Wertideen định giá các ý tưởng, thì sẽ không có nguyên tắc lựa chọn chủ đề và không có tri ​​thức có nghĩa [tr.141] về thực tại cá nhân cụ thể.” Do đó, khi coi khoa học xã hội là Wirklichkeitswissenschaft khoa học về thực tại, Weber vẫn thừa nhận rằng không có phân tích khoa học “khách quan” nào về đời sống văn hóa…độc lập với Gesichtspunkte các quan điểm đặc biệt và “phiến diện”.69

Nhưng vẫn còn đó câu hỏi là liệu Weber có thực sự giải phóng bản thân khỏi những giả định mang tính tư biện về tính khách quan và sự gắn kết lịch sử là trung tâm của quan điểm lịch sử chủ nghĩa ở mức độ mà Oexle và Hardtwig vẫn kiên định hay không. Theo Weber, một mặt, không ai có thể tin rằng thế giới có một ý nghĩa (Sinn), 70 nhưng mặt khác, ông vẫn tin chắc theo phong cách Tân-Kantian rõ ràng nhất rằng tri ​​thức hợp lý và khách quan là khả thể. Vì vậy, đối với ông, đặc tính của khoa học và nghiên cứu khoa học loại trừ bất kỳ cứu cánh tính nào, nhưng đồng thời vẫn đảm bảo sự tiến bộ. Mặc dù một tác phẩm nghệ thuật vĩ đại không bao giờ lỗi thời, nhưng chắc chắn sẽ có những phát hiện khoa học. “Công trình khoa học kết buộc với quá trình tiến bộ [nhấn mạnh của Weber].”71 Đối với Weber, điều có thể làm cho tiến bộ này khả thể chính là niềm tin Kantian chắc chắn của ông vào hiệu lực của phương pháp khoa học. Ông nhận ra rằng về mặt lịch sử, phương pháp này gắn liền với một nền văn hóa cụ thể của phương Tây, nhưng đồng thời ông cũng tin rằng “nó hiện đang và sẽ vẫn chân thực là bằng chứng chính xác về phương pháp luận trong khoa học xã hội, nếu nó đạt được mục đích, phải được thừa nhận là đúng ngay cả với người Trung Quốc, nếu không thì họ có thể bị mù đặc với quan niệm của chúng ta về mệnh lệnh đạo đức.”72

______________________________________________

(Còn nữa…)

Nguồn: Iggers, Georg G. (1995). Historicism: The History and Meaning of the Term, Journal of the History of Ideas, Vol. 56, No. 1 (Jan., 1995), pp. 129-152, Published by: University of Pennsylvania Press.

Ghi chú

I should like to dedicate this article to Ernst Schulin in honor of his sixty-fifth birthday.
1 On the history of the term, see Dwight E. Lee and Robert N. Beck, "The Meaning of 'Historicism,'" American Historical Review, 59 (1953-54), 568-77; Ernst Rothacker, "Das Wort 'Historismus,'" Zeitschrift fur deutsche Wortforschung, 16 (1960), 3-6; Antoni, Dallo storicismo alla sociologia (Florence, 1940) and Lo storicismo (Torino, 19682); B. A. Grushin, "Historicism" in Great Soviet Encyclopedia, a translation of the third edition (New York, 1970), X, 88-89; Donald R. Kelley, Foundations of Modern Historical Scholarship: Language, Law, and History in the French Renaissance (New York, 1970), 1-15; Maurice Mandelbaum, History, Man, & Reason: A Study in Nineteenth-Century Thought (Baltimore, 1971), particularly 41-140; Georg G. Iggers, "Historicism" in Dictionary of the History of Ideas (New York, 1973), II, 456-64; Otto Gerhard Oexle, "'Historismus.' Uberlegungen zur Geschichte des Phanomens und des Begriffs," Jahrbuch, Braunschweigische wissenschaftliche Gesellschaft (1986), 119-55.

2 Friedrich Schlegel, "Zur Philologie I," in Kritische Friedrich-Schlegel-Ausgabe (Paderborn, 1981), XVI, 35-41.

3 Friedrich Freiherr von Hardenberg (Novalis, pseud.), Schriften, ed. Paul Kluckhohn (Jena, 1923), III, 173.

4 Feuerbach, review of "Kritik des Idealismus von F. Dorguth" (1838) in Samtliche Werke (Leipzig, 1846-66), II, 143-44.

5 Braniss, Die wissenschaftliche Aufgabe der Gegenwart (Breslau, 1848), 113-38, 195, 200, 248.

6 Fichte, Die philosophischen Lehren von Recht, Staat und Sitte in Deutschland, Frankreich und England von der Mitte des achtzehnten Jahrhunderts bis zur Gegenwart (Leipzig, 1850), 469-70.

7 Prantl, Die gegenwartige Aufgabe der Philosophie (Munich, 1852).

8 Rudolf Haym, Hegel und seine Zeit (Berlin, 1857).

9 Karl Werner, Giambattista Vico als Philosoph und gelehrter Forscher (Vienna, 1879).

10 Benedetto Croce, History as the Story of Liberty (London, 1941) and History, Its Theory and Practice (New York, 1921).

11 R. G. Collingwood, The Idea of History (Oxford, 1994).

12 See Georg G. Iggers, The German Conception of History: The National Tradition of Historical Thought from Herder to the Present (Middletown, 19832).

13 See "On the Relations of History and Philosophy (A Manuscript of the 1830s)," in Georg G. Iggers and Konrad Von Moltke (eds.), The Theory and Practice of History (Indianapolis, 1973), 29-32, and "On the Character of Historical Science (A Manuscript of the 1830s)," ibid., 33-46.

14 See Ranke's preface to his Histories of the Latin and Germanic Nations, ibid., 135-38.

15 See his "The Great Powers," ibid., 65-101 and "A Dialogue on Politics," ibid., 102-30. On the role of the divine, see Wolfgang Hardtwig, "Geschichtsreligion-Wissenschaft als Arbeit-Objektivitat," Historische Zeitschrift, 252 (1991), 1-32. On the "finger of God" (Gottes Finger), see Sdmtliche Werke, LIII-LIV, 665-66.

16 See e.g., "The Great Powers," ibid., 100.

17 Johann Gustav Droysen, Historik. Historisch-kritische Ausgabe, ed. Peter Leyh (Stuttgart, 1977), I, 221.

18 Hans Georg Gadamer, Truth and Method, tr. G. Barden and J. Cumming (New York, 1989), and Joachim Wach, Das Verstehen (3 vols; Hildesheim, 1966).

19 Wilhelm Dilthey, Der Aufbau der geschichtlichen Welt in den Geisteswissenschaften, Gesammelte Schriften (Leipzig, 1924), VII, Wilhelm Windelband, "Geschichte und Naturwissenschaft (1894)," in Prdludien (Tiubingen, 1921), II; and Heinrich Rickert, Kulturwissenschaft und Naturwissenschaft (Tiubingen, 1921).

20 Peter Reill in Georg G. Iggers and James Powell (eds.), Leopold von Ranke and the Shaping of the Historical Discipline (Syracuse, 1990), 21-35.

21 See Annette Wittkau, Historismus. Zur Geschichte des Begriffs und des Problems (Gottingen, 1992), 61-80.

22 See "On the Epochs of Modem History," The Theory and Practice of History.

23 Ernst Troeltsch, "Die Krisis des Historismus," in Die Neue Rundschau, 33. Jahrgang der freien Buhne (Berlin, 1922), I, 572-90, and "Der Historismus und seine Probleme (1922)," Gesammelte Schriften (Aalen, 1961), IV.

24 Karl Mannheim, "Historismus," in Kurt H. Wolf (ed.), Wissenssoziologie. Auswahl aus dem Werk (Neuwied, 1970).

25 Max Weber, "Science as a Vocation," in From Max Weber: Essays in Sociology, ed. H. H. Gerth and C. Wright Mills (New York, 1946), 138-39.

26 Friedrich Nietzsche, Werke. Kritische Gesamtausgabe, ed. Giorgio Colli and Mazzino Montinari (Berlin, 1972) "UnzeitgemaJ3e Betrachtungen," I-III (1872-74), III, section 3.

27 Die Absolutheit des Christentums und die Religionsgeschichte (Tubingen, 1902).

28 Albrecht B. Ritschl, A Critical History of the Christian Doctrine of Justification and
Reconciliation (Edinburgh, 1872).

29 See, e.g., "Die theologische und religi6se Lage der Gegenwart," in Gesamm Schriften (Tiibingen, 1913), II, 1-21.

30 Der Historismus und seine Uberwindung (Berlin, 1924).

31 Sein und Zeit (Halle, 1929); Being and Time, tr. John MacQuarrie and Edward Robinson (New York, 1962).

32 Max Weber, "Politics as a Vocation," H. H. Gerth and C. Wright (eds.), From Max Weber: Essays in Sociology (New York, 1946), 121.

33 Heinrich Rickert, Kulturwissenschaft und Naturwissenschaft (Tiubingen, 1921).

34 Max Weber, "Objectivity in Social Science and Social Policy," in Max Weber on the Methodology of the Social Sciences, ed. and tr. Edward A. Shils and Henry A. Finch (Glencoe, Ill., 1949), 170.

35 Max Weber, "Objektivitat," Wissenschaftslehre, 155.

36 Otto Hintze, "Troeltsch und die Probleme des Historismus," in Soziologie und Geschichte (Gesammelte Abhandlungen), II, sect. 2, (G6ttingen, 1964), 366.

37 Karl Heussi, Die Krisis des Historismus (Tiubingen, 1932).

38 Die Entstehung des Historismus, in Werke (Munich, 1959), III, 4.

39 On the role of historicism in Italy and elsewhere, see Carlo Antoni, Lo Storicismo; Pietro Rossi, Storia e storicismo nelle filosofia contemporanea (rev. ed., Milan, 1991); and Giuseppe Cacciatore, Storicismo problematico e metodo critico (Naples, 1993) and his La lancia di Odino. Teorie e metodi della scienza storica tra Ottocento e Novecento, preface by Giuseppe Galasso (Milan, 1994); see also David Roberts, Benedetto Croce and the Uses of Historicism (Berkely, 1987).

40 Jose Ortega y Gasset, Historical Reason (New York, 1984).

41 Collingwood, The Idea of History.

42 Benedetto Croce, History as the Story of Liberty (London, 1941).

43 See Giuseppe Galasso, Croce, Gramsci e altri storici (Milan, 1978) and Croce e lo spirito del suo tempo (Milan, 1991). On Croce, see also David D. Roberts, Benedetto Croce and the Uses of Historicism (Berkeley, 1987).

44 Fulvio Tessitore, I Fondamenti della filosofia politica di Humboldt (Naples, 1965); Meinecke, storico delle idee (Florence, 1969); Dimensioni dello storicismo (Naples, 1971); Filosofia e storiografia (Naples, 1985); Introduzione allo storicismo (Bari, 1991); Storiografia e storia della cultura (Bologna, 1991).

45 Pietro Rossi, Lo storicismo tedesco contemporaneo (Turin, 1956); also Storia e storicismo nella filosofia contemporaneo (1960; expanded ed. Milano, 1991).

46 Cacciatore, Storicismo problematico e metodo critico; also his Ragione e speranze nel marxismo. L'ereditd di Ernst Bloch (Bari, 1979), and La lancia di Odino: Teorie e metodi della storia in Italia e Germania tra '800 e '900 (Milan, 1994). The Italian discussions deserve more extensive treatment than I have been able to present here. I am thankful to Edoardo Tortarolo of Turin for introducing me to the recent Italian literature.

47 Karl R. Popper, The Poverty of Historicism (New York, 1961).

48 See Lee and Beck, "The Meaning of 'Historicism'" (above, n. 1).

49 See B. A. Grushin, "Historicism" (above, n. 1).

50 See H. A. Veeser (ed.), The New Historicism (New York, 1989); Paul Michael Liitzeler, "Der postmoderne Historismus in den amerikanischen Humanities," Hartmut Eggert et al. (eds.), Geschichte als Literatur. Formen und Grenzen der Reprdsentation von Vergangenheit (Stuttgart, 1990), 67-76; Brook Thomas, The New Historicism and Other Old-Fashioned Topics (Princeton, 1991); Richard Wilson and Richard Dutton (eds.), New Historicism and Renaissance Drama (London, 1992); John H. Zammito, "Are We Being Theoretical Yet? The New Historicism, the New Philosophy of History, and 'Practicing Historians,' " Journal of Modern History, 65 (1993), 783-814.

51 See Otto Gerhard Oexle, "Historismus" (above, n. 1) and "Die Geschichtswissenschaft im Zeichen des Historismus. Bemerkungen zum Standort der Geschichtsforschung," Historische Zeitschrift, 238 (1984), 17-55; also Herbert Schnadelbach, Geschichtsphilosophie nach Hegel. Die Probleme des Historismus (Freiburg, 1974), making a similar distinction between two types of historicism.

52 See above, n. 41.

53 Wolfgang Hardtwig, "Geschichtsreligion-Wissenschaft als Arbeit-Objektivitat," Historische Zeitschrift, 252 (1991), 1-32.

54 T. S. Kuhn, The Structure of Scientific Revolutions (Chicago, 19702).

55 Including Jorn Riusen, Grundziige einer Historik (3 vols.; G6ttingen, 1983-89) and Konfigurationen des Historismus (Frankfurt, 1993); Horst-Walter Blanke, Historiographiegeschichte als Historik (Stuttgart, 1991); Friedrich Jaeger and J6rn Riusen, Geschichte des Historismus (Munich, 1992); Hans-Jiirgen Pandel, Historik und Didaktik (Stuttgart, 1990).

56 See Grundziuge einer Historik (3 vols; Gottingen, 1983-89).

57 Munich.

58 David Aaron Jeremy Telman, "Clio Ascendant: The Historical Profession in Nineteenth-Century Germany" (Ph.D. diss., Cornell University, 1993).

59 Annette Wittkau, Historismus (G6ttingen, 1992), 22.

60 Karl Mannheim, "Historismus" (1924), Wissenssoziologie (Soziologische Texte, Band 28), Auswahl aus dem Werk, 2. Ausg. (Neuwied, 1970), 247f, and Das Problem einer Soziologie des Wissens (1925), ibid., 308ff.

61 Wittkau, Historismus, 132.

62 Ibid., 145.

63 Wolfgang J. Mommsen, Max Weber and German Politics (Chicago, 1984); Guenther Roth, "Between Cosmopolitanism and Ethnocentrism: Max Weber in the Nineties," to appear in Telos, 96 (1993), 148-62.

64 Hardtwig, "Geschichtsreligion-Wissenschaft als Arbeit-Objektivitat," 24.

65 See above, n. 45; also Jorn Riusen, Begriffene Geschichte. Genesis und BegruTndung der Geschichtstheorie J. G. Droysens (Paderborn, 1969).

56 Hardtwig, "Geschichtsreligion-Wissenschaft als Arbeit-Objektivitat," 21.

67 Zitiert in Oexle, Die Geschichtswissenschaft, 43.

68 Wittkau, Historismus, 59.

69 Max Weber, "Objectivity in Social Science," 170.

70 Max Weber, "Science as a Vocation," ibid. 137.

71 Ibid., 137.

72 "Objectivity in Social Science," 58.

 

 

 

 

 

 

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét