Powered By Blogger

Thứ Năm, 27 tháng 1, 2022

Chủ nghĩa Lịch sử: Quá trình và Ý nghĩa (I)

 Georg G. Iggers

Người dịch: Hà Hữu Nga

Trong vài năm gần đây, một số lượng đáng kể sách và bài báo đã xuất hiện ở Đức, Hoa Kỳ và Ý về đề tài chủ nghĩa lịch sử. Tuy nhiên, trong khối văn liệu này không có sự nhất trí về ý nghĩa của thuật ngữ.1 Vì vậy, đã có ba cuộc thảo luận rất khác nhau được tiến hành đồng thời, theo đuổi các chủ đề khác nhau và chỉ tình cờ có chút giao thoa. Một số công trình đã đề cập đến cái gọi là “cuộc khủng hoảng của chủ nghĩa lịch sử” trong bối cảnh cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Ở đây, chủ nghĩa lịch sử đã bị đồng nhất với tương đối luận và sự mất niềm tin vào các giá trị của văn hóa phương Tây hiện đại. Tương đối luận này đã được coi là một khía cạnh thường trực của đời sống trí tuệ trong các cảnh huống của thế giới hiện đại. Một khối văn liệu rất khác đã đồng nhất chủ nghĩa lịch sử một cách hẹp hơn với quan điểm và thực hành sử ký của thế kỷ 19 - và ở một mức độ nào đó là học thuật của thế kỷ 20 trong các khoa học nhân văn. Cuối cùng, thuật ngữ “Chủ nghĩa Lịch sử Mới” đã được các nhà phê bình văn chương và văn hóa ở Mỹ sử dụng gần đây trong một bối cảnh vẫn còn khác. Trong bài tiểu luận này, tôi sẽ giới hạn vào việc xem xét văn liệu về hai cách sử dụng đầu tiên của thuật ngữ này.

Việc sử dụng thuật ngữ Historismus Chủ nghĩa lịch sử đầu tiên mà tôi có thể tìm được xuất hiện trong một tập ghi chú rời rạc về ngữ văn mà Friedrich Schlegel đã ghi lại vào năm 1797. Ở đây thuật ngữ này đã có chút gì đó ý nghĩa sau này của nó. Đối với Schlegel, “Chủ nghĩa lịch sử [sic] của Winkelmann” đã giới thiệu một “kỷ nguyên mới” trong triết học khi công nhận “tính khác biệt vô hạn” (den unermeßlichen Unterschied) và “bản chất hoàn toàn độc đáo của Thời cổ đại”. Trái ngược với Winckelmann, các “triết gia nổi tiếng” của thế kỷ mười tám đã bóp méo đặc tính của thời cổ đại bằng cách lồng các quan niệm triết học vào nó. Schlegel cảnh báo chống lại một “quan điểm lý thuyết, nhưng phi lịch sử [Ansicht] ... [kh]ông có bất kỳ chỉ dẫn nào đến những cá nhân cụ thể [Ohne alle personliche Indikationen].”2 Tuy nhiên, vào năm sau, Novalis (1772-1801) sử dụng thuật ngữ Chủ nghĩa lịch sử trong một quá trình liệt kê các phương pháp rất hỗn tạp (của Fichte, Kant, hóa học, toán học, nghệ thuật, v.v.), nhưng không gán cho nó một ý nghĩa rõ ràng.3

Thuật ngữ Historismus Chủ nghĩa lịch sử thỉnh thoảng được sử dụng ở Đức trong hai phần ba đầu thế kỷ XIX, ví dụ, bởi Ludwig Feuerbach, 4 Christoph J. Braniss, 5 I.H. Fichte6 (con trai của J.G. Fichte), và Carl Prantl,7 với một ý nghĩa không khác với ý nghĩa mà Schlegel đã sử dụng. Historismus Chủ nghĩa lịch sử biểu thị một định hướng lịch sử thừa nhận tính cá nhân trong “không-thời gian tính cụ thể” của nó (Prantl), như Trường phái Lịch sử Luật pháp (Savigny và Eichhorn) theo đuổi, khác biệt với chủ nghĩa kinh nghiệm định hướng-thực tế cũng như triết học xây dựng-hệ thống về lịch sử theo cách thức Hegelian (Haym)8 mà bỏ qua thực tính. Karl Werner, trong cuốn sách năm 1879 về Giambattista Vico,9 đã nhìn thấy cốt lõi của quan điểm chủ nghĩa lịch sử trong quan niệm của Vico cho rằng tâm trí con người không biết thực tại nào khác ngoài lịch sử: lịch sử được tạo ra bởi con người và do đó phản ánh ý định của con người, nghĩa là, ý nghĩa. Tự nhiên, vì không phải do con người tạo ra, nên không phản ánh ý nghĩa nào có thể hiểu theo cách này. Do đó, chủ nghĩa lịch sử bị ràng buộc chặt chẽ với một hình thức nhất định của chủ nghĩa duy tâm nhận thức luận, tiên báo lập trường sau này của Benedetto Croce10 và R. G. Collingwood11 cho rằng lịch sử luôn liên quan đến tư tưởng, nghĩa là với ý nghĩa, mà con người buộc phải nhận thức thấu đáo.

Từ những giả định này, một lý thuyết về tri ​​thức lịch sử được các nhà tư tưởng theo khuynh hướng lịch sử vào thế kỷ 19 xây dựng, cho dù họ không thực sự sử dụng thuật ngữ này. Trường phái Lịch sử Đức, phát triển tại các Đại học của thế kỷ 19, được thành lập dựa trên những giả định này.12 Từ rất sớm, Leopold Ranke đã phân biệt giữa cái mà ông gọi là cách tiếp cận lịch sử với cách tiếp cận triết học. Lập luận của ông là trong khi triết học tìm cách quy giản hiện thực thành một hệ thống, hy sinh những phẩm chất độc đáo của thế giới lịch sử, thì lịch sử lại chọn cách đạt được sự hiểu biết về của cái chung thông qua việc đắm mình trong cái riêng.13 Tuy nhiên, có một mối quan hệ họ hàng giữa thế giới như Hegel đã nhìn thấy nó và Ranke cũng nhìn thấy nó. Cả hai đều giả định một sự gắn kết ẩn sau thế giới hiện tượng. Trong khi Ranke nhấn mạnh cần thiết phải tiến hành từ việc tái thiết phê phán các sự kiện tạo thành lịch sử, ông cũng tin rằng từ việc tái thiết quá khứ này, cách thức thực sự làwie es eigentlich gewesen”, các thế lực vĩ ​​đại đã định hình lịch sử sẽ trở nên rõ ràng.14 Đối với ông, mọi cá nhân cũng như từng thể chế siêu cá nhân vĩ đại, dù là nhà nước, các quốc gia, nhà thờ hay các văn hóa, đều tạo thành một tổng thể có ý nghĩa cụ thể phù hợp với nền kinh tế rộng lớn hơn của ý chí thần thánh15. Do đó, mục đích của nghiên cứu lịch sử không bị cạn kiệt bởi sự tái hiện có tính tường thuật về một quá khứ có thật, bao gồm việc nắm bắt được sự gắn kết bao trùm mà quá khứ kia phù hợp với nó.16

Những ý tưởng ngẫu nhiên này trong các bài luận và bài giảng của Ranke đã được trình bày chặt chẽ hơn trong các phiên bản công trình Historik Lịch sử khác nhau của Droysen sau năm 1857 và trong bài phê bình về tập đầu tiên Lịch sử nước Anh của Henry Thomas Buckle năm 1861. Giả định mối gắn kết giữa các cá nhân là những tổng thể có ý nghĩa cấu thành thế giới lịch sử và lịch sử theo nghĩa rộng hơn, Droysen đã tìm cách xây dựng các nguyên tắc cho khoa học lịch sử, đặc trưng khoa học của nó bao gồm việc vượt ra ngoài bằng chứng được thiết lập bởi sự xem xét mang tính phê phán các nguồn lịch sử để hiểu biết về tính cố kết của lịch sử. Tuy nhiên, tính cố kết này cần đạt được không phải thông qua logic quy nạp hoặc diễn dịch của các khoa học tự nhiên mà thông qua cái Droysen gọi là “diễn giải”.17 Điều này giả định rằng nhà sử học đã nghiên cứu các thực thể có khả năng được hiểu rõ bởi vì chúng là hiện thân của các tập ý nghĩa. Vì vậy, đối với Droysen cũng như đối với Wilhelm von Humboldt, Savigny, hay Ranke, lịch sử là một khoa tường giải.18 Tuy nhiên, nó là một khoa học.

Wilhelm Dilthey và sau ông là các triết gia Kantian-Mới của trường Freiburg, Wilhelm Windelband và Heinrich Rickert, tự đặt ra cho họ nhiệm vụ thiết lập lịch sử và các khoa học nhân văn hoặc văn hóa (Geisteswissenschaften hay Kulturwissenschaften) là những khoa học khắt khe trong cách tiếp cận như các khoa học tự nhiên nhưng với logic điều tra thừa nhận rằng chúng đòi hỏi các phương pháp có năng lực diễn giải ý nghĩa được thể hiện trong lịch sử và văn hóa.19 Sự phân biệt rạch ròi mà Dilthey và những người Kantian – Mới thực hiện giữa các khoa học nhân văn và khoa học tự nhiên hơn là giữa lịch sử và triết học phản ánh sự thay đổi mà khoa học tự nhiên đã trải qua kể từ nửa đầu thế kỷ 19, khi chúng vẫn hoạt động mang tính ẩn dụ và lịch sử với các phép loại suy sinh học và hữu cơ.20

Nếu chủ nghĩa lịch sử được hiểu như vậy sở hữu một ý nghĩa về cơ bản là thực chứng, như một triển vọng đặc biệt thích hợp với việc nghiên cứu thế giới xã hội và văn hóa, thì nó đã để mất điều đó một khi giả định cơ bản về tính cố kết nền tảng của lịch sử bị đặt vấn đề. Điều này xảy ra rất sớm trong kinh tế học khi một số nhà lý thuyết kinh tế, Eugen Duhring (1866), Carl Menger (1884), và Adolf Wagner (1892), 21 tấn công cách tiếp cận lịch sử đối với kinh tế học của Trường phái Lịch sử Kinh tế học (Wilhelm Roscher, Karl Knies và Gustav Schmoller). Giờ đây, họ đã sử dụng thuật ngữ này theo nghĩa phủ định để chỉ trích việc từ bỏ lý thuyết trong kinh tế học và sự nhầm lẫn giữa lý thuyết kinh tế với lịch sử kinh tế.

Một thách thức cơ bản hơn đối với tư tưởng chủ nghĩa lịch sử lạc quan đã xảy ra giữa các nhà tư tưởng chấp nhận các tiền đề nhận thức luận cơ bản của chủ nghĩa lịch sử - và ngày càng sử dụng thuật ngữ này - nhưng từ bỏ niềm tin vào tính cố kết của quá trình lịch sử và cùng với nó là niềm tin của họ vào phẩm chất của văn hóa phương Tây hiện đại. Tư tưởng chủ nghĩa lịch sử từ Ranke vào những năm 1830 đến Friedrich Meinecke trong những năm 1930 có mối quan hệ nước đôi với ý tưởng về sự tiến bộ. Một mặt, ý tưởng về sự tiến bộ là không thể chấp nhận được từ quan điểm của những người nhấn mạnh rằng mọi thời đại phải được nhìn nhận theo khuôn khổ riêng của nó, “trực tiếp với Chúa,” 22 nhưng mặt khác, những người như Ranke và Droysen, cũng tin tưởng sâu xa như Hegel về sự vững chắc của văn hóa phương Tây hiện đại, hoặc như Meinecke, về phẩm chất độc đáo của văn hóa Đức.

Ernst Troeltsch giờ đã nói về “Khủng hoảng của Chủ nghĩa Lịch sử” (Krisis des Historismus).23 Troeltsch chấp nhận chủ nghĩa lịch sử như một cách tiếp cận học thuật hợp lệ đối với hiện thực văn hóa, nhưng vẫn tin rằng nghiên cứu lịch sử, không phải là chìa khóa để tiếp thu văn hóa, dần dần cho thấy tính tương đối và do đó không hợp lệ của các giá trị và niềm tin của Văn hóa phương Tây. Nhưng chủ nghĩa lịch sử, mà sự thừa nhận rằng tất cả các ý tưởng và giá trị của con người đều chịu quy định về phương diện lịch sử và đều phải thay đổi, đã trở thành thái độ thống trị, không thể tránh khỏi của thế giới phương Tây trong thế kỷ 19 và 20. Đối với Karl Mannheim, nó đã trở thành chính điều kiện của sự tồn tại hiện đại.24 Chủ nghĩa lịch sử giờ đây là một phần của quá trình trí thức hóa và sự tan vỡ ảo mộng mà Max Weber đã nói tới.25 Tuy nhiên, Mannheim coi đó không phải là kết quả của sự nghiên cứu khoa học mà là kết quả của sự biến đổi xã hội của thế giới hiện đại với sự phá hủy các chuẩn mực truyền thống.

Cuộc thảo luận về tính tương đối của các giá trị lịch sử đã được Friedrich Nietzsche khởi xướng - mặc dù ông không sử dụng thuật ngữ này - trong tiểu luận Vom Nutzen und Nachteil der Historie für das Leben – Luận về Lợi ích và Bất lợi của Lịch sử đối với Cuộc sống (1874), 26 trong đó ông nghiêm khắc đả phá lối nghiên cứu lịch sử mang tính kinh viện như đã được phát triển trong giới hàn lâm Đức vì tính không liên quan và tác động làm tê liệt hành động con người của nó. Đối với phần lớn nền văn hóa tư sản thế kỷ 19, lịch sử đã tạo thành chiếc chìa khóa để hiểu vạn vật của con người, nhưng đối với Nietzsche, một mặt dường như không có lối thoát từ lịch sử và mặt khác lịch sử không có ý nghĩa khách quan. Troeltsch, là một nhà thần học, đã phải đối mặt với song đề này trong Die Absolutheit des Christentums und die ReligionsgeschichteTuyệt đối tính của Cơ đốc giáo và Lịch sử Tôn giáo (1902),27 trong đó ông thừa nhận rằng việc nghiên cứu lịch sử Cơ đốc giáo đã phá hủy tuyên bố của Cơ đốc giáo là một tôn giáo chân chính, và chỉ ra thực chất đa nguyên luận của niềm tin. Nhưng Troeltsch không muốn từ bỏ đức tin Cơ đốc giáo cũng như niềm quyến luyến văn hóa phương Tây. Đối với ông, có hai cách thoát khỏi song đề này, nhưng cả hai cách đều không thuyết phục về mặt trí tuệ: Trước hết, điều mà Troeltsch bác bỏ, là từ bỏ cách tiếp cận lịch sử kinh viện đối với việc nghiên cứu tôn giáo và văn hóa. Các nhà thần học Tin lành, trong đó có Albrecht Ritschl,28 đã chọn cách nhấn mạnh tôn giáo chỉ dựa vào đức tin. Karl Barth và các nhà thần học về khủng hoảng, Rudolf Bultmann, Friedrich Gogarten, và Reinhold Niebuhr ở Mỹ, đã đi xa hơn. Kết hợp nhấn mạnh vào tha tính tổng thể của Thiên Chúa với một cái nhìn hoàn toàn bi quan về bản chất con người và của quá trình lịch sử, họ phủ nhận các giá trị của văn hóa tư sản hiện đại đã làm nên một thành phần chủ chốt trong thuyết Kulturprotestantismus – Tin lành Văn hóa của Troeltsch.29

Troeltsch đã chọn cách giải quyết “Khủng hoảng của Chủ nghĩa lịch sử” bằng cách đạt đến sự tổng hợp các giá trị phương Tây thông qua nghiên cứu lịch sử về văn hóa phương Tây.30 Tuy nhiên, thứ niềm tin vào phẩm giá đặc biệt của thế giới phương Tây hiện đại mà Troeltsch đã bám víu ngay sau Thế chiến Thứ nhất kia, ngày càng không thể đứng vững được không chỉ đối với các nhà thần học về khủng hoảng, sẵn sàng hy sinh trí tuệ của mình cho đức tin, mà còn đối với cả các nhà tư tưởng khác như Max Weber và Martin Heidegger, là những người đã nhấn mạnh tính lịch sử tổng thể của tồn tại người với các hàm ý tương đối luận của nó. Đối với Heidegger, có một lối thoát trong chốn nương náu an toàn của Hữu thể siêu vượt tư duy logic,31 một tàn dư của chính cái truyền thống siêu hình mà Heidegger tìm cách phủ nhận; nhưng đối với Weber, cam kết tuân theo logic khảo sát khoa học, tư duy hợp lý và khoa học, lịch sử cũng không đưa ra được lời đáp cho các câu hỏi về giá trị nhưng lại bộc lộ một thế giới phi lý về phương diện đạo đức.32

Đối với Weber, cũng như Rickert,33 những câu hỏi mà các học giả và nhà khoa học đặt ra luôn xuất phát từ quan điểm giá trị của họ; còn đối với Mannheim thì toàn bộ tri ​​thức đều phản ánh bối cảnh văn hóa và xã hội cụ thể gắn liền với lịch sử. Sự hiểu biết của chúng ta về hiện thực lại không phản ánh nó thực sự là gì, mà chỉ trả lời những câu hỏi được các học giả và nhà khoa học đặt ra về nó.34 Điều còn tồn tại không thể lay chuyển đối với Weber không phải là những kết luận của việc khảo sát khoa học, được liên tục xem lại bởi các nghiên cứu sâu hơn, mà lại là thứ logic của sự khảo sát khoa học, vừa là sản phẩm cụ thể của nền văn minh phương Tây, lại vừa có giá trị phổ quát.35 Từ một quan điểm phần nào tương tự, Hintze khi chỉ trích nỗ lực của Troeltsch nhằm vượt qua tương đối luận lịch sử thông qua lịch sử, đã phân biệt chủ nghĩa lịch sử như một Weltanschauungthế giới quan theo nghĩa của Troeltsch và chủ nghĩa lịch sử như một cấu trúc phạm trù logic (einer logischen Kategorialstruktur).36 Thế giới quan là một trong nhiều loại hình triết học, còn cấu trúc phạm trù logic thì có giá trị khoa học.

Karl Heussi trong Die Krisis des HistorismusKhủng hoảng của Chủ nghĩa Lịch sử (1932) một lần nữa lại kiểm kê các cuộc thảo luận.37 Bốn năm sau, F. Meinecke trong Die Entstehung des Historismus – Sự xuất hiện của Chủ nghĩa Lịch sử (1936) đã đặt cho thuật ngữ này một hàm ý rất khác, lạc quan, tìm cách vượt qua cuộc khủng hoảng của chủ nghĩa lịch sử bằng cách nhấn mạnh các khía cạnh tích cực của cách tiếp cận lịch sử triệt để. Meinecke đã xác định cách tiếp cận này bằng một truyền thống trí tuệ đặc biệt của Đức đã thay thế các quan niệm cổ điển của phương Tây về quy luật tự nhiên bằng một quan điểm di truyền tập trung vào vai trò của tính duy nhất và “tính cá nhân” trong lịch sử. Mặc dù chắc chắn không ủng hộ Chủ nghĩa xã hội quốc gia, nhưng một lần nữa vào năm 1936, ba năm sau khi Hitler cầm quyền và ngay sau khi ban hành luật chủng tộc Nuremberg, Meinecke tuyên bố tính ưu việt của truyền thống văn hóa Đức và thấy trong truyền thống chủ nghĩa lịch sử Đức “Giai đoạn đạt được sự hiểu biết cao nhất về mọi thứ thuộc con người,” sự phát triển trí tuệ quan trọng nhất ở châu Âu kể từ sau cuộc Cải cách Tin lành (thế kỷ XVI).38 Trở lại với chủ nghĩa tân Platonism của thời kỳ cổ điển Đức, đặc biệt là với Goethe, Meinecke đã tìm cách vượt qua tương đối luận của chủ nghĩa lịch sử trong một thế giới văn hóa thanh tao, trong đó chính trị, vốn đã chiếm một vị trí quan trọng trong lịch sử tư tưởng trước đó của ông, giờ dường như không còn quan trọng nữa sau khi ông thất vọng về tiến trình lịch sử thế kỷ XX. Cốt lõi của chủ nghĩa lịch sử là thừa nhận các khía cạnh phi lý và tự phát của cuộc sống mà truyền thống tư tưởng duy lý phương Tây không thể giải quyết được.

Bên ngoài thế giới nói tiếng Đức, chủ nghĩa lịch sử đóng một vai trò quan trọng trong tư tưởng Ý thế kỷ 20 với Benedetto Croce đại diện quan trọng nhất của nó.39 Các lập trường tương tự với storicismo assoluto – chủ nghĩa lịch sử tuyệt đối của Croce đã được Jose Ortega y Gasset40 ở Tây Ban Nha và R. G. Collingwood41 ở Anh trình bày chi tiết. Giống như Meinecke, họ cho rằng một thế giới quan tự nhiên luận hoàn toàn không đủ để hiểu được thực tại của con người vì tính duy nhất và tính cá nhân của thế giới lịch sử. Họ đồng ý rằng “lịch sử về cơ bản là một hành động của tư duy” (Croce); nhưng không giống Meinecke tin rằng cái cá nhân là “khó nói ra được”, do đó không dễ nghiên cứu một cách duy lý, Croce và Collingwood tin rằng bản thân tư tưởng đã có một cấu trúc duy lý, do đó tránh được chủ quan luận cấp tiến tiềm ẩn trong khái niệm Verstehen - hiểu rõ của chủ nghĩa lịch sử Đức. Khi công nhận lịch sử là “câu chuyện về tự do”42, chủ nghĩa lịch sử của Croce gần với chủ nghĩa lịch sử của Hegel hơn là của Ranke hay Meinecke.

Tính gần gũi ấy với Hegel đã được duy trì trong các cuộc thảo luận sau đó của Ý về chủ nghĩa lịch sử. Cùng thời với Croce, Giovanni Gentile nhấn mạnh tính trung tâm trong quan niệm của Hegel về nhà nước và do đó đã tạo cho chủ nghĩa lịch sử một định hướng chuyên chế về bản chất tương thích với học thuyết Fascist. Antonio Gramsci trong những năm 1920 và 1930 đã diễn giải chủ nghĩa lịch sử theo khuôn khổ chủ nghĩa Marxist như là một triết học về sự can dự chính trị. Trong những thập kỷ gần đây, cuộc thảo luận đã đi theo ba hướng rất khác nhau. Việc duy trì tính liên tục với Croce, Giuseppe Galasso đã coi storicismo assoluto - chủ nghĩa lịch sử tuyệt đối của Croce là “câu chuyện về quyền tự do”, một ý nghĩa tự do và dân chủ được ưa thích hơn như một cách tiếp cận chính trị và trí tuệ đối với các khoa học xã hội phân tích hiện đại, chủ nghĩa Mác và Chủ nghĩa lịch sử.43 Khi từ bỏ Croce, Fulvio Tessitore đã đồng nhất bản thân với Historismus - chủ nghĩa lịch sử của Meinecke và nhấn mạnh tầm quan trọng của truyền thống Đức đối với tư tưởng và văn hóa Ý.44 Pietro Rossi cũng nhấn mạnh đến sự đóng góp của truyền thống Đức đối với tư tưởng xã hội hiện đại, nhưng lại chọn Max Weber là nhà tư tưởng quan trọng nhất.45 Mới đây, Giuseppe Cacciatore, xuất thân từ lập trường Marxist, đã xem xét lại một cách nghiêm túc các cuộc thảo luận của người Đức từ Wilhelm von Humboldt đến Ernst Cassirer.46

Cũng cần nhắc đến hai cách sử dụng khác đối với thuật ngữ này. Karl Popper trong Sự Khốn cùng của Chủ nghĩa Lịch sử đã đồng nhất thuật ngữ này với những nỗ lực của Hegel và Marx nhằm hình thành các quy luật phát triển lịch sử vốn được các nhà Marxist sử dụng để hợp thức sự kiểm soát độc đoán của họ cho các mục đích tối hậu.47 Việc sử dụng thuật ngữ này của Popper đã bị chỉ trích nặng nề là mang tính đặc ứng, nhưng trên thực tế, ông đã phân biệt giữa “duy sử luận” (Historizismus) và “chủ nghĩa lịch sử” (Historismus) theo nghĩa tiếng Đức vào thời điểm mà “duy sử luận” vẫn là thuật ngữ chủ nghĩa lịch sử hiện nay trong thế giới nói tiếng Anh. Chỉ trong những năm 1940, dưới tác động của storicismo - chủ nghĩa lịch sử của Croce, thì “chủ nghĩa lịch sử” thường thay thế “duy sử luận” trong tiếng Anh.48 Bài luận về “chủ nghĩa lịch sử” trong Đại bách khoa Toàn thư Liên Xô,49 nhấn mạnh “sự phát triển hợp quy luật”, chứng tỏ rằng chủ nghĩa Marxist-Leninist, đối tượng chỉ trích của Popper, hiểu thuật ngữ “chủ nghĩa lịch sử” như Popper đã định nghĩa nó.

Gần đây nhất, thuật ngữ “Chủ nghĩa lịch sử Mới” đã xuất hiện trong các cuộc thảo luận văn chương Mỹ. Các cuộc thảo luận này ít có tài liệu tham khảo về các cuộc thảo luận ở lục địa trước đây. Họ tìm cách vượt qua sự đàn áp của chủ thể và của lịch sử trong tư tưởng cấu trúc luận và hậu cấu trúc luận. Họ chia sẻ sự bác bỏ của chủ nghĩa hậu hiện đại đối với chủ nghĩa lạc quan lịch sử vì nó được chứa đựng trong cả tư tưởng của chủ nghĩa lịch sử Đức và chủ nghĩa Mác, nhưng lại thúc giục thừa nhận “tính đặc thù lịch sử và văn hóa của các ý tưởng” phần lớn đã bị bỏ mất trong tư tưởng hậu hiện đại.

Khủng hoảng của Chủ nghĩa lịch sử

Otto Gerhard Oexle nhằm cố định nghĩa chủ nghĩa lịch sử đã phân biệt giữa Chủ nghĩa lịch sử IChủ nghĩa lịch sử II.51 Chủ nghĩa lịch sử I đề cập đến các cuộc luận chiến triết học vào cuối thế kỷ XIX và phần ba đầu tiên của thế kỷ XX, đánh đồng tri ​​thức lịch sử với tương đối luận và nhận thấy trong tương đối luận một vấn đề tồn tại cần phải giải quyết nếu cuộc sống văn minh tiếp tục. Một số tác phẩm gần đây, Historismus: Zur Geschichte des Begriffs und des Problems - Chủ nghĩa lịch sử: Lịch sử Khái niệm và Vấn đề của Annette Wittkau (1992), Modernity and Crisis: German Philosophy and the Problems of Historicism 1880-1930  - Hiện đại và Khủng hoảng: Triết học Đức và những vấn đề của chủ nghĩa lịch sử 1880-1930 (bản thảo hoàn thành năm 1993, chưa được xuất bản) của Charles R. Bambach, và một số bài viết của Otto Gerhardt Oexle52 và Wolfgang Hardtwig53 đã xem xét chủ nghĩa lịch sử từ góc độ này. Các nghiên cứu dành cho cái mà Oexle gọi là Chủ nghĩa lịch sử II đề cập đến một loạt các hiện tượng rất khác, với nghề lịch sử của Đức khi nó xuất hiện vào thế kỷ XIX. Khi sử dụng thuật ngữ Kuhnian,54 Jörn Rüsen và các học trò của ông, Horst-Walter Blanke Schweers, Friedrich Jaeger, Dirk Fleischer, và Hans-Jürgen Pandel trong một loạt công trình nghiên cứu55 đã coi chủ nghĩa lịch sử như một “hệ mẫu” - mà thuật ngữ của Rüsen dùng là “ma trận bộ môn”56- dành cho các nghiên cứu lịch sử. Ulrich Muhlack trong Geschichtswissenschaft im Humanismus und in der Aufklärung: Die Vorgeschichte des Historismus - Lịch sử trong chủ nghĩa nhân văn và Kỷ nguyên Ánh sáng: Tiền sử của Chủ nghĩa lịch sử (1991), tiếp theo là một tập về chủ nghĩa lịch sử thích hợp, tương tự coi chủ nghĩa lịch sử là khoa học lịch sử (Geschichtswissenschaft).57 Jeremy Telman, một người Mỹ, đã hoàn thành một luận văn đặt nhiều giả định cơ bản khác nhau của văn liệu này vào sự xuất hiện của nghề lịch sử.58

Sức mạnh công trình của Wittkau nằm ở chỗ bà đã xem xét vấn đề của chủ nghĩa lịch sử vì nó phải đương đầu không chỉ giữa các triết gia mà còn trong các lĩnh vực khác: thần học, luật, kinh tế học, xã hội học và lịch sử. Tuy nhiên, người ta thấy rõ một điều trong cuốn sách của Wittkau cũng như trong phần lớn văn liệu Đức mà chúng tôi đã dẫn, đó là sự lãng quên gần như hoàn toàn đối với khối văn liệu không phải tiếng Đức. Rốt cuộc, các vấn đề của chủ nghĩa lịch sử là một phần của cuộc khủng hoảng ý thức rộng lớn hơn trong thế giới phương Tây hiện đại. Trong trường hợp của Wittkau, không một chú thích cuối trang hoặc một mục thư mục nào đề cập đến các nhà tư tưởng không phải người Đức-Croce, Collingwood, và Ortega y Gasset không xuất hiện và cũng không trích dẫn bất kỳ tài liệu quan trọng nào bằng tiếng Anh hoặc tiếng Ý. Đối với bà cũng như đối với Oexle và ở mức độ thấp hơn là Hardtwig, nguồn gốc khủng hoảng của chủ nghĩa lịch sử nằm ở việc áp dụng ngày càng tăng các phương pháp khoa học vào nghiên cứu lịch sử. Mục đích cuốn sách của bà là cho thấy, “hiện tượng chủ nghĩa lịch sử được kết nối chặt chẽ trong tất cả các ngành khoa học văn hóa với việc thực hiện phương pháp khoa học-thực nghiệm tri thức và trong cuộc đối đầu (Auseinandersetzung) với chủ nghĩa lịch sử, mà mối quan tâm cơ bản là tương đối hóa các giá trị là kết quả của những tiến bộ trong tri ​​thức lịch sử [geschichtswissenschaftliche Erkenntnis].”59

Wittkau đã đúng khi khẳng định rằng những nhân vật chính mà bà đề cập trong cuốn sách của mình, ví dụ, Troeltsch và thậm chí cả Weber, đã thấy vấn đề theo các khuôn khổ này. Nhưng liệu cuộc khủng hoảng có thực sự chủ yếu là kết quả của những tiến bộ của “tri thức khoa học” như Wittkau vẫn duy trì? Phê phán của Nietzsche đối với học thuật lịch sử đã bị Wittkau xem xét quá nghiêm khắc và quá thiếu óc phê phán - và tương tự như vậy bởi Oexle. Wittkau cho rằng quá dễ dàng khi cho rằng nghiên cứu lịch sử đã phá hủy các giá trị đã được xác lập. Nhưng trên thực tế, các nghiên cứu lịch sử đã được chuyên nghiệp hóa nói chung vào thế kỷ XIX đã dẫn đến hợp thức hóa các giá trị đã được xác lập, hoặc trong trường hợp của các tác giả xã hội chủ nghĩa, dân tộc chủ nghĩa hoặc phân biệt chủng tộc đối với tính hợp thức của các giá trị mới. Khẳng định của Nietzsche cho rằng nghiên cứu lịch sử được thực hành trong thời ông đã làm tê liệt hành động của con người đơn giản là không đúng. Người ta có thể hy vọng rằng nghiên cứu lịch sử phê phán sẽ gỡ bỏ mặt nạ những huyền thoại đã làm công cụ cho lịch sử phục vụ các hệ tư tưởng chính trị và xã hội, nhưng nhìn chung thì lại trái ngược. Nghiên cứu lịch sử củng cố các huyền thoại lịch sử. Tương đối luận văn hóa phát triển vào thời đó với việc đặt vấn đề về các chuẩn mực tôn giáo, xã hội và đạo đức cũ hơn là kết quả của sự biến đổi của xã hội hiện đại hơn là nguyên nhân của nó. Như Karl Mannheim đã diễn đạt về điều đó, “Việc viết sử không mang lại cho chúng ta chủ nghĩa lịch sử, đúng hơn là quá trình lịch sử đã biến chúng ta trở thành những kẻ theo chủ nghĩa lịch sử.”60

Đối với Wittkau, Weber, thực ra không sử dụng thuật ngữ này, nhưng lại giải quyết vấn đề mà chủ nghĩa lịch sử đã đặt ra về sự hòa hợp giữa khoa học và các giá trị một lần và mãi mãi, cho thấy rằng “tri thức trong các khoa học văn hóa [kulturwissenschaftliche Erkenntnis] không đưa ra lời đáp cho những câu hỏi về các chuẩn mực, nhưng chỉ bao gồm tri ​​thức về các sự kiện.”61 Bà lưu ý, từ nay “tri ​​thức giá trị trở thành một vấn đề của niềm tin cá nhân.”62 Tuy nhiên theo tôi, điều đó khiến Weber trở thành kẻ quá thực chứng luận. Verstehende Soziologie - Xã hội học Thấu hiểu của Weber đã giả định rằng các khoa học văn hóa hoặc, sử dụng thuật ngữ của Weber, các khoa học xã hội, không xử lý các “sự kiện” (Tatsachen) mà là các hệ thống ý nghĩa đòi hỏi các phương pháp định tính “thấu hiểu”. Vì vậy, đối với Weber khoa học xã hội đã vượt khỏi các sự kiện thực nghiệm để đến với các thực thể ý nghĩa. Như chúng ta đã biết, đối với Weber các thực thể này có thể hiểu được không phải thông qua quan sát trực tiếp mà bằng các “loại hình lý tưởng” mà nhà khoa học xã hội đã xây dựng để áp đặt một cấu trúc lên sự hỗn loạn của dữ liệu thực nghiệm. Không bao giờ chấm dứt suy đoán, như Wittkau tin Weber đã làm, trên thực tế, ông đã trình bày một hệ thống suy lý cao độ mà ông tìm cách làm cho các quá trình xã hội trở nên dễ hiểu. Weber cũng không phân biệt giữa sự kiện và giá trị với tư cách tuyệt đối như nó xuất hiện; chúng ta phải cẩn thận để không nhìn nhận tuyên bố của Weber một cách thiếu phê phán theo bề mặt của nó. Đối với ông, giá trị phụ thuộc vào các quyết định, nhưng phải trong chừng mực các quyết định được đưa ra đối mặt với thực tại khắc nghiệt, đối với Weber, chúng được xác định bởi một thế giới xung đột khách quan mang một giá trị Darwinist Xã hội và màu sắc nam tính cởi mở, khiến cho Weber tán thành nước Đức phấn đấu để đạt được quyền lực thế giới không chỉ dựa trên các quyết định cá nhân mà còn dựa trên sự phán quyết khoa học63.

Oexle và Hardtwig đã tiếp nối những dòng mạch tương tự như của Wittakau khi nhấn mạnh rằng thành tựu vĩ đại của Weber nằm ở việc hiểu rằng đó là phương pháp luận chứ không phải là những phát hiện mang lại cho khoa học - bao gồm cả khoa học xã hội – đặc trưng khoa học của nó. Do đó, khoa học trùng khớp với “nghiên cứu” (Forschung). Với cái nhìn sâu sắc này, Hardtwig lưu ý, khoa học được hiểu như vậy trở nên đối lập không thể thay đổi đối với các quan niệm mang tính chủ nghĩa lịch sử cũ hơn về lịch sử, coi lịch sử là nguồn gốc của văn hóa (Bildung) và giao cho khoa học lịch sử nhiệm vụ xác lập các chuẩn mực.64 Việc chuyển từ lịch sử là văn hóa Bildung sang lịch sử là nghiên cứu Forschung, mà cả Hardtwig và Oexle đều kiên trì, bắt đầu trong tiến trình thế kỷ XIX khi lịch sử tự coi mình là một ngành học nghiêm ngặt. Không chỉ Oexle và Hardtwig mà cả Rüsen và các sinh viên65 của ông cũng chấp nhận vinh quang của Droysen khi nhận ra đặc trưng nghiên cứu của khoa học lịch sử trong công thức nổi tiếng của ông: “Bản chất của phương pháp lịch sử bao gồm sự thấu hiểu thông qua nghiên cứu” (Das Wesen der historischen Methode ist forschend zu verstehen). Vì vậy, đối với Droysen, mục đích của nghiên cứu khoa học không phải là tri ​​thức thực nghiệm mà, nói theo ngôn ngữ của ông là “diễn giải” (Interpretation). Nhưng việc diễn giải ý nghĩa chỉ có thể xảy ra đối với Droysen bởi vì ông, cũng như Ranke, cho rằng có những sức mạnh cơ bản tạo nên sự mạch lạc cho lịch sử. Như Hardtwig quan sát, Droysen một mặt nhận ra rằng nhà sử học không chỉ đối đầu với đối tượng của mình mà là một phần của nó,66 theo cách nói của Droysen, ở chỗ “nội dung của bản thân chúng ta [Ich] theo nhiều cách là một kết quả [Resultat] của lịch sử.”67 Nhưng mặt khác, Droysen cũng tin rằng có sự hài hòa cơ bản giữa chủ thể và khách thể giúp nhà sử học có được tri ​​thức vững chắc. Do đó, người ta khó có thể kiên trì, như Wittkau đã làm, rằng Droysen đã tự giải phóng mình khỏi một triết học suy lý về lịch sử.68

Oexle và Hardtwig khẳng định một cách đúng đắn rằng chủ nghĩa lịch sử cũ có tính khách quan luận, mặc dù, hoặc có lẽ vì những tiền giả định duy tâm luận của nó. Weber dứt khoát bác bỏ khách quan luận này bắt nguồn từ tiền đề Kantian cho rằng thực tại chỉ có thể được biết đến bằng các phạm trù lý trí của chúng ta, không hề là một vật tự nó. Không có giá trị hợp lệ phổ quát nào; mặt khác “nếu không có các nhà nghiên cứu định giá các ý tưởng [Wertideen], thì sẽ không có nguyên tắc lựa chọn chủ đề, không có tri ​​thức có ý nghĩa về thực tại cá nhân cụ thể”. Do đó, khi Weber coi khoa học xã hội là “khoa học về thực tại” (Wirklichkeitswissenschaft), thì ông cũng thừa nhận rằng không có “phân tích khoa học ‘khách quan’ nào về đời sống văn hóa… độc lập với những quan điểm đặc biệt và ‘một chiều’] [Gesichtspunkte].”69

Nhưng câu hỏi vẫn còn là liệu Weber có thực sự giải phóng bản thân khỏi những giả định mang tính suy lý về khách tính và sự gắn kết lịch sử là trung tâm của quan điểm lịch sử chủ nghĩa ở mức độ mà Oexle và Hardtwig vẫn kiên trì hay không. Theo Weber, một mặt, không ai có thể tin rằng thế giới có một ý nghĩa nào nữa (Sinn),70 nhưng mặt khác, ông lại tin chắc theo kiểu Tân-Kantian rằng tri ​​thức hợp lý và khách quan là có thể. Vì vậy, đối với ông, chính đặc trưng của khoa học và nghiên cứu khoa học loại trừ bất kỳ nguyên tắc cứu cánh nào, nhưng đồng thời lại đảm bảo cho sự tiến bộ. Mặc dù một tác phẩm nghệ thuật tuyệt vời không bao giờ lỗi thời, nhưng chắc chắn các phát hiện khoa học thì có. “Công trình khoa học gắn buộc với quá trình tiến bộ [nhấn mạnh của Weber].”71 Đối với Weber, cái khiến cho tiến bộ khả thể chính là niềm tin Kantian vững chắc của ông vào tính hiệu lực của phương pháp khoa học. Ông thừa nhận rằng về mặt lịch sử, phương pháp này gắn liền với một văn hóa cụ thể, văn hóa của phương Tây, nhưng đồng thời ông cũng tin chắc rằng “thực tế đang và sẽ vẫn chân xác là ở chỗ bằng chứng đúng đắn về phương pháp luận trong các khoa học xã hội, nếu nó đạt được mục đích, phải được ngay cả một người Trung Quốc thừa nhận là đúng, mặt khác, người đó có thể điếc đặc với quan niệm của chúng ta về mệnh lệnh đạo đức.”72 Tuy nhiên, người ta có thể đặt câu hỏi, liệu hình thức suy luận này có dễ hiểu đối với một nhà thần bí thời trung cổ hoặc một thợ săn du mục hay không. Như công trình của Thomas Kuhn73 cho thấy, lịch sử khoa học trong những năm gần đây đã đặt vấn đề về những giả định cơ bản của Weber triệt để hơn nhiều cách xử lý của Wittkau, Oexle và Hardwig đối với ông gợi ý. Hơn nữa, bất chấp việc ông kiên định rằng thế giới không có ý nghĩa (Sinn) theo nghĩa khách quan, quan niệm của Weber về sự thống nhất của phương pháp khoa học và “quá trình trí tuệ hóa mà chúng ta đã trải qua hàng ngàn năm”74 vẫn đem lại cho lịch sử một đại tự sự. Vì vậy, lịch sử vẫn có tính mạch lạc, ngay cả khi không phải là một ý nghĩa.

Charles R. Bambach gần đây đã xem xét một khuynh hướng trong tư tưởng của người Đức, triệt để đặt vấn đề về những tàn dư của sự gắn kết này như chúng chứa đựng trong tư tưởng Tân-Kantian.75 Nửa đầu của bản thảo nói về nguyên cớ quen thuộc, các nhà triết học Tân-Kantian, Dilthey, Windelband, và Rickert, đối với họ các vấn đề được đưa ra bởi các nghiên cứu lịch sử thuộc  thực chất nhận thức luận và đòi hỏi một giải pháp nhận thức luận. Nửa sau của bản thảo đề cập đến một cuộc thảo luận được giới thiệu bởi hiện tượng học (Husserl) và thần học khủng hoảng (Barth), trong đó những câu hỏi cơ bản không còn liên quan đến tính chắc chắn của tri thức mà là việc tìm kiếm ý nghĩa. Barth, dựa vào Kierkegaard và Nietzsche, đã chỉ ra sự rỗng tuếch của thứ lý tưởng Bildung - văn hóa, đối với Troeltsch vẫn còn thiêng liêng và đáng được bảo tồn; Husserl hiểu nguyên nhân thực sự của biến động văn hóa là sự khủng hoảng của bản thân khoa học, tính bất tương thích giữa các khẳng định khách quan của khoa học và yếu tố chủ quan của thế giới-sống.

Đối với Bambach, nhân vật chủ chốt trong cuộc thảo luận này không còn là Weber, ông thậm chí còn không được nhắc đến, mà là Heidegger. Bằng cách lặp lại câu hỏi nhận thức luận của nhà lịch sử chủ nghĩa về khách tính của tri thức lịch sử như một câu hỏi hữu thể luận về ý nghĩa của hiện hữu lịch sử, Heidegger - Bambach lập luận - bắt đầu giải cấu trúc toàn bộ diễn ngôn truyền thống của triết học phương Tây kể từ thời Socrates. Quan niệm về thứ cogito tự-ý thức, tự chủ, cốt lõi của siêu hình học hiện đại, đã bị tuyên bố phá sản. Thứ đại tự sự về nhất tính, ý nghĩa và tổng thể tính trong một thực tại được coi là lịch sử giờ đây đã được thay thế  bằng nhận thức về sự phân mảnh, khủng hoảng và tan vỡ. Bambach cân nhắc xem ở mức độ nào Heidegger, khi “rũ b[ỏ] siêu hình học khủng hoảng-tư duy, đã khởi xướng một loại khủng hoảng mới, về phạm vi chính trị,”76 dẫn ông đến Chủ nghĩa Xã hội Quốc gia. Đối với tôi, dường như cả Husserl và Heidegger đều không rũ bỏ siêu hình học phương Tây một cách triệt để như Bambach gợi ý. Husserl, trong quá trình tìm kiếm một khoa học nghiêm ngặt có thể vượt qua sự phân mảnh của thực tại mà khoa học thực nghiệm tạo ra, đã nương thân trong kiếm tìm bản chất (Wesensschau), trong khi Heidegger giải khuây trong một Sein- Hữu thể, đem lại Geborgenheit - sự chở che khỏi những rắc rối chính trị và trí thức khó ưa của thế giới hiện đại. Do đó, hiện tượng luận của Heidegger không phải là một cuộc đối đầu quả cảm với những phi lý của tồn tại hiện đại mà chỉ là một cuộc đào tẩu chẳng chút dũng khí.

______________________________________________

(Còn nữa…)

Nguồn: Iggers, Georg G. (1995). Historicism: The History and Meaning of the Term, In Journal of the History of Ideas, Vol. 56, No. 1 (Jan., 1995), pp. 129-152, Published by: University of Pennsylvania Press.

Tác giả: Georg Gerson Iggers (7 tháng 12 năm 1926 - 26 tháng 11 năm 2017) là một nhà sử học người Mỹ về châu Âu hiện đại, sử học và lịch sử trí thức châu Âu. Iggers sinh ra ở Hamburg, Đức, vào năm 1926. Là một người Do Thái gốc Đức, ông cùng gia đình trốn khỏi Đức đến Mỹ vào năm 1938, chỉ vài tuần trước lễ hội Kristallnacht. Iggers thuộc về những người trẻ tuổi từ Đệ Tam Đế chế, những người sau này khi còn sống, với tư cách là học giả hàn lâm ở Hoa Kỳ, đã có tác động quyết định đến việc xem xét lại lịch sử của Đức theo cách phê phán. Năm 1957, Iggers trở thành người anh em Da trắng đầu tiên khởi xướng Phi Beta Sigma, Inc, Hội Huynh đệ Da đen trong lịch sử. Ông là giáo sư thỉnh giảng tại Technische Universität Darmstadt vào năm 1991, là Giáo sư Danh dự xuất sắc tại Đại học Buffalo và năm 2007 nhận Huân chương Thập tự giá Hạng Nhất của Cộng hòa Liên bang Đức. Iggers đã nhận được Giải thưởng Humboldt, các bằng tiến sĩ danh dự của Đại học Richmond, Technische Universität Darmstadt, và Cao đẳng Philander Smith, và học bổng từ Hiệp hội Triết học Hoa Kỳ, Quỹ Fulbright, Quỹ Guggenheim, Quỹ Quốc gia về Nhân văn và Quỹ Rockefeller. Ông đặc biệt được chú ý nhờ các bài viết về sử học. Ông mất ngày 26 tháng 11 năm 2017, do biến chứng xuất huyết não.

Chú dẫn

I should like to dedicate this article to Ernst Schulin in honor of his sixty-fifth birthday.

1. On the history of the term, see Dwight E. Lee and Robert N. Beck, “The Meaning of

‘Historicism,’” American Historical Review, 59 (1953-54), 568-77; Ernst Rothacker, “Das Wort ‘Historismus,’” Zeitschrift fur deutsche Wortforschung, 16 (1960), 3-6; Antoni, Dallo storicismo alla sociologia (Florence, 1940) and Lo storicismo (Torino, 19682); B. A. Grushin, “Historicism” in Great Soviet Encyclopedia, a translation of the third edition (New York, 1970), X, 88-89; Donald R. Kelley, Foundations of Modern Historical Scholarship: Language, Law, and History in the French Renaissance (New York, 1970), 1-15; Maurice Mandelbaum, History, Man, & Reason: A Study in Nineteenth-Century Thought (Baltimore, 1971), particularly 41-140; Georg G. Iggers, “Historicism” in Dictionary of the History of Ideas (New York, 1973), II, 456-64; Otto Gerhard Oexle, “‘Historismus.’ Uberlegungen zur Geschichte des Phanomens und des Begriffs,” Jahrbuch, Braunschweigische wissenschaftliche Gesellschaft (1986), 119-55.

2. Friedrich Schlegel, “Zur Philologie I,” in Kritische Friedrich-Schlegel-Ausgabe (Paderborn, 1981), XVI, 35-41.

3. Friedrich Freiherr von Hardenberg (Novalis, pseud.), Schriften, ed. Paul Kluckhohn (Jena, 1923), III, 173.

4. Feuerbach, review of “Kritik des Idealismus von F. Dorguth” (1838) in Sämtliche Werke (Leipzig, 1846-66), II, 143-44.

5. Braniss, Die wissenschaftliche Aufgabe der Gegenwart (Breslau, 1848), 113-38, 195, 200, 248.

6. Fichte, Die philosophischen Lehren von Recht, Staat und Sitte in Deutschland, Frankreich und England von der Mitte des achtzehnten Jahrhunderts bis zur Gegenwart (Leipzig, 1850), 469-70.

7. Prantl, Die gegenwärtige Aufgabe der Philosophie (Munich, 1852).

8. Rudolf Haym, Hegel und seine Zeit (Berlin, 1857).

9. Karl Werner, Giambattista Vico als Philosoph und gelehrter Forscher (Vienna, 1879).

10. Benedetto Croce, History as the Story of Liberty (London, 1941) and History, Its Theory and Practice (New York, 1921).

11. R. G. Collingwood, The Idea of History (Oxford, 1994).

12. See Georg G. Iggers, The German Conception of History: The National Tradition of Historical Thought from Herder to the Present (Middletown, 19832).

13. See “On the Relations of History and Philosophy (A Manuscript of the 1830s),” in Georg G. Iggers and Konrad Von Moltke (eds.), The Theory and Practice of History (Indianapolis, 1973), 29-32, and “On the Character of Historical Science (A Manuscript of the 1830s),” ibid., 33-46.

14. See Ranke's preface to his Histories of the Latin and Germanic Nations, ibid., 135- 38.

15. See his “The Great Powers,” ibid., 65-101 and “A Dialogue on Politics,” ibid., 102-30. On the role of the divine, see Wolfgang Hardtwig, “Geschichtsreligion-Wissenschaft als Arbeit-Objektivität,” Historische Zeitschrift, 252 (1991), 1-32. On the “finger of God” (Gottes Finger), see Sämtliche Werke, LIII-LIV, 665-66.  

16. See e.g., “The Great Powers,” ibid., 100.

17. Johann Gustav Droysen, Historik. Historisch-kritische Ausgabe, ed. Peter Leyh (Stuttgart, 1977), I, 221.

18. Hans Georg Gadamer, Truth and Method, tr. G. Barden and J. Cumming (New York, 1989), and Joachim Wach, Das Verstehen (3 vols; Hildesheim, 1966).

19. Wilhelm Dilthey, Der Aufbau der geschichtlichen Welt in den Geistes- wissenschaften, Gesammelte Schriften (Leipzig, 1924), VII, Wilhelm Windelband, “Geschichte und Naturwissenschaft (1894),” in Präludien (Tübingen, 1921), II; and Heinrich Rickert, Kulturwissenschaft und Naturwissenschaft (Tübingen, 1921).  

20. Peter Reill in Georg G. Iggers and James Powell (eds.), Leopold von Ranke and the Shaping of the Historical Discipline (Syracuse, 1990), 21-35. 21. See Annette Wittkau, Historismus. Zur Geschichte des Begriffs und des Problems (Göttingen, 1992), 61-80.

22. See “On the Epochs of Modem History,” The Theory and Practice of History,

23. Ernst Troeltsch, “Die Krisis des Historismus,” in Die Neue Rundschau, 33. Jahrgang der freien Bühne (Berlin, 1922), I, 572-90, and “Der Historismus und seine Probleme (1922),” Gesammelte Schriften (Aalen, 1961), IV.

24. Karl Mannheim, “Historismus,” in Kurt H. Wolf (ed.), Wissenssoziologie. Auswahl aus dem Werk (Neuwied, 1970).

25. Max Weber, “Science as a Vocation,” in From Max Weber: Essays in Sociology, ed. H. H. Gerth and C. Wright Mills (New York, 1946), 138-39.

26. Friedrich Nietzsche, Werke. Kritische Gesamtausgabe, ed. Giorgio Colli and Mazzino Montinari (Berlin, 1972) “Unzeitgemäße Betrachtungen,” I-III (1872-74), III, section 3.

27. Die Absolutheit des Christentums und die Religionsgeschichte (Tübingen, 1902).

28. Albrecht B. Ritschl, A Critical History of the Christian Doctrine of Justification and Reconciliation (Edinburgh, 1872).  

29. See, e.g., “Die theologische und religiöse Lage der Gegenwart,” in Gesammelte Schriften (Tübingen, 1913), II, 1-21.

30. Der Historismus und seine Überwindung (Berlin, 1924).

31. Sein und Zeit (Halle, 1929); Being and Time, tr. John MacQuarrie and Edward Robinson (New York, 1962).

32. Max Weber, “Politics as a Vocation,” H. H. Gerth and C. Wright (eds.), From Max Weber: Essays in Sociology (New York, 1946), 121.

33. Heinrich Rickert, Kulturwissenschaft und Naturwissenschaft (Tübingen, 1921).

34. Max Weber, “Objectivity in Social Science and Social Policy,” in Max Weber on the Methodology of the Social Sciences, ed. and tr. Edward A. Shils and Henry A. Finch (Glencoe, Ill., 1949), 170.

35. Max Weber, “Objektivität,” Wissenschaftslehre, 155.

36. Otto Hintze, “Troeltsch und die Probleme des Historismus,” in Soziologie und Geschichte (Gesammelte Abhandlungen), II, sect. 2, (Göttingen, 1964), 366.

37. Karl Heussi, Die Krisis des Historismus (Tübingen, 1932).

38. Die Entstehung des Historismus, in Werke (Munich, 1959), III, 4.

39. On the role of historicism in Italy and elsewhere, see Carlo Antoni, Lo Storicismo; Pietro Rossi, Storia e storicismo nelle filosofia contemporanea (rev. ed., Milan, 1991); and Giuseppe Cacciatore, Storicismo problematico e metodo critico (Naples, 1993) and his La lancia di Odino. Teorie e metodi della scienza storica tra Ottocento e Novecento, preface by Giuseppe Galasso (Milan, 1994); see also David Roberts, Benedetto Croce and the Uses of Historicism (Berkely, 1987).  

40. Jose Ortega y Gasset, Historical Reason (New York, 1984).

41. Collingwood, The Idea of History.

42. Benedetto Croce, History as the Story of Liberty (London, 1941).

43. See Giuseppe Galasso, Croce, Gramsci e altri storici (Milan, 1978) and Croce e lo spirito del suo tempo (Milan, 1991). On Croce, see also David D. Roberts, Benedetto Croce and the Uses of Historicism (Berkeley, 1987).

44. Fulvio Tessitore, I Fondamenti della filosofia politica di Humboldt (Naples, 1965); Meinecke, storico delle idee (Florence, 1969); Dimensioni dello storicismo (Naples, 1971); Filosofia e storiografia (Naples, 1985); Introduzione allo storicismo (Bari, 1991); Storiografia e storia della cultura (Bologna, 1991).

45. Pietro Rossi, Lo storicismo tedesco contemporaneo (Turin, 1956); also Storia e storicismo nella filosofia contemporaneo (1960; expanded ed. Milano, 1991).

46. Cacciatore, Storicismo problematico e metodo critico; also his Ragione e speranze nel marxismo. L'ereditd di Ernst Bloch (Bari, 1979), and La lancia di Odino: Teorie e metodi della storia in Italia e Germania tra '800 e '900 (Milan, 1994). The Italian discussions deserve more extensive treatment than I have been able to present here. I am thankful to Edoardo Tortarolo of Turin for introducing me to the recent Italian literature.

47. Karl R. Popper, The Poverty of Historicism (New York, 1961).

48. See Lee and Beck, “The Meaning of ‘Historicism’” (above, n. 1).

49 See B. A. Grushin, “Historicism” (above, n. 1).

50. See H. A. Veeser (ed.), The New Historicism (New York, 1989); Paul Michael Lützeler, “Der postmoderne Historismus in den amerikanischen Humanities,” Hartmut Eggert et al. (eds.), Geschichte als Literatur. Formen und Grenzen der Repräsentation von Vergangenheit (Stuttgart, 1990), 67-76; Brook Thomas, The New Historicism and Other Old-Fashioned Topics (Princeton, 1991); Richard Wilson and Richard Dutton (eds.), New Historicism and Renaissance Drama (London, 1992); John H. Zammito, “Are We Being Theoretical Yet? The New Historicism, the New Philosophy of History, and ‘Practicing Historians,’” Journal of Modern History, 65 (1993), 783-814.

51. See Otto Gerhard Oexle, “Historismus” (above, n. 1) and “Die Geschichts- wissenschaft im Zeichen des Historismus. Bemerkungen zum Standort der Geschichts- forschung,” Historische Zeitschrift, 238 (1984), 17-55; also Herbert Schnädelbach, Geschichtsphilosophie nach Hegel. Die Probleme des Historismus (Freiburg, 1974), making a similar distinction between two types of historicism.

52. See above, n. 41.

53. Wolfgang Hardtwig, “Geschichtsreligion-Wissenschaft als Arbeit-Objektivität,” Historische Zeitschrift, 252 (1991), 1-32.

54. T. S. Kuhn, The Structure of Scientific Revolutions (Chicago, 19702).

55. Including Jörn Rüsen, Grundzüge einer Historik (3 vols.; Göttingen, 1983-89) and Konfigurationen des Historismus (Frankfurt, 1993); Horst-Walter Blanke, Historio- graphiegeschichte als Historik (Stuttgart, 1991); Friedrich Jaeger and Jörn Rüsen, Geschichte des Historismus (Munich, 1992); Hans-Jürgen Pandel, Historik und Didaktik (Stuttgart, 1990).

56. See Grundziuge einer Historik (3 vols; Göttingen, 1983-89).

57. Munich.   

58. David Aaron Jeremy Telman, “Clio Ascendant: The Historical Profession in Nineteenth-Century Germany” (Ph.D. diss., Cornell University, 1993).

59. Annette Wittkau, Historismus (Göttingen, 1992), 22.

60. Karl Mannheim, “Historismus” (1924), Wissenssoziologie (Soziologische Texte, Band 28), Auswahl aus dem Werk, 2. Ausg. (Neuwied, 1970), 247f, and Das Problem einer Soziologie des Wissens (1925), ibid., 308ff.

61. Wittkau, Historismus, 132.

62. Ibid., 145.

63. Wolfgang J. Mommsen, Max Weber and German Politics (Chicago, 1984); Guenther Roth, “Between Cosmopolitanism and Ethnocentrism: Max Weber in the Nineties,” to appear in Telos, 96 (1993), 148-62.

64. Hardtwig, “Geschichtsreligion-Wissenschaft als Arbeit-Objektivität,” 24.

65. See above, n. 45; also Jörn Rüsen, Begriffene Geschichte. Genesis und Begründung der Geschichtstheorie J. G. Droysens (Paderborn, 1969). 66. Hardtwig, “Geschichtsreligion-Wissenschaft als Arbeit-Objektivität,” 21.

67. Zitiert in Oexle, Die Geschichtswissenschaft, 43.

68. Wittkau, Historismus, 59.

69. Max Weber, “Objectivity in Social Science,” 170.

70. Max Weber, “Science as a Vocation,” ibid. 137.

71. Ibid., 137.

72. “Objectivity in Social Science,” 58.

73. The Structure of Scientific Revolutions.

74. Weber, “Science as a Vocation,” 138.

75. “Modernity and Crisis: German Philosophy and the Problems of Historicism 1880- 1930,” unpublished manuscript.

76 Ibid., 236.

 

 

 

 


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét