Người dịch: Hà Hữu Nga
Chủ nghĩa Lịch sử như một Trào lưu Sử ký
Kể từ Entstehung des Historismus – Xuất hiện Chủ nghĩa lịch sử của Meinecke thì chủ nghĩa lịch sử ít được đồng nhất với các vấn đề của tương đối luận lịch sử hơn là với ngành học lịch sử khi nó phát triển vào thế kỷ XIX ở Đức và với việc chuyên nghiệp hóa các nghiên cứu lịch sử cũng đã trở thành một mô hình ở bên ngoài nước Đức. Tuy nhiên, cần phải lưu ý rằng không có sử gia nào trước Meinecke mô tả những gì họ đang làm là chủ nghĩa lịch sử. Từ đó, thuật ngữ này được áp dụng cho truyền thống học thuật của Đức là viết lịch sử. Lịch sử khi trở thành một bộ môn chuyên nghiệp ở Đức đã tiếp nhận rất nhiều cách thức và lối nhìn của các bộ môn khoa học khác, bao gồm cả những bộ môn trong các khoa học tự nhiên, các phương pháp khảo sát “khách quan” cần thiết để nâng nó lên cấp bậc của một khoa học nghiêm ngặt (Droysen ).77 Cam kết với khách tính này là trọng tâm của nghề lịch sử mới cũng như đối với các phân khúc khác của cộng đồng khoa học. Nhiệm vụ của nhà sử học, như Ranke đã đúc kết là cho thấy “nó đã xảy ra như thế nào” (wie es eigentlich gewesen.)78 Nó thừa nhận sự khác biệt cơ bản giữa các khoa học tự nhiên vốn tìm cách giải thích “cái chung hồi quy” và các khoa học lịch sử hoặc văn hóa vốn đòi hỏi các phương pháp tường giải để hiểu (Verstehen) những gì được coi là hành vi và thể chế của con người phản ánh các chùm ý nghĩa độc đáo (Sinnhaftigkeit).79 Chủ nghĩa lịch sử do đó đã được đồng nhất với truyền thống nghiên cứu lịch sử ở Đức từ Ranke đến phần ba thứ hai của thế kỷ XX, một truyền thống gắn chặt với sự khẳng định của nhà nước dân tộc Đức khi nó xuất hiện dưới sự lãnh đạo của Bismarck. Mặc dù nhiều khía cạnh của đời sống xã hội và văn hóa, kinh tế, tôn giáo, luật pháp, nghệ thuật và những khía cạnh khác đã được tiếp cận về phương diện lịch sử trong truyền thống này, nhưng nhà nước được xem là thể chế trung tâm cung cấp một sợi dây xuyên suốt cho một câu chuyện lịch sử.
Hai vấn đề đã chiếm một vai trò trung tâm trong các văn liệu gần đây về hình thức của chủ nghĩa lịch sử mà chúng ta vừa xem xét. Vấn đề thứ nhất liên quan đến mối quan hệ giữa lý thuyết, thực hành học thuật và chính trị, cụ thể là mức độ mà chủ nghĩa lịch sử với tư cách là một truyền thống kinh viện có thể tách khỏi mối liên hệ của nó với một truyền thống chính trị cụ thể. Vấn đề thứ hai liên quan đến vị trí của chủ nghĩa lịch sử trong sự xuất hiện của các hình thức hiện đại của khoa học lịch sử. Chức năng chính trị của chủ nghĩa lịch sử đã được cả những người bảo vệ và những người chỉ trích nó thừa nhận. Meinecke, khi đối mặt với sự thất vọng về sự phát triển chính trị của thế giới hiện đại theo sau Thế chiến I,80 đã tạo ra một sự phân chia rõ ràng giữa văn hóa và chính trị, điều mà trong tác phẩm trước đó của ông có liên quan mật thiết,81 và giờ đây coi chủ nghĩa lịch sử như một hiện tượng văn hóa thuần túy. Nhưng có một chiều hướng rõ ràng là các tác giả đã thừa nhận mối liên hệ giữa các giả định triết học của truyền thống lịch sử Đức đã được thiết lập và nền chính trị Đức. Các tác giả ấy cũng đồng nhất cách tiếp cận này với lịch sử và các khoa học văn hóa với tư cách là một quan điểm cụ thể của Đức, ưu trội hơn quan điểm của phương Tây, vốn được cho là đã gắn bó với các khái niệm về quy luật tự nhiên và các hình thức phân tích của khoa học xã hội. Trong Thế chiến I, đây là một khái niệm trung tâm của tuyên truyền chuyên nghiệp, mà Meinecke và Troeltsch đã đóng góp, bằng cách đối sánh các “Tư tưởng năm 1914” của Đức, trong đó quan điểm về lịch sử này là một phần, với các “Tư tưởng năm 1789” của phương Tây.82
Quan niệm về lịch sử này ít liên quan đến quan điểm bi quan cho rằng nghiên cứu lịch sử đã đóng góp cho quá trình tương đối hóa và phá hủy các giá trị của văn hóa phương Tây và Đức. Không sử dụng thuật ngữ chủ nghĩa lịch sử, Georg von Below đã truy tìm sự phát triển của truyền thống này trong văn bản lịch sử của Đức, mà ông gắn nhãn là lãng mạn. Meinecke vào năm 1936 đã khẳng định lại niềm tin này.83 Nếu chúng ta đánh giá các tác phẩm sau năm 1945 của von Srbik và Gerhard Ritter, thì kinh nghiệm của Đức Quốc xã cũng thực sự không phá hủy sự gắn kết này với truyền thống trí thức cũng như chính trị của Đức.84 Tuy nhiên, bắt đầu từ những năm 1960, chủ nghĩa lịch sử đã được xem xét bởi một thế hệ các nhà sử học nhìn nhận quá khứ của nước Đức một cách phê phán như một bộ phận hệ tư tưởng đã góp phần hình thành con đường thảm khốc mà nước Đức đã đi trong thế kỷ XX. Eckart Kehr đã giới thiệu ghi chú quan trọng này trong bài tiểu luận năm 1933 của ông về lịch sử Đức.85 Một thế hệ sử gia mới trong những năm 1960 và đầu những năm 1970, Hans-Ulrich Wehler, Wolfgang Mommsen, Jürgen Kocka, Georg Iggers, và những người khác, đã chỉ trích hình thức chủ nghĩa lịch sử này không chỉ trên cơ sở chính trị mà còn cả cơ sở phương pháp luận. Một lịch sử chính trị tự sự không thể đưa ra lời giải thích đầy đủ về các lực lượng dẫn đến thảm họa nước Đức. Các sử gia ấy đòi hỏi một “khoa học xã hội lịch sử” (historische Sozialwissenschaft)86 phân tích khuôn khổ cấu trúc mà chính trị Đức vận hành. Vào giữa những năm 1980, cách tiếp cận khoa học xã hội này đã bị đặt vấn đề bởi cả các nhà sử học muốn rũ bỏ gánh nặng tội lỗi Đức và “bình thường hóa” hoặc “lịch sử hóa” (historisieren) 87 quá khứ của người Đức, và bởi các sử gia dân túy đời thường (Alltagshistoriker) 88 muốn lưu lại kinh nghiệm lịch sử của những con người bình thường đã bị bỏ qua trong tự sự chính trị cũ cũng như tập trung vào các cấu trúc và quy trình phi nhân cách của các nhà sử học định hướng khoa học xã hội.
Khối văn liệu trong mười năm qua đề cập đến chủ nghĩa lịch sử với tư cách là khoa học lịch sử (Geschichtswissenschaft), khi nó nổi lên như một ngành chuyên môn tại đại học Đức thế kỷ 19, đã đi theo ba hướng khác nhau. Khuynh hướng thứ nhất (Muhlack, Nipperdey) tiếp tục duy trì chủ nghĩa lịch sử có sẵn trong đầu nên tiếp tục là một hình mẫu hợp lệ cho học thuật; khuynh hướng thứ hai (Rüsen, Blanke, Jäger) thừa nhận những đóng góp của chủ nghĩa lịch sử đối với khoa học lịch sử hiện đại nhưng cũng thừa nhận cả những hạn chế của nó; khuynh hướng thứ ba (Hardtwig, Oexle, Iggers) thăm dò các tiền giả định chính trị và triết học siêu-khoa học (trên thực tế là thần học) thỏa hiệp với diễn ngôn khoa học của các nhà sử học chuyên nghiệp.
Ví dụ đầy tham vọng nhất về hướng đi đầu tiên là Geschichtswissenschaft im Humanismus und in der Aufklärung: Die Vorgeschichte des Historismus – Khoa học Lịch sử trong Chủ nghĩa Nhân văn và trong Kỷ nguyên Ánh sáng: Tiền sử của Chủ nghĩa Lịch sử (1991) của Ulrich Muhlack. Đối với Muhlack cũng như đối với Meinecke, chủ nghĩa lịch sử vẫn cấu thành hình thức cao nhất của việc thấu hiểu lịch sử đạt được cho đến thời điểm này; và giống như Meinecke, Muhlack coi chủ nghĩa lịch sử là một thành tựu của văn hóa Đức.89 Ông giải thích sự xuất hiện của chủ nghĩa lịch sử là một sự phát triển trong tư tưởng và thực tiễn sử ký ít bị ảnh hưởng bởi các yếu tố chính trị hoặc xã hội bên ngoài, mặc dù ông thừa nhận tác động của Cuộc Cách mạng Pháp về tư tưởng lịch sử.90 Đối với ông, “sự xuất hiện của một khoa học lịch sử hiện đại [Geschichtswissenschaft] đồng thời với sự xuất hiện của chủ nghĩa lịch sử ở giai đoạn chuyển tiếp từ thế kỷ 18 sang thế kỷ 19.”91 Xuất phát từ Đức và là sản phẩm của một phong trào tư tưởng cụ thể của Đức, chủ nghĩa lịch sử đã đóng một vai trò quan trọng trong công cuộc “hiện đại hóa ngành học”92 trên toàn thế giới. Trước chủ nghĩa lịch sử, không có khoa học về lịch sử theo bất kỳ ý nghĩa nghiêm túc nào. Chủ nghĩa lịch sử đã đặt nền móng cho việc xử lý khoa học về lịch sử bằng cách làm sạch nó khỏi những phán xét giá trị và chấm dứt chức năng của nó với tư cách magistra vitae - thầy đời, nhân cách hóa lịch sử như một vị sư phụ của cuộc sống, do đó có thể tái tạo quá khứ như vốn có. Muhlack chấp nhận giả định của chủ nghĩa lịch sử cổ điển cho rằng “cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng”, việc đắm mình vào cái cá nhân thiết lập nên các liên kết với cái toàn thể, và chỉ có duy nhất “một lịch sử” (eine einzige Geschichte), mà thông qua khảo sát lịch sử mới “có thể giải thích được, hiểu được và nó cũng chứa đầy ý nghĩa.”93 Bằng việc né tránh chức năng mẫu mực của lịch sử cũ, vốn chỉ cho phép có được “tri thức khả thể” (wahrscheinliche Erkenntnis), chủ nghĩa lịch sử đã cho phép có được cả “tri thức thực sự” (wahre Erkenntnis).94 Muhlack tái xác nhận quan niệm chủ nghĩa lịch sử Đức về tính trung tâm của quốc gia trong lịch sử như là “hình thức tồn tại người” (Daseinsform der Menschheit), ưu quyền của nhà nước và vai trò quyết định của các cá nhân vĩ đại.95
Trong một bài viết năm 1975, Nipperdey đã tìm cách bảo vệ chủ nghĩa lịch sử chống lại trường phái khoa học xã hội phê phán ở Cộng hòa Liên bang, theo cách nói của ông, đã cáo buộc nó là “không hiện đại, phi khoa học, mang tính ý thức hệ và phản động”,96 đồng thời kiên định rằng một khi chủ nghĩa lịch sử đã tự giải phóng khỏi những giả định triết học và chính trị đầu thế kỷ XIX, thì nó có thể đóng vai trò là cơ sở của một khoa học lịch sử hiện đại. Trong bộ ba tập lịch sử Đức đồ sộ của mình về giai đoạn từ năm 1800 đến năm 1918, Nipperdey đã thành công trong việc chuyển dịch các nguyên tắc lịch sử thành thực tiễn nhưng đồng thời, đặc biệt là trong tập cuối, vận hành với chính các giả định chính trị và triết học mà ông muốn giải phóng chủ nghĩa lịch sử.97 Nhiều tác phẩm đã xuất hiện trong vài năm qua từ nhóm người tập hợp quanh Jörn Rüsen, bao gồm Friedrich Jaeger và công trình Geschichte des Historismus - Lịch sử Chủ nghĩa Lịch sử của Jörn Rüsen (1992)98, tuyển tập các bài luận của Rüsen, Konfigurationen des Historismus – Cấu hình của Chủ nghĩa Lịch sử (1993),99 và Historiographiegeschichte als Historik- Lịch sử Sử ký với tư cách Lịch sử quy mô của Horst-Walter Blanke (1991),100 chia sẻ niềm tin của Muhlack về chủ nghĩa lịch sử có vai trò trung tâm trong việc thiết lập cái gọi là “hệ mẫu” cho khoa học lịch sử hiện đại, dù họ đặt chủ nghĩa lịch sử vào một bối cảnh lịch sử rộng lớn hơn mà trong đó các giới hạn của nó trở nên rõ ràng. Họ lưu ý rằng chủ nghĩa lịch sử “là một phần của quá trình hiện đại hóa toàn diện” và một quá trình khoa học hóa (Verwissenschaftlichung). Chủ nghĩa lịch sử, thừa nhận rằng toàn bộ thực tại người, thực chất đều có tính lịch sử, tạo thành “hình thức hiện đại cụ thể của tư duy lịch sử.”101 Nó thừa nhận “tính duy nhất của quá khứ khác biệt với hiện tại”, và “tính liên kết bao trùm của các kỷ nguyên khác nhau.”102 Giống như Muhlack, họ tin vào một tự sự lịch sử mạch lạc mở ra cho việc nghiên cứu lịch sử.
Nhóm học giả này nhìn nhận các đặc trưng của lịch sử khoa học theo những khuôn khổ tương tự. Chủ nghĩa lịch sử không còn coi lịch sử là magistra vitae- thầy đời và giải phóng lịch sử khỏi lối khoa trương. Tư duy lịch sử trở thành “khoa học khi nó tuân theo các quy tắc xác định đảm bảo khả tính kiểm nghiệm các tuyên bố của mình về quá khứ, do đó đảm bảo tính khách quan của nó, và đảm bảo sự tăng trưởng liên tục tri thức về quá khứ, hay nói cách khác là một tiến bộ của tri thức.”103 Do đó Rüsen và Jaeger ít lo lắng về tính bất chắc của tri thức khoa học và tình trạng phân mảnh của lịch sử vốn ám ảnh tư tưởng của chủ nghĩa hậu hiện đại. Tuy nhiên, họ tin rằng chủ nghĩa lịch sử phải được hiểu theo đúng tinh thần lịch sử chủ nghĩa, tức là theo đúng thời đại của nó, như một “hệ mẫu” kiểm soát khoa học lịch sử trong thế kỷ 19 và cả thế kỷ 20 không chỉ ở Đức mà còn trên phạm vi quốc tế. Tuy nhiên, đối với họ, nó cũng phản ánh những hạn chế của thời đại của nó. Blanke phân biệt ba hệ mẫu kế tục nhau, đó là hệ mẫu của sử ký Kỷ nguyên Ánh sáng, hệ mẫu chủ nghĩa lịch sử, và cuối cùng là hệ mẫu Khoa học Xã hội Lịch sử mà chúng ta đã nói ở trên. Chủ nghĩa lịch sử đại diện cho một tiến bộ khoa học so với Kỷ nguyên Ánh sáng vì nó giới thiệu một cái nhìn lịch sử triệt để hơn về thực tại người và trong quá trình chuyên nghiệp hóa đã phát triển các phương pháp khảo sát lịch sử chặt chẽ hơn. Đồng thời, dưới tác động của chủ nghĩa dân tộc, nó đã từ bỏ quan điểm chủ nghĩa thế giới rộng lớn của Kỷ nguyên Ánh sáng và sự quan tâm của quan điểm chủ nghĩa thế giới đối với văn hóa và xã hội. Tầm nhìn của nó bị thu hẹp do dính líu đến hiện trạng chính trị của Đức vào thời đó. Khoa học Xã hội Lịch sử làm sống lại những mối quan tâm của sử ký Kỷ nguyên Ánh sáng, nhưng mang lại cho chúng một hình thức khoa học xã hội chặt chẽ hơn.
Quan niệm về chuỗi kế tiếp của ba hệ mẫu, mà mỗi hệ mẫu xác định phần chính của việc khảo sát lịch sử trong một giai đoạn lịch sử nhất định, gần đây đã bị Oexle công kích mạnh mẽ trong một bài tiểu luận đánh giá cuốn sách của Blanke.104 Blanke chắc chắn đúng khi cho rằng, ít nhất là trong khu vực hàn lâm, có một sự đồng nhất đáng kể về các quan niệm lịch sử, phương pháp luận và chính trị từ khi xuất hiện chủ nghĩa lịch sử ở các đại học cho đến khi những quan niệm này bị phê phán ồ ạt vào những năm 1960. Hơn nữa, như Wolfgang Weber đã tìm cách chứng minh bằng việc xem xét thực tiễn tuyển dụng từ đầu thế kỷ XIX đến 1970, các cơ chế của ngành học và ảnh hưởng học thuật đã đảm bảo mức độ tuân thủ ý thức hệ đáng kể trong các đại học Đức suốt thời kỳ này. Cuốn sách của Blanke là bộ lịch sử toàn diện và đầy đủ thông tin nhất về sử ký Đức cho đến nay. Nhưng Oexle chắc chắn đúng khi cho rằng chuỗi hệ mẫu của Blanke đã bỏ qua tính đa dạng dù đã tồn tại và nhìn nhận quá trình viết sử quá hạn hẹp từ quan điểm của đại học Đức.
Muhlack, Rüsen và Blanke vẫn còn ấn tượng sâu sắc về đặc tính khoa học của sử ký mà họ đồng nhất với chủ nghĩa lịch sử. Những đóng góp khác gần đây của Hardtwig,105 Oexle,106 và Iggers107 khiến các nhà sử học Đức nghi ngờ về các tự-xác quyết tính khách quan khoa học của họ. Đối với Rüsen, Droysen đóng một vai trò quan trọng trong việc chuyển đổi lịch sử thành một khoa học nghiêm ngặt.108 Droysen xây dựng các hướng dẫn phương pháp luận cho phép chuyển đổi lịch sử từ dữ liệu thực nghiệm, được tái tạo thông qua việc kiểm tra mang tính phê phán các nguồn, đến cái nhìn sâu sắc vào các bối cảnh lịch sử lớn hơn. Cái nhìn sâu sắc này đòi hỏi một cách tiếp cận tường giải học, nhà sử học đắm mình vào thế giới tinh thần của các tác nhân lịch sử. Khả tính tái tạo quá khứ bằng phương tiện tường giải - bằng cách “diễn giải” như lời Droysen - giả định rằng có một sự gắn kết tinh thần thực sự (Zusammenhang) có thể nắm bắt được. Ranke nhận xét rằng trong lịch sử có “các lực lượng tinh thần, tiếp sinh lực, sức sáng tạo” hay “năng lượng đạo đức.” “Chúng không thể được định nghĩa hoặc nói ra được bằng các thuật ngữ trừu tượng, nhưng người ta có thể chứng kiến và quan sát chúng.”109
Droysen nhận thức rõ hơn Ranke về các giới hạn của tri thức khách quan, khi viết rằng “nghiên cứu lịch sử giả định trước cái nhìn sâu sắc rằng nội dung của bản thân chúng ta [Ich] theo nhiều cách là sản phẩm trung gian của lịch sử.” Nhưng ông cũng giữ vững niềm tin vào tính khách quan của mình: “Tất nhiên, tôi sẽ không muốn giải quyết những nhiệm vụ lớn lao của việc trình bày lịch sử từ tính chủ quan võ đoán hoặc nhân cách nhỏ nhoi và chật hẹp của tôi. Nhưng khi nhìn về quá khứ từ quan điểm của người dân, nhà nước hoặc tôn giáo, tôi đã đứng cao hơn cái tôi của chính mình. Tôi nghĩ, cứ như thể từ một cái Tôi cao hơn, trong đó những thứ ngu xuẩn của chính con người nhỏ bé của tôi đã tan biến đi.110 Do đó, Hardtwig mới có thể luận rằng chủ nghĩa lịch sử ở hình thái Đức của nó đã rời xa cách tiếp cận tỉnh táo, không-suy lý như nó tự khẳng định, và đã thấm nhuần sâu sắc tôn giáo cùng thần học.”111
Khẳng định của Nipperdey, mà Muhlack có lẽ đồng ý, cho rằng chủ nghĩa lịch sử đã hủy bỏ toàn bộ siêu việt tính và chỉ biết đến “những quá trình lịch sử nội tại”,112 rõ ràng không phù hợp với truyền thống lịch sử chủ nghĩa của sử ký Đức từ Ranke đến Meinecke và Ritter. Đối với Humboldt, Ranke và Droysen, lịch sử được gắn kết bởi các “tư tưởng” và các “sức mạnh đạo đức” (sittliche Mächte) phản ánh ý chí thần thánh. Ý chí này có thể vận hành một cách bí ẩn và vẫn bất khả thăm dò, tuy nhiên, lại làm cho nhận thức lịch sử trở nên khả thể.” Chàng trai trẻ Droysen viết cho nhà xuất bản Friedrich Perthes: “Tôi rất thấm nhuần uy linh toàn năng của Đức Chúa Trời, là đấng mà tôi tin rằng không một sợi tóc nào có thể rơi khỏi đầu mà không có thiện ý của Ngài”.113 Iggers đã chỉ ra những ẩn ý chính trị của thứ tôn giáo lịch sử này đối với việc biện minh cho các mối quan hệ hiện tồn của quyền lực chính trị và xã hội.”114 Hardtwig và Oexle cũng đã lưu ý rằng bất chấp chủ nghĩa duy tâm triết học của họ, các nhà sử học trong truyền thống chủ nghĩa lịch sử đã có một quan niệm khách quan luận cơ bản về khoa học của họ. Một mặt họ bác bỏ nỗ lực của triết học Hegelian và của khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XIX nhằm hình thành các quy luật và nhấn mạnh vai trò tính tự phát và tự do trong lịch sử. Mặt khác, họ chấp nhận nhiều thói quen của các nhà khoa học tự nhiên viện dẫn thẩm quyền của nhà sử học chuyên nghiệp đã thành để nói về lịch sử. Ranke, như chúng ta biết, tin rằng có thể dựa trên cơ sở xem xét cẩn thận, đầy đủ các nguồn để thể hiện “wie es eigentlich gewesen - nó đã xảy ra như thế nào.”
Như chúng ta đã thấy, Droysen, mặc dù nhận thức được vai trò của tính chủ quan trong nhận thức lịch sử, nhưng vẫn tin chắc rằng việc nghiên cứu lịch sử đúng phương pháp sẽ làm bộc lộ sự thật lịch sử. Bất chấp chủ nghĩa duy tâm triết học của họ, các nhà sử học đã gần gũi với thế giới quan của Thực chứng luận và Chủ nghĩa Marxism hơn là họ thừa nhận. Droysen chỉ trích Buckle không phải vì tin rằng có sự tiến bộ trong lịch sử mà bởi vì cách tiếp cận theo chủ nghĩa tự nhiên của Buckle đối với lịch sử thì không thể dung hòa với sự tiến bộ có ý nghĩa.115 Tương tự, Dilthey và những người theo chủ nghĩa Tân-Kantian đã tìm kiếm một logic khảo sát thừa nhận vai trò của ý nghĩa trong đời sống văn hóa nhưng cũng giới thiệu một khoa học chặt chẽ tương tự như các khoa học tự nhiên. Đối với Blanke, một trong những khiếm khuyết lớn của chủ nghĩa lịch sử là việc bỏ qua các mối quan tâm về xã hội và văn hóa liên quan vốn đã ăn sâu trong tâm trí nhiều nhà sử học trong Kỷ nguyên Ánh sáng; đối với Hardtwig và Oexle, đó là sự mất đi cái nhìn viễn cảnh luận về tri thức của Chladenius, Gatterer, và các nhà tư tưởng Kỷ nguyên Ánh sáng khác và sự thay thế của nó bằng những quan niệm khách quan luận về khoa học.
Điều này dẫn đến hai câu hỏi khác trong các tài liệu gần đây về chủ nghĩa lịch sử, đó là lịch sử trở thành một khoa học (Wissenschaft) vào lúc nào, và nó trở thành một bộ môn chuyên nghiệp hóa khi nào. Đối với Muhlack, câu trả lời là rất rõ ràng: vào đầu thế kỷ 19 với sự xuất hiện của chủ nghĩa lịch sử như một thế giới quan và một thực tiễn học thuật. Ông tin rằng nếu không có chủ nghĩa lịch sử thì không thể có khoa học lịch sử theo nghĩa hiện đại. Kỷ nguyên Ánh sáng đối với Muhlack có quan điểm đạo đức luận tĩnh tại về quá khứ, còn chủ nghĩa lịch sử là quan điểm di truyền. Kỷ nguyên Ánh sáng đã phóng rọi tập giá trị của nó vào quá khứ trong khi môn sử ký theo truyền thống chủ nghĩa lịch sử lại xa lánh nó. Tuy nhiên, thực tế có ít khuynh hướng viết sử cam kết tư tưởng và chính trị như Trường phái Phổ, gồm cả Droysen, khiến cho năng lực quan sát của Muhlack không mấy tin cậy. Đến nay, đã có được khối văn liệu đáng kể, từ Das achtzehnte Jahrhundert - Triết học Ánh sáng (1932)117 của Dilthey đến Kỷ nguyên Ánh sáng Đức và Sự trỗi dậy của Chủ nghĩa Lịch sử (1975), 118 của Peter Reill cho thấy Kỷ nguyên Ánh sáng giờ đây có nghĩa là phi lịch sử. Reill đã nhấn mạnh tính liên tục trong quá trình chuyển đổi từ Kỷ nguyên Ánh sáng thành chủ nghĩa lịch sử.
Những người đóng góp cho tập Geschichte und Aufklärung – Lịch sử và Khai sáng (1986) hầu hết đều đưa ra kết luận tương tự.119 Blanke120 và Iggers121 đã chỉ ra sự chiếm đóng của các nhà sử học thế kỷ mười tám, đặc biệt là trường phái Göttingen, với lịch sử xã hội và văn hóa, việc sử dụng họ các khái niệm nhân học, ngôn ngữ, kinh tế, nhân khẩu học và thống kê. Konrad Jarausch đã xem xét các cơ sở chuyên nghiệp hóa sớm, chưa hoàn thiện.122 Tuy nhiên, họ cảnh báo không nên hiện đại hóa công trình lịch sử thế kỷ mười tám. Jeremy Telman đưa ra quan điểm này một cách thuyết phục trong luận văn gần đây của ông về việc chuyên nghiệp hóa các nghiên cứu lịch sử. Sử dụng khái niệm chuyên nghiệp hóa thường được sử dụng trong tài liệu xã hội học123 và sử dụng bằng chứng thống kê, ông kết luận rằng Vormärz [HHN Chen ngang: Vormärz là một giai đoạn trong lịch sử nước Đức trước Cách mạng tháng Ba năm 1848 tại các bang thuộc Liên bang Đức. Khởi đầu của giai đoạn này không mấy rõ ràng, một thời điểm bắt đầu ngay sau sự sụp đổ của Napoléon và sự thành lập Liên bang Đức vào năm 1815. Những nhân tố khác, điển hình là những người nhấn mạnh Vormärz như một giai đoạn nổi dậy chính trị, giúp xác định thời điểm bắt đầu vào Cách mạng tháng Bảy của Pháp năm 1830. Vormärz được gọi là Thời đại Metternich, được đặc trưng bởi địa vị thống trị của Áo và Phổ đối với Liên bang Đức. Cả Áo và Phổ đều thành lập các nhà nước cảnh sát chuyên chế đàn áp trong nước và gây áp lực buộc các bang khác của Đức phải làm như vậy. Các chế độ độc tài này thực hành kiểm duyệt và giám sát hàng loạt trên quy mô chưa từng có để đáp lại những lời kêu gọi ngay cả những người theo chủ nghĩa cải cách ôn hòa đối với chủ nghĩa tự do, chế độ quân chủ lập hiến và thống nhất nước Đức, cũng như những lời kêu gọi mang tính cách mạng, cấp tiến hơn đối với chủ nghĩa cộng hòa và phổ thông đầu phiếu. Về mặt văn hóa, thời kỳ này được gọi là kỷ nguyên Biedermeier. Thời kỳ Biedermeier ở Trung Âu từ năm 1815 đến năm 1848, trong đó tầng lớp trung lưu ngày càng đông và nghệ thuật viện vào các thụ cảm phổ thông. Nó bắt đầu với Đại hội Vienna vào cuối cuộc Chiến tranh Napoléon năm 1815 và kết thúc bằng sự khởi đầu của các cuộc Cách mạng năm 1848. Thuật ngữ này bắt nguồn từ một tham chiếu văn học từ thời kỳ đó, được sử dụng chủ yếu để biểu thị các phong cách nghệ thuật bừng nở trong các lĩnh vực văn chương, âm nhạc, nghệ thuật thị giác và thiết kế nội thất, và ảnh hưởng mạnh đến các phong cách sau này, đặc biệt là những phong cách bắt nguồn từ Vienna. Vì vậy, nó được coi là kết cục của kỷ nguyên Chủ nghĩa lãng mạn] ở Phổ “là thời kỳ và là nơi mà các nhà sử học thành lập các thể chế chuyên nghiệp cũng như phương pháp luận khoa học [wissenschaftliche) của họ,” 124 một giai đoạn trùng hợp với sự xác lập chủ nghĩa lịch sử “như là một hệ mẫu thống trị cho học thuật lịch sử ở Đức thế kỷ XIX.”125
Tuy nhiên, không nên đồng nhất chuyên nghiệp hóa với khoa học hóa (Verwissenschaftlichung) như của Rüsen và Blanke. Ngôn ngữ Anh, do thích nói đến học thuật lịch sử hơn là khoa học lịch sử, nên thể hiện nhiều sắc thái hơn thuật ngữ Geschichtswissenschaft – Khoa học lịch sử của Đức. Có thể có nhiều chiến lược khoa học hoặc học thuật khác nhau cam kết hiểu biết lịch sử một cách trung thực, trong đó sự đa dạng mang tính lịch sử chủ nghĩa Đức chỉ là một. Vì vậy, các nhà sử học ở Pháp, Scotland, Anh, Göttingen [Göttingen là một thành phố đại học ở Hạ Saxony, miền trung nước Đức, thủ phủ của quận Göttingen có sông Leine chảy qua, vào cuối năm 2019, dân số là 118.911 người] và những nơi khác không đáp ứng tiêu chí chuyên môn hóa của Telman, tuy nhiên lại viết được những công trình lịch sử quan trọng với một nền tảng học thuật vững chắc. Tương tự, có một nguy cơ trong việc đồng nhất sự phát triển của “khoa học” lịch sử trong thế kỷ 19 gần gũi với hệ mẫu chủ nghĩa lịch sử của người Đức như Rüsen và Muhlack đã làm. Các công trình rất đa dạng của de Tocqueville, Burckhardt, Fustel de Coulanges, Marx, Lorenz von Stein, và Max Weber cho thấy rằng các nghiên cứu lịch sử có thể đi theo những hướng rất khác nhau. Một thiếu sót của phần lớn văn liệu mà chúng tôi đã đề cập trong tiểu luận này là nó quá định hướng Đức. Cuộc “Khải hoàn Thế giới” (Universalale Siegeszug) 126 của khoa học lịch sử Đức mà Muhlack tổ chức lễ kỷ niệm có thể đã được chứng minh là rỗng tuyếch hơn những gì ông nhận ra. Ít nhất là trong ngành học hàn lâm lịch sử ở nước Đức thế kỷ 19 và phần lớn thế kỷ 20, các nhà sử học đã tự cô lập mình khỏi nhiều trào lưu tư tưởng đương thời. Không nghi ngờ gì nữa, điều này có liên quan đến bối cảnh chính trị và xã hội học mà đời sống trí thức đã vận hành ở Đức.127
Chủ nghĩa lịch sử ngày nay
Tóm lại, vẫn còn rất nhiều công việc cần phải được thực hiện về vai trò của chủ nghĩa lịch sử trong lịch sử tư tưởng và sử ký trong thế kỷ 19 và 20. Các nghiên cứu về chủ nghĩa lịch sử phần lớn chỉ viết về nước Đức và phản ánh quan điểm của người Đức. Nhưng chủ nghĩa lịch sử, như Carlo Antoni đã chứng minh nhiều năm trước,128 là một trào lưu và một cách nhìn vượt ra khỏi lãnh địa ngôn ngữ Đức. Trong hai lĩnh vực ấy cần có những nghiên cứu sâu hơn. Trước hết, cần phải tiến hành nghiên cứu kỹ hơn về vai trò của các ý tưởng và tiền giả định lịch sử chủ nghĩa trong nghề viết sử của các nước không nói tiếng Đức. Những nghiên cứu như vậy hầu như chỉ tồn tại ở Ý.129 Thứ hai, cần có thêm các công trình nghiên cứu về sự tiếp tục liên quan của cách nhìn lịch sử chủ nghĩa đối với tư tưởng đương đại. Phần lớn văn liệu gần đây của Đức về sự liên quan của chủ nghĩa lịch sử đã gây thất vọng về phương diện này khi không xem xét một cách nghiêm túc những thách thức mà tư tưởng lịch sử gần đây đã đưa ra đối với các quan niệm truyền thống về lịch sử.130 Sự sụp đổ không chỉ của những giả định duy tâm luận về ý nghĩa của lịch sử mà chủ nghĩa lịch sử kinh điển dựa vào mà còn cả ý nghĩa của Bildungswelt – Thế giới văn hóa nơi nó neo đậu đã làm cho các hình thức của tư tưởng “hậu hiện đại” trở nên đáng tin cậy đặt vấn đề không chỉ về tính chặt chẽ của lịch sử mà còn về khả tính nhận thức gần chân lý về quá khứ này.131 Đối với những người không muốn chấp nhận sự đầu hàng này của trí tuệ, thì những nỗ lực của các nhà tư tưởng theo truyền thống tư tưởng chủ nghĩa lịch sử từ Ranke và Droysen đến Weber và Gadamer nhằm hình thành một logic khảo sát cho các khoa học văn hóa có thể cung cấp một cốt lõi hợp lý cho các nhà sử học tiếp tục tin tưởng vào Weber cho rằng Wirklichkeitswissenschaft – lịch sử là khoa học hiện thực với tất cả những phức tạp về phương pháp luận mà Wissenschaft - khoa học đòi hỏi.
____________________________________________
Nguồn: Iggers, Georg G. (1995). Historicism: The History and Meaning of the Term, In Journal of the History of Ideas, Vol. 56, No. 1 (Jan., 1995), pp. 129-152, Published by: University of Pennsylvania Press.
Tác giả: Georg Gerson Iggers (7 tháng 12 năm 1926 - 26 tháng 11 năm 2017) là một nhà sử học người Mỹ về châu Âu hiện đại, sử học và lịch sử trí thức châu Âu. Iggers sinh ra ở Hamburg, Đức, vào năm 1926. Là một người Do Thái gốc Đức, ông cùng gia đình trốn khỏi Đức đến Mỹ vào năm 1938, chỉ vài tuần trước lễ hội Kristallnacht. Iggers thuộc về những người trẻ tuổi từ Đệ Tam Đế chế, những người sau này khi còn sống, với tư cách là học giả hàn lâm ở Hoa Kỳ, đã có tác động quyết định đến việc xem xét lại lịch sử của Đức theo cách phê phán. Năm 1957, Iggers trở thành người anh em Da trắng đầu tiên khởi xướng Phi Beta Sigma, Inc, Hội Huynh đệ Da đen trong lịch sử. Ông là giáo sư thỉnh giảng tại Technische Universität Darmstadt vào năm 1991, là Giáo sư Danh dự xuất sắc tại Đại học Buffalo và năm 2007 nhận Huân chương Thập tự giá Hạng Nhất của Cộng hòa Liên bang Đức. Iggers đã nhận được Giải thưởng Humboldt, các bằng tiến sĩ danh dự của Đại học Richmond, Technische Universität Darmstadt, và Cao đẳng Philander Smith, và học bổng từ Hiệp hội Triết học Hoa Kỳ, Quỹ Fulbright, Quỹ Guggenheim, Quỹ Quốc gia về Nhân văn và Quỹ Rockefeller. Ông đặc biệt được chú ý nhờ các bài viết về sử học. Ông mất ngày 26 tháng 11 năm 2017, do biến chứng xuất huyết não.
Chú dẫn
77. Johann Gustav Droysen, “Erhebung der Geschichte zum Rang einer Wissenschaft” in Historik (above, n. 17), 451-69.
78. See Ranke's preface to his Histories of the Latin and Germanic Nations.
79. Thomas Nipperdey, Deutsche Geschichte, 636-37.
80. “Die Idee der Staatsrason,” (first published in 1924) in Werke, I (Munich, 1957), 1. Translated as Machiavellism: The Doctrine of Raison d'Etat and Its Place in Modern History, intro. W. Stark, tr. Douglas Scott (New Haven, 1957).
81. Preface to second edition (1911) of Weltbiirgertum und Nationalstaat. Studien zur Genesis des deutschen Nationalstaates, as V, Werke, V(Munich, 1962).
82. See Otto Hintze et al. (eds.), Deutschland und der Weltkrieg (Leipzig, 1915), mit Beitragen von Friedrich Meinecke, Hans Delbriuck, Hermann Oncken, Erich Marcks, Gustav von Schmoller, Wilhelm Solf, Emst Troeltsch, et al.
83. Von Below, Die deutsche Geschichtsschreibung von den Befreiungskriegen bis zu unseren Tagen. Geschichte und Kulturgeschichte (Leipzig, 1916).
84. E.g., Heinrich Ritter von Srbik, Geist und Geschichte vom deutschen Humanismus bis zur Gegenwart (2 vols.; Munich, 1950-51); Gerhard Ritter, Die Ddmonieder Macht, (Munich, 1948).
85. See Eckart Kehr, “Neuere deutsche Geschichtsschreibung,” in Der Primat der Innenpolitik (Berlin, 1970), 254-68.
86. Hans Ulrich Wehler, Modernisierungstheorie und Geschichte (Göttingen, 1975).
87. Martin Broszat, “Was heisst Historisierung des Nationalsozialismus,” Historische Zeitschrift, 247 (1988), 1-14.
88. See Alf Ludtke (ed.), Alltagsgeschichte. Zur Rekonstruktion historischer Erfahrungen und Lebensweisen (Frankfurt, 1989); Winfried Schultze (ed.), Sozialgeschichte, Alltagsgeschichte, Mikro-Historie (Göttingen, 1994).
89. See, e.g., Ulrich Muhlack, Geschichtswissenschaft im Humanismus und in der Aufklärung. Die Vorgeschichte des Historismus (Munich, 1991), 10. 90. Ibid., 415.
91. Ibid., 7.
92. Ibid., 10; see also Jaeger and Rusen, Geschichte des Historismus, 3.
93. Ibid., 424.
94. Ibid., 421.
95. Ibid., 428.
96. Thomas Nipperdey, Gesellschaft, Kultur, Theorie: Gesammelte Aufsdtze zur neuren Geschichte, vol. 18, in Kritische Studien zur Geschichtswissenschaft (Göttingen, 1976).
97. Thomas Nipperdey, Deutsche Geschichte 1800-1866 (Munich, 1983) and Deutsche Geschichte 1866-1918 (2 vols.; Munich, 1990-92).
98. (Munich, 1992).
99. (Frankfurt a/M, 1993).
100. Horst-Walter Blanke, Historiographiegeschichte als Historik (Stuttgart, 1991).
101. Jaeger and Rüsen, Geschichte des Historismus, 7.
102. Ibid., 1.
103. Ibid., 41.
104. Otto Gerhard Oexle, “Göttingen-Bielefeld einfach,” Rechtshistorisches Journal, 11 (1992), 54-66; Blanke's reply, “‘Historismus’ im Streit. Oder: Wie schreibt man heute eine Geschichte der Geschichtswissenschaft,” Rechtshistorisches Journal, 12 (1993), 585- 97.
105. See above, n. 53.
106. See above, n. 51.
107. Iggers, “Ist es in Deutschland in der Tat friiher zur Verwissenschaftlichung der Geschichte gekommen als in anderen Landern,” to appear in J. Rüsen (ed.), Geschichts-diskurs, II (Frankfurt, 1964), 73-86.
108. Throughout Rüsen's writings, beginning with Begriffene Geschichte. Genesis und Begründung der Geschichtstheorie J. G. Droysens (Paderborn, 1969); see also Droysen (above, n. 68).
109. “The Great Powers,” 100.
110. Vorlesungen uber die Freiheitskriege, I (Kiel, 1846), 287.
111. Wolfgang Hardtwig, “Geschichtsreligion.”
112. Thomas Nipperdey, Deutsche Geschichte 1866-1918, I, 637.
113. Droysen to Perthes, 1836, quoted in Iggers, German Conception of History, 105.
114. The German Conception of History.
115. Grundriss der Historik (Leipzig, 1868), 59-60.
116. Gesammelte Schriften (Leipzig, 1927), III, 209-68.
117. (Boston, 1951).
118. (Berkeley).
119. Hans Erich Bödeker, et al. (eds.), Aufklärung und Geschichte. Studien deutschen Geschichtswissenschaft (Göttingen, 1986).
120. Blanke, Historiographiegeschichte als Historik.
121. Iggers, “Die Göttinger Historiker und die Geschichtswissenschaft des 18. Jahr- hunderts” in Siegfried Bahne et al. (eds.), Mentalitdten und Lebensverhdltnisse. Beispiele aus der Sozialgeschichte der Neuzeit. (Rudolf Vierhaus zum 60. Geburtstag) (Göttingen, 1982); “The University of Göttingen 1760-1800 and the Transformation of Historical Scholarship,” Storia della Storiografia, 2 (1982), 11-37.
122. Konrad H. Jarausch, “The Institutionalization of History in 18th-Century Germany,” in Bodeker et al., Aufklärung und Geschichte, 25-49.
123.. Telman, “Clio Ascendant,” 79.
124. Ibid., 2.
125. Ibid., 22.
126. Muhlack, 10.
127. See Otto Gerhard Oexle, “Ein politischer Historiker: Georg von Below” in Notker Hammerstein (ed.), Deutsche Geschichtswissenschaft um 1900 (Stuttgart, 1988), 283-312, in which he raises the question of why Germany was replaced in the twentieth century by France as the leader in medieval studies.
128. Antoni, Dallo storicismo alla sociologia and Lo storicismo.
129. On Italy, see above, notes 43 to 46. On Great Britain, see Klaus Dockhom, Deutscher Historismus in England. Ein Beitrag zur englischen Geistesgeschichte (Göttingen, 1950); on America, see Jürgen Herbst, The German Historical School in American Scholarship: A Study in the Transfer of Culture (Ithaca, 1965); on China, Qingjia Wang, "Chinese Historians and the West: The Origins of Modem Chinese Historiography" (Ph.D. dissertation, University of Syracuse, 1992).
130. Jörn Rüsen, in his theoretical approach to narrativity, less so in his historical account of the history of historicism, has come closest to dealing with this challenge. See Allan Megill, “Jörn Rüsen's Theory of Historiography Between Modernism and Rhetorical Inquiry,” History and Theory, 33 (1994), 39-60; see the Dutch philosopher of history, F. R. Ankersmit, “Historism: An Attempt at Synthesis,” History and Theory (forthcoming, 1995), with a reply by Georg G. Iggers and a response by Ankersmit to Iggers's reply.
131. See F. R. Ankersmit, “Historiography and Postmodernism,” History and Theory, 28 (1989), 137-53; also “Historism: An Attempt at Synthesis.”