Văn hóa Lương
Chử và Motif Thao thiết thời nhà Thương (I)
李學勤 Lý Học Cần
Người dịch: Hà Hữu Nga
Ai
cũng biết 饕餮 Thao thiết là một loại
motif phổ biến
trên đồ đồng
Thương Chu, đặc biệt là những người quan tâm đến nghệ thuật đồ đồng cổ thì lại
càng rõ điều đó. Cho đến nay nhiều học giả lớn đã bàn luận về bản
chất và ý nghĩa của nó và bày tỏ nhiều ý kiến khác nhau, nhưng vẫn chưa có được sự đồng thuận
rõ ràng. Không nghi ngờ gì
nữa, các motif Thao thiết là một trong
những bí ẩn lớn nhất trong khảo cổ học và lịch sử nghệ thuật Trung Quốc.
Văn
bản sớm đề cập đến cái tên Thao thiết vào cuối Chiến
Quốc là 呂氏春秋Lã
thị Xuân thu. Trong Tiên thức
thiên có nói rằng, “Cái đỉnh nhà
Chu được khắc hình Thao thiết, chỉ có cái đầu nhưng lại
không có cơ thể” *. Trên cơ sở
hồ sơ này, tài liệu về đồ đồng của thời kỳ Bắc Tống gọi cách bài trí với một cái đầu thú được chạm hoặc đắp nổi trên chiếc
đỉnh là Thao thiết. Ví dụ, 呂大臨 Lữ Đại Lâm [1044-1093] mô tả vật
trang trí trên 癸鼎 Quý đỉnh, nói “trên đó có một khuôn
mặt thú, đó là tượng trưng của Thao thiết” **. Trong hơn
chín trăm năm kể từ thời Lữ Đại
Lâm, các nghiên cứu về
đồ đồng cổ vẫn sử dụng thuật
ngữ này. Chỉ trong thời kỳ hiện đại, các học giả mới chủ trương
loại bỏ nó. Đặc biệt là ở Trung Quốc, sự thay đổi đó là khá muộn. Ví
dụ, trong những năm 1950, 陳夢家 Trần Mộng Gia*** sử dụng
thuật ngữ “thú diện” thay vì Thao thiết trong bài
viết của mình về phân kỳ đồ
đồng Tây Chu, công bố trong
Khảo cổ học báo năm 1955-1956; còn Lý Tế**** thì sử dụng thuật
ngữ 動物面 “động vật
diện” ngay từ khi ông bắt
đầu công bố các nghiên
cứu khác nhau về đồ đồng Ân Khư. Những thuật ngữ này tương đương
với thuật ngữ “mặt nạ động vật” - “animal mask” trong tiếng Anh, nhưng việc sử
dụng chữ 獸 “thú” hiện nay có nghĩa hẹp hơn 動物 “động
vật”, còn chữ 面 diện có nghĩa là “mặt” chứ không
phải mặt nạ. Theo hiểu biết của tôi thì sự phản đối quyết liệt gần đây nhất về
thuật ngữ Thao thiết là TS. Paul Singer, người chủ trương sử dụng thuật ngữ
“mặt nạ động vật” hoặc một thuật ngữ nào đó tương tự [Paul Singer, ‘A bone mask’,
Archives of Asian .411, XXX“. 1955. pp. 884]. Bản thân tôi cũng tránh dùng
thuật ngữ Thao thiết trong các công trình khảo cổ học vì nó không rõ ràng, tuy
nhiên ở đây tôi vẫn sử dụng vì lý do thuận tiện.
Lập
luận về thuật ngữ phù hợp cho motif này liên quan đến cách diễn giải của chúng
tôi về bản chất và ý nghĩa của nó. Vì motif Thao thiết được sử dụng trong một
khoảng thời gian dài và những thay đổi liên quan đến thuật ngữ này đặc biệt
phức tạp, nếu chúng ta phát hiện ra bản chất và ý nghĩa của nó thì chúng ta
phải phân tích một khối lượng lớn tư liệu một cách hệ thống và tìm lại dạng
nguyên gốc của motif này. Trần Công Nhu & Trương Trường Thọ [《殷周青銅容器上獸面紋的斷代研究》《考古學報》1990 年2 期): “Ân Chu thanh đồng khí thượng dung khí thượng
thú diện văn đích đoạn đại nghiên cứu” “Khảo cổ học báo” 1990 niên 2 kì) - Nghiên cứu phân kỳ
motif hoa văn mặt thú trên đồ đồng Ân Chu], có đề cập đến các nghiên cứu của
các học giả đi trước như: 1. 容庚,《金文編》1372頁,中華書局1988年版 Dung Canh, Kim văn biên, 1372 hiệt, Trung Hoa Thư cục 1988
niên bản; 容庚:《商周彝器通考》(1941)上冊頁49、93圖53;Dung
Canh: “Thương Chu di khí thông khảo” 1941, thượng sách hiệt 49,93 đồ 53; 2. Bernhard Karlgren “Yin and Chou in Chinese Bronzes,” Bulletin of the ..... surface
décoration motifs (masks
and animal-bodies in profile); 3. 李濟萬家保:《殷墟出土青銅鼎形器之研究》,《中國考古報告集新編》古器研究專刊第 4 本,台北,1970年; Lý Tế Vạn Gia
Bảo: “Ân Khư xuất thổ thanh đồng đỉnh hình khí chi nghiên cứu”, “Trung Quốc Khảo
cổ Báo cáo Tập tân biên”, Cổ khí Nghiên cứu Chuyên san đệ 4 bản, Đài
Bắc, 1970 niên; 4. 張光直,《商周青銅器與銘文的綜合研究》(台北:中央研究院歷史語這研究所,1971)。Trương Quang Trực, “Thương Chu thanh đồng khí dữ minh văn
đích tống hợp nghiên cứu” (Đài Bắc: Trung ương Nghiên cứu viện Lịch sử
Ngữ giá Nghiên cứu sở, 1971);
5. 馬承源主編《商周青銅器銘文選》,上海博物館商周青銅器銘文選編寫組編,北京市:文物出版社,1986.Mã
Thừa Nguyên, chủ biên “Thương Chu thanh đồng khí minh văn tuyển”, Thượng
Hải bác vật quán Thương Chu thanh đồng khí minh văn tuyển biên tả tổ biên,
Bắc Kinh thị: Văn vật Xuất bản xã, 1986; và 6. 林巳奈夫:《殷周時代青銅器の研究》(198)爵224,頁184 Lâm Tị
Nại Phu: “Ân Chu thời đại thanh đồng khí đích nghiên cứu” (1984) tước 224,
hiệt 184.
Các tác giả đã khai quật một cách khoa học các đồ đồng với tư cách là nguồn
tư liệu sơ cấp, tận dụng những thành tựu nghiên cứu phân
kỳ, và áp dụng phương pháp loại
hình học để phân biệt các dạng thức hoa văn mặt động vật
và từ đó tìm kiếm thức phát triển và biến đổi. Trần
Công Nhu - Trương Trường Thọ tin rằng nguồn gốc của các motif xuất hiện trên đồ đồng Thương Chu có thể được
tìm thấy trong văn hóa 二里頭 Nhị Lý Đầu (khoảng thế kỷ 21 - 17 TCN) và họ đã lấy đồ gốm và đồ đồng của nền văn hóa đó làm bằng
chứng. Các đồ đồng có trang trí các
họa tiết Thao thiết của văn hóa Nhị Lý Đầu hiện nay đã
được khai quật khảo cổ học. Các hiện vật tương tự cũng
có thể được tìm thấy trong các bộ sưu tập công cộng và tư nhân ở nước
ngoài, ví dụ, tại Bảo tàng Fogg, Đại học Harvard và các bộ sưu tập của Singer. Các
vật trang trí trên những đồ đồng này được làm từ
ngọc lam khảm. Chúng khác
nhau về cấu trúc và khá phức tạp, vì vậy chúng vẫn không thể đại
diện cho loại hình gốc của các họa tiết Thao thiết. Vì vậy chúng ta
phải tìm kiếm nguồn gốc của Thao thiết trong nghệ
thuật thời tiền sử của Trung Quốc.
Một số học giả đã sớm nhận thấy rằng một motif tương tự như Thao thiết đã xuất hiện trên các đồ
ngọc bích thuộc văn hóa Lương
Chử. Vào năm 1917, nhà cổ tự học 王崇烈 Vương Sùng Liệt, trong bình luận về loại 玉璜 ngọc hoàng của văn hóa này, coi nó như là một
motif trang trí Thao thiết trước thời Tam đại (Hạ, Thương, Chu) và so sánh nó với các
motif đồng. Vào
cuối những năm bảy mươi, các nhà
khảo cổ học tỉnh Chiết
Giang trong thảo luận về các họa tiết ngọc của
văn hóa Lương
Chử, tuyên bố rằng “Thao thiết, Lôi văn và văn xoắn ốc, tất cả đều là những motif quan trọng vẫn thường được tìm thấy trên
đồ đồng Thương Chu”. Tuy nhiên, các học giả khác đã bày tỏ một mức
độ hoài nghi nhất định
về việc liệu đã có đầy đủ bằng chứng để kết nối các motif trang trí từ các nền văn hóa
đồ đá mới Lương Chử ở phía đông nam với các nền văn
hóa Thương và Chu ở vùng đồng bằng
Trung Nguyên chưa. Phải thừa nhận rằng thái độ hoài nghi này là hợp lý
bởi vì mặc dù niên đại carbon-14 của văn hóa Lương Chử khoảng 5300-2100 trước Công nguyên, thì
niên đại muộn nhất liền kề với niên đại truyền thống khởi đầu của nhà
Hạ, một khu vực địa lý cách
rất xa văn hóa Lương
Chử.
Trong những năm gần đây,
các hiện vật ngọc bích có trang trí
thậm chí tinh xảo hơn so với những hiện vật đã biết trước đây, đã được khai
quật tiếp từ các di chỉ, chẳng
hạn như 草鞋山Thảo Hài Sơn, và 张陵山 Trương Lăng Sơn ở 吴县 Ngô huyện, 寺墩 Tự Đôn ở 武进 Vũ Tiến, tỉnh
Giang Tô; 福泉山 Phúc Tuyền Sơn tại quận 青浦 Thanh Phố, Thượng Hải; 反山 Phản Sơn và 瑤山 Dao Sơn tỉnh Giang Tô.
Phần quan trọng nhất đã được công bố trong 《良渚文化玉器》, 北京, 1990. Lương Chử Văn hóa Ngọc Khí, do đó chúng
tôi có một quan điểm mới để nghiên cứu
các motif Thao thiết trong văn
hóa Lương Chử. Trong phần dưới đây, tôi sẽ
phân tích các motif trên đồ ngọc Lương
Chử, sau đó so sánh nó với các motif Thao thiết trên đồ đồng thời Thương, bằng cách chỉ ra những
điểm tương đồng giữa hai nhóm hiện vật, và theo đó
cung cấp manh mối về bản chất và ý nghĩa của motif Thao thiết.
Việc phát hiện ra hình thức đầy đủ
và phức tạp nhất
của motif Thao thiết xuất hiện trên đồ ngọc Lương Chử là một khám phá quan trọng trong
các cuộc khai quật tại Phản
Sơn và Dao Sơn. Họa tiết trên một ống
“tông” 反山 Phản Sơn (M12: 98) và chiếc rìu
bằng ngọc (M12: 100) là những
ví dụ điển hình của hình mẫu này. Phiến
ngọc P1 là một họa tiết vẽ
trên ống tông. Các motif
mô tả theo mẫu này, có thể hiểu theo ba cấp độ:
(1) Nếu chúng ta coi mẫu họa tiết này như một toàn thể, thì đó là một hình người với hai khuôn mặt. Ở phía trên có một đầu đội lông vũ dưới đó là một đôi cánh tay mở rộng chống nạnh bên trái và bên phải, còn cơ thể thì có mắt và miệng; ở phía dưới là hai chân cong. Như tôi đã thảo luận trước đó, cũng có những mẫu họa tiết trên hiện vật thời nhà Thương có hai khuôn mặt, một trên đầu và một trên cơ thể, ví dụ, một hiện vật xương hình trụ từ ngôi mộ 1001, 西北岗 Tây Bắc Cương, 侯家庄 Hầu Gia Trang, và trống đồng trong Bộ sưu tập Sumitomo.
Họa
tiết hai mặt cũng xuất hiện trong
thần thoại Trung Quốc cổ đại. Theo 山 海经 Sơn Hải Kinh, 刑天與帝爭神,帝斷其首,葬之常羊之山,乃以乳為目,以臍為口,操干戚以舞。Hình Thiên dữ
đế tranh thần, đế đoạn kì thủ, táng chi thường dương chi san, nãi dĩ
nhũ vi mục, dĩ tề vi khẩu, thao can thích dĩ vũ. Hình
Thiên và [Hoàng] Đế tranh làm
chúa tể. Đế cắt đầu của Hình
Thiên, và chôn ở núi
Thường Dương. Nhưng Hình Thiên, lấy ngực làm mắt, lấy rốn làm miệng, vẫn tiếp tục chiến
đấu bằng chiếc rìu và chiếc
khiên của mình]. Trong chương 《地形》Địa Hình của
sách 淮南子 Hoài Nam Tử, nhân vật này được gọi là 刑乹, Hình
Càn (có thể 天
thiên và 乹
càn tương tự về âm vị học). Sách Hoài Nam
tử viết “Ở phía tây, có xác
chết của Hình Càn”, và 高誘
Cao Dụ bình
sách Hoài Nam Tử nói [高诱注: “一説曰: 形残之尸,于是以两乳为目,腹脐为口,操干戚以舞,天神断其手,… 天与帝至此争神,
帝断其首,葬之常羊之山,乃以乳为目,以脐为口,操干戚以舞。Cao
Dụ chú: “nhất thuyết viết: hình tàn chi thi, vu thị dĩ lưỡng nhũ vi mục, phúc tề
vi khẩu, thao can thích dĩ vũ, thiên thần đoạn kì thủ,…thiên dữ đế chí thử
tranh thần, đế đoạn kì thủ, táng chi thường dương chi san”.] “Xác chết của Hình Càn, ngay sau đó dùng hai núm vú làm đôi mắt và lỗ rốn làm miệng, nắm
mộc vung rìu . Thiên thần cắt tay ông… Thiên và Đế
chí tử tranh làm chúa tể, Đế chặt đứt đầu Thiên, táng tại núi Thường Dương”. Theo Sơn Hải Kinh, Hình
Thiên lần đầu tiên bị chặt đầu và ngay lập tức đã dùng núm vú mình
làm mắt, rốn mình làm miệng. Theo bình luận
của 高誘 Cao
Dụ về sách Hoài Nam Tử, lần đầu tiên Hình Thiên dùng vú làm mắt và rốn làm miệng,
cho dù tay và đầu đã
bị cắt cụt, nhưng motif cơ bản là nói
về một nhân vật có hai khuôn mặt, một trên đầu và một dưới thân.
(2)
Các họa tiết ấy có thể được
xem là có hai phần,
trên và dưới, đã được nối với nhau. Phần trên là nửa trên của cơ thể con người
và bao gồm một đầu đội lông vũ và một đôi
cánh tay; phần dưới gồm có một mặt động
vật với đôi mắt hình bầu dục và một cái miệng với những chiếc răng nanh nhô ra
và núp vào chân trước.
Ranh giới giữa phần trên và dưới là rất rõ ràng. Nếu chúng ta xem xét nó theo cách
này, thì động vật ở
phần dưới rất có thể là một con rồng của thời kỳ đó. Nếu chúng ta xem xét những
con rồng trên thanh ngọc
hình rồng của văn hóa Hồng Sơn ở tây Liêu Ninh (khoảng 4500-5000 năm TCN) một cách trực diện và mở rộng ra khuôn mặt
(pl.2), thì khuôn mặt nó
rất giống với mặt động vật đã nói ở trên, đúng như Ma
Chengyuan đã quan sát thấy. Các con rồng
được mô tả trên ngọc Hồng Sơn có một số
khác biệt với những con rồng sau: chúng không có
sừng, đôi mắt của chúng hình bầu dục
và răng nanh thì dài. Tôi cần phải nói rõ là theo
truyền thống sau này, thì Thao thiết ban đầu là
một con rồng “rất thích ăn
uống, chính vì vậy mà nó được chạm trên nắp đỉnh”. Điều này có
thể cần phải kiểm chứng thêm.
Năm 1988, đã phát hiện được một bức vẽ
trên mai rùa một người đàn ông cưỡi rồng từ văn hóa Ngưỡng
Thiều, được tìm thấy
tại Bộc Dương, tỉnh Hà Nam. Tuy nhiên, vì hình người trong họa tiết ngọc Lương Chử không có
vẻ gì là đang cưỡi rồng, cho
nên ví dụ này dường như không hề
được sử dụng trong
bất kỳ một giải thích nào về motif ngọc bích Lương Chử.
(3) Các khuôn mặt động vật có thể được xem
như là yếu tố chính trong việc thiết kế họa tiết và nhân vật trên như là một phần phụ cho nó. Khuôn mặt hình nêm của hình người với vành ngoài của một đầu đội lông vũ rất khác biệt đó chính là hình
dạng tương tự của một loại họa tiết trang trí mũ ngọc
bích rất phổ biến trong văn hóa Lương Chử. Theo báo cáo khai quật, tại Phản Sơn “ngoại trừ
một ngôi mộ, các
ngôi mộ khác đều
có một hình dạng như vậy... Chúng tôi đã gọi đó là “họa tiết trang trí hình
mũ” vì vị trí của chúng trong mộ và vì hình dạng của hiện
vật đều tương tự với loại hình ấy của chiếc
mũ thần linh [có nghĩa là, họa tiết hình người]. Trong mọi trường hợp, vị trí hiện
vật được khai quật đều nằm ở một bên của hộp sọ. Các hiện vật này thường phẳng và hình thang, lớn
hơn ở phía trên và nhỏ hơn
ở phía dưới. Rìa trên có dạng chóp mũ còn phía dưới là
một mộng ngắn đã được cắt ra. Hai đến
năm lỗ đã chám vào mộng và có
một khoảng hở dọc theo nó, để có thể được chèn vào
một cái gì đó và hơn nữa, cố định vững chắc tại chỗ. Ban đầu, nó phải được đặt
vào cạnh trên của một số loại
vật liệu gỗ. Bên
dưới họa tiết trang trí hình chiếc
mũ , thường
phát hiện được những mảnh ngọc màu son và kích thước
nhỏ, khảm thành dải”.
Mưu Vĩnh Kháng, tỉnh
Chiết Giang, trong một tiểu luận về các
lễ thức tôn giáo và ngọc Lương
Chử, suy luận rằng “các vật trang
trí hình mũ là một chiếc nắp đặt trên
đỉnh đầu của một tượng thần” và hơn nữa liên kết nó với các
hiện vật hình bướm khai quật được
ở Dư Diêu Hà Mẫu Độ. Vì vậy, chúng
tôi cho là hợp lý khi coi hình người trên mặt
động vật trong họa tiết này là để miêu tả loại họa tiết
trang trí hình mũ và đó là một biểu
tượng của một nhân vật thiêng
liêng [牟永抗, "良渚文化 玉器" 文物 出版社, 兩 木 出版社 浙江省 文物 考古 研究所 編. 1989 年 12 月. Mưu
Vĩnh Kháng, “Lương Chử văn hóa ngọc khí” Văn vật Xuất bản xã, Lưỡng mộc
Xuất bản xã Chiết Giang tỉnh Văn vật Khảo cổ Nghiên cứu sở biên, 1989 niên
12 nguyệt.]
____________________________________________
Tác giả: Lý Học Cần 1933-nay: sinh tại Bắc Kinh
trong một gia đình trí thức, nghiên
cứu lịch sử, triết học, văn hóa, cổ địa lý, ngữ văn Trung Quốc, công tác tại Đại học Thanh Hoa. 1951-1952 nghiên
cứu Khoa Triết học, Đại học Thanh Hoa, năm 1954 về Viện Hàn lâm Khoa học Trung Quốc; năm 2004, ông được bổ nhiệm làm Giám đốc Trung tâm nghiên cứu cao cấp, Đại học Thanh Hoa, giáo sư nghệ thuật.
Nguồn: Li Xueqin 1993. Liangzhu Culture and the Shang Dynasty Taotie Motif. Roderick Whitfield, ed. The Problem of Meaning in Early Chinese Ritual Bronzes, Colloquies on Art and Archaeology in Asia, no. 15. London: School of Oriental and African Studies, 1993: 56-65. Translated from the Chinese by Sarah Allan.
Người dịch tiếng Việt có tham khảo 李學勤:〈良渚文化玉器與饕餮紋的演變〉,頁92-95.Lý Học Cần: Lương Chử Văn hóa ngọc khí dữ Thao thiết văn đích diễn biến, hiệt 92- 95.
Ghi chú
*,
**,***,**** [Người dịch chú]:
呂氏春秋: 先識覽: 周鼎著饕餮,有首無身,食人未咽,害及其身,以言報更也。 為不善亦然。白圭之中山,中山之王欲留之,白圭固辭,乘輿而去;又之齊,齊王欲留之仕,又辭而去。人問其故。曰:「之二國者皆將亡。所學有五盡。何謂五 盡?曰:莫之必則信盡矣,莫之譽則名盡矣,莫之愛則親盡矣,行者無糧、居者無食則財盡矣,不能用人、又不能自用則功盡矣 。國有此五者,無幸必亡。中山、齊 皆當此。」若使中山之王與齊王,聞五盡而更之,則必不亡矣。其患不聞,雖聞之又不信。然則人主之務,在乎善聽而已矣。夫五割而與趙,悉起而距軍乎濟上,未 有益也。是棄其所以存,而造其所以亡也。
Lã thị Xuân thu: Tiên thức lãm: Chu đỉnh trứ Thao thiết, hữu thủ vô thân, thực nhân vị yến, hại cập kì thân, dĩ ngôn báo canh dã. Vi bất thiện diệc nhiên. Bạch Khuê chi Trung Sơn, Trung Sơn chi vương dục lưu chi, Bạch Khuê cố từ, thừa dư nhi khứ; hựu chi Tề, Tề vương dục lưu chi sĩ, hựu từ nhi khứ. Nhân vấn kì cố. Viết: “chi nhị quốc giả giai tương vong. Sở học hữu ngũ tận. Hà vị ngũ tận? Viết: mạc chi tất tắc tín tận hĩ, mạc chi dự tắc danh tận hĩ, mạc chi ái tắc thân tận hĩ, hành giả vô lương, cư giả vô thực tắc tài tận hĩ, bất năng dụng nhân, hựu bất năng tự dụng tắc công tận hĩ. Quốc hữu thử ngũ giả, vô hạnh tất vong. Trung Sơn, Tề giai đương thử”. Nhược sử Trung Sơn chi vương dữ Tề vương, văn ngũ tận nhi canh chi, tắc tất bất vong hĩ. Kì hoạn bất văn, tuy văn chi hựu bất tín. Nhiên tắc nhân chủ chi vụ, tại hồ thiện thính nhi dĩ hĩ. Phù ngũ cát nhi dữ Triệu, tất khởi nhi cự quân hồ tế thượng, vị hữu ích dã. Thị khí kì sở dĩ tồn, nhi tạo kì sở dĩ vong dã.
Chiếc đỉnh nhà Chu có hình tượng Thao thiết, có đầu không thân, ăn người không nuốt được, tự làm hại mình, lấy lời đền lại vậy; chẳng qua cũng là việc bất thiện. Bạch Khuê người Trung Sơn; vua Trung Sơn muốn dùng ông, Bạch Khuê một mực từ chối, nhân có xe nên bỏ đi; lại đến nước Tề, Tề vương muốn lưu lại phong quan tước, vì thế lại bỏ đi. Có kẻ hỏi việc đó, bèn đáp: Hai nước đó sẽ cùng bị diệt mà thôi; Sở học có năm cái tận. Sao lại nói về năm cái tận đó? Vì: 1. Niềm tin nào rồi cũng tận; 2. Danh tiếng đến đâu rồi cũng tận; 3. Thân cận đến mấy rồi cũng tận; 4. Đi không lương, ở không bổng thì tài năng rồi cũng tận; 5. Không biết dùng người, không tự dùng được mình thì sự nghiệp rồi cũng tận. Nước cũng có năm cái tận ấy vậy; vô hạnh chắc chắn sẽ tận diệt. Trung Sơn và Tề, hai nước hiện đều như vậy. Nếu khiến cho Trung Sơn vương và Tề vương biết rõ năm cái tận diệt ấy mà cải đổi thì chắc chắn sẽ không tận diệt, nhược bằng họa hoạn nhường ấy mà không biết, hoặc có biết mà không tin thì đó là lỗi của kẻ quốc chủ vậy, sao còn nói là không được nghe điều phải. Còn năm điều lành sẽ đến với Triệu, nước ấy tất khởi đại binh mà thành đại nghiệp, thật hữu ích thay. Bỏ qua cái hiện tồn thì chính là làm cho tận vong mau đến vậy.
Lã thị Xuân thu: Tiên thức lãm: Chu đỉnh trứ Thao thiết, hữu thủ vô thân, thực nhân vị yến, hại cập kì thân, dĩ ngôn báo canh dã. Vi bất thiện diệc nhiên. Bạch Khuê chi Trung Sơn, Trung Sơn chi vương dục lưu chi, Bạch Khuê cố từ, thừa dư nhi khứ; hựu chi Tề, Tề vương dục lưu chi sĩ, hựu từ nhi khứ. Nhân vấn kì cố. Viết: “chi nhị quốc giả giai tương vong. Sở học hữu ngũ tận. Hà vị ngũ tận? Viết: mạc chi tất tắc tín tận hĩ, mạc chi dự tắc danh tận hĩ, mạc chi ái tắc thân tận hĩ, hành giả vô lương, cư giả vô thực tắc tài tận hĩ, bất năng dụng nhân, hựu bất năng tự dụng tắc công tận hĩ. Quốc hữu thử ngũ giả, vô hạnh tất vong. Trung Sơn, Tề giai đương thử”. Nhược sử Trung Sơn chi vương dữ Tề vương, văn ngũ tận nhi canh chi, tắc tất bất vong hĩ. Kì hoạn bất văn, tuy văn chi hựu bất tín. Nhiên tắc nhân chủ chi vụ, tại hồ thiện thính nhi dĩ hĩ. Phù ngũ cát nhi dữ Triệu, tất khởi nhi cự quân hồ tế thượng, vị hữu ích dã. Thị khí kì sở dĩ tồn, nhi tạo kì sở dĩ vong dã.
Chiếc đỉnh nhà Chu có hình tượng Thao thiết, có đầu không thân, ăn người không nuốt được, tự làm hại mình, lấy lời đền lại vậy; chẳng qua cũng là việc bất thiện. Bạch Khuê người Trung Sơn; vua Trung Sơn muốn dùng ông, Bạch Khuê một mực từ chối, nhân có xe nên bỏ đi; lại đến nước Tề, Tề vương muốn lưu lại phong quan tước, vì thế lại bỏ đi. Có kẻ hỏi việc đó, bèn đáp: Hai nước đó sẽ cùng bị diệt mà thôi; Sở học có năm cái tận. Sao lại nói về năm cái tận đó? Vì: 1. Niềm tin nào rồi cũng tận; 2. Danh tiếng đến đâu rồi cũng tận; 3. Thân cận đến mấy rồi cũng tận; 4. Đi không lương, ở không bổng thì tài năng rồi cũng tận; 5. Không biết dùng người, không tự dùng được mình thì sự nghiệp rồi cũng tận. Nước cũng có năm cái tận ấy vậy; vô hạnh chắc chắn sẽ tận diệt. Trung Sơn và Tề, hai nước hiện đều như vậy. Nếu khiến cho Trung Sơn vương và Tề vương biết rõ năm cái tận diệt ấy mà cải đổi thì chắc chắn sẽ không tận diệt, nhược bằng họa hoạn nhường ấy mà không biết, hoặc có biết mà không tin thì đó là lỗi của kẻ quốc chủ vậy, sao còn nói là không được nghe điều phải. Còn năm điều lành sẽ đến với Triệu, nước ấy tất khởi đại binh mà thành đại nghiệp, thật hữu ích thay. Bỏ qua cái hiện tồn thì chính là làm cho tận vong mau đến vậy.
**
呂大臨“考古圖”記癸鼎說:中有獸面,蓋饕餮之象. Lữ Đại
Lâm “Khảo cổ đồ” kí quý đỉnh thuyết: “trung hữu thú diện, cái thao
thiết chi tượng” - Trong “Khảo cổ đồ”, Lữ Đại Lâm nói về Quý đỉnh: “Ở giữa có một
khuôn mặt thú, đó là hình tượng Thao thiết vậy”.
*** 陳夢家:“西周銅器斷代”(1955-1956)上冊頁63,爵33. Trần
Mộng Gia: “Tây Chu đồng khí đoạn đại” (1955-1956) Thượng sách hiệt 63, tước 33.
**** 李濟萬家保:《殷墟出土青銅鼎形器之研究》,《中國考古報告集新編》古器研究專刊第 4 本,台北,1970年; Lý Tế Vạn Gia Bảo: “Ân Khư xuất
thổ thanh đồng đỉnh hình khí chi
nghiên cứu”, “Trung Quốc Khảo cổ Báo cáo Tập tân biên”, Cổ khí Nghiên
cứu Chuyên san đệ 4 bản, Đài Bắc, 1970 niên.