Powered By Blogger

Thứ Tư, 29 tháng 11, 2023

Nghiên cứu về Giá trị và Vốn con người: Kinh nghiệm Di sản Tây Nguyên

Hà Hữu Nga

1. Quan niệm về giá trị

Một trong số các học giả Việt Nam sớm nhất nghiên cứu về giá trị dân tộc là Giáo sư Đào Duy Anh. Trong tác phẩm Việt Nam Văn hóa Sử cương xuất bản vào năm 1938 (tái bản năm 1998) tác giả tổng kết 7 giá trị tiêu biểu của người Việt Nam như sau: i) Kí ức tốt, thiên về nghệ thuật và trực giác; ii) Ham học, thích văn chương; iii) Ít mộng tưởng, có óc thiết thực; iv) Chăm chỉ làm việc ở mức độ “ít dân tộc bì kịp”; v) Giỏi chịu đựng, nhẫn nhục; vi) Chuộng hòa bình, biết hy sinh vì đại nghĩa; vii) Khả năng học theo và thích ứng rất tài (Đào Duy Anh, 1998). Học giả Trần Trọng Kim thì quan niệm về giá trị của người Việt  là: trí tuệ minh mẫn, học chóng hiểu, khéo chân tay, nhiều người sáng dạ, nhớ lâu, lại có tính hiếu học, trọng sự học thức, quý sự lễ phép, mến điều đạo đức, lấy sự nhân, nghĩa, lễ, trí, tín làm 5 đạo thường cho sự ăn ở. Ông cũng không bỏ qua một số đức tính tiêu cực như ỷ lại, khờ dại; ích kỷ, cục bộ gia đình, địa phương (Trần Trọng Kim, 2011). Thế hệ học giả đi sau cũng đúc rút những giá trị tiêu biểu ẩn trong tính cách dân tộc, đó là tính cộng đồng, trọng đạo đức, cần kiệm, giản dị, thực tiễn, yêu nước, yêu chuộng hòa bình, nhân đạo, lạc quan (Nguyễn Hồng Phong, 1963). Từ góc độ văn hóa, các đức tính nổi bật của người Việt được đúc rút thành các giá trị sau: i) Quan tâm; ii) Đoàn kết; ii) Hòa thuận; iv) Thương người; và v) Trọng người; vi) Trách nhiệm (Phan Ngọc 1994, tr 34). Một trong những nghiên cứu đặc biệt có ảnh hưởng là tổng kết 7 giá trị lớn của con người Việt Nam: i) Yêu nước, ii) Cần cù, iii) Anh hùng, iv) Sáng tạo, v) Lạc quan, vi) Thương người, và vii) Vì nghĩa. Trong đó, giá trị yêu nước được coi là cốt lõi nhất xuyên suốt toàn bộ lịch sử Việt Nam (Trần Văn Giàu 1980, tr. 105).

Từ sau Đổi mới năm 1986, với sự nhập cuộc của các học giả chịu ảnh hưởng học thuật Liên Xô và phương Tây, cách tiếp cận tâm lý luận suy đoán về giá trị dân tộc dần được thay thế bằng cách tiếp cận phân tích khách quan, khoa học của giá trị học. Giá trị được xác định là “những đánh giá của con người về các hiện tượng tự nhiên, xã hội và tư duy theo hướng những cái đó là cần, là tốt, là hay, là đẹp, hay đó chính là những cái được con người cho là chân, thiện, mỹ giúp khẳng định và nâng cao bản chất người. Một khi những nhận thức giá trị ấy đã hình thành và định hình thì nó chi phối cách suy nghĩ, niềm tin, hành vi, tình cảm của con người” (Trần Ngọc Thêm 2016). Tiêu biểu trong số đó là công trình Giá trị học của Giáo sư Phạm Minh Hạc được tiếp cận theo phương pháp luận liên ngành Đạo đức học, Văn hoá chính trị, Nhân học văn hoá, Tâm lý học, Giáo dục học chủ yếu nhằm mục đích cung cấp cơ sở lý luận để đúc kết và xây dựng Hệ giá trị chung của người Việt Nam trong thời đại công nghiệp hóa theo hướng hiện đại, mở cửa hội nhập với khu vực, với thế giới (Phạm Minh Hạc 2010, 2012). Với hướng tiếp cận này, lần đầu tiên giá trị học Việt Nam đã đề xuất được các khái niệm và các khung lý thuyết, khung logic, mang tính phân tích và thực sự có tính ứng dụng cao và hiệu quả, mà một trong số đó là khái niệm và khung lý thuyết giá trị bản thân là công cụ tâm lí, con người dùng nó để ứng xử với cộng đồng, xã hội và với chính mình. Trong cấu trúc nhân cách, “giá trị bản thân” trở thành động cơ. Ví dụ, sống không phải chỉ là “sống còn” (tồn tại), mà còn “chia sẻ, trách nhiệm, cống hiến, lương tâm” (Phạm Minh Hạc 2016a). Nhân cách là bình diện cao nhất trong cấu trúc tâm lí của con người: mức thấp nhất là bình diện “cá thể”, rồi đến bình diện “cá nhân” và cuối cùng là bình diện “nhân cách” (Phạm Minh Hạc 2015). Người nào cũng mang giá trị loài trong mình, gọi là “giá trị sống còn”. Bình diện “cá thể” chuyển hoá lên bình diện “cá nhân”: cá nhân tồn tại như một thành viên cộng đồng xã hội. Ở đây có nghĩa vụ xã hội, trách nhiệm xã hội theo các chuẩn mực, ghi trong hương ước, nội quy trường học, cơ quan, xí nghiệp..., quan trọng hơn cả là theo pháp luật nhà nước. Ngày nay, chúng ta đang sống trong thời đại hội nhập, có cả các chuẩn mực quốc tế. Nghĩa vụ xã hội nâng lên thành trách nhiệm xã hội (Phạm Minh Hạc 2010, 2012). Các giá trị dân tộc phải là một bộ phận thiết yếu trong “giá trị bản thân”, tính khách thể gắn với tính chủ thể, bình diện “cá nhân” gắn với bình diện “nhân cách” (Phạm Minh Hạc 2016).

Về phương diện giá trị quốc gia, cần phải đặc biệt lưu ý đến các văn kiện của Đảng về vai trò của văn hóa, giá trị văn hóa trong phát triển (Đảng Cộng sản Việt Nam 2015). Mới đây, Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã xác định một trong những nhiệm vụ trọng yếu là xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam. Trong đó, việc tập trung nghiên cứu, xác định và triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới” có vai trò đặc biệt quan trọng (Đảng Cộng sản Việt Nam 2021). Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã định hướng:Xây dựng con người Việt Nam thời kỳ đổi mới, phát triển, hội nhập với những giá trị chuẩn mực phù hợp, gắn với giữ gìn, phát huy giá trị gia đình Việt Nam, hệ giá trị văn hóa, giá trị của quốc gia - dân tộc; kết hợp nhuần nhuyễn những giá trị truyền thống với giá trị thời đại: Yêu nước, đoàn kết, tự cường, nghĩa tình, trung thực, trách nhiệm, kỷ cương, sáng tạo. Những giá trị ấy được nuôi dưỡng bởi văn hóa gia đình Việt Nam với những giá trị cốt lõi: Ấm no, hạnh phúc, tiến bộ, văn minh; được bồi đắp, phát triển bởi nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc với hệ giá trị: Dân tộc, dân chủ, nhân văn, khoa học; trên nền tảng của hệ giá trị quốc gia và cũng là mục tiêu phấn đấu cao cả của dân tộc ta: Hòa bình, thống nhất, độc lập, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, hạnh phúc” (Nguyễn Phú Trọng 2021).

Trên cơ sở đó, ngày càng xuất hiện nhiều đề tài, dự án nghiên cứu tập trung vào lĩnh vực này. Đặc biệt mới đây Ban Tuyên giáo Trung ương phối hợp với Hội đồng Lý luận Trung ương, Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam đã tổ chức Hội thảo lớn ở phạm vi toàn quốc về “Hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị gia đình và chuẩn mực con người Việt Nam trong thời kỳ mới”. Kỷ yếu Hội thảo đã tập hợp được 78 bài viết của các học giả, các chuyên gia, các nhà quản lý, giúp làm sáng tỏ hầu hết các vấn đề về lý thuyết và thực tiến liên quan đến 4 lĩnh vực chủ yếu là: i) Hệ giá trị và chuẩn mực con người Việt Nam; ii) Hệ giá trị gia đình Việt Nam; iii) Hệ giá trị văn hóa Việt Nam; iv) Hệ giá trị quốc gia Việt Nam (Hội đồng Lý luận Trung ương 2022). Dưới đây Đề tài sẽ điểm qua một số nghiên cứu có tính phân tích, làm sáng tỏ được nội hàm khái niệm và khung lý thuyết có giá trị ứng dụng cao của 4 lĩnh vực trên.   

Hệ giá trị con người Việt Nam: Hệ giá trị con người Việt Nam là nội dung cấu thành quan trọng nhất, quyết định nhất chất lượng nhân lực và nguồn lực con người trong mọi thời đại. Hệ giá trị con người có mặt trong tất cả các cấu phần của nguồn lực con người, của nhân lực: thể lực, trí lực, tâm lực và kỹ lực bao gồm kỹ năng trong đó có “kỹ năng mềm” được đánh giá cao trong những thập niên gần đây. Vì vậy việc xây dựng, phát huy và phát triển hệ giá trị con người trong giai đoạn hiện nay cần tập trung vào các điểm sau: i) Nghiên cứu chính sách, giải khơi dậy, khai thác, phát huy, phát triển hệ giá trị con người và hệ giá trị Việt Nam, nhằm phát triển nguồn nhân lực và nguồn nhân lực chất lượng cao; ii) Cần làm rõ vai trò chủ thể, động lực của con người, có giải pháp phát huy các hệ giá trị mà con người Việt Nam mang trong mình; iii) Cần phát huy các giá trị và hệ giá trị Việt Nam trong quá trình tạo ra các sản phẩm có giá trị và có thể tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu, nhất là hệ giá trị con người thông qua công nghiệp văn hóa như điện ảnh, du lịch văn hóa, du lịch tâm linh, lịch sử, sinh thái; iv) Xây dựng và phát huy các hệ giá trị con người, chống suy thoái về tư tưởng, phẩm chất, đạo đức, lối sống, tư duy, của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên; củng cố sự ổn định xã hội, đảm bảo an ninh con người; v) Vai trò giáo dục hệ giá trị con người của các chủ thể cá nhân, gia đình, nhà trường, xã hội đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong việc tiếp nhận, hình thành, và phát triển các hệ giá trị Việt Nam nói chung và hệ giá trị con người nói riêng (Lương Đình Hải, 2023, tr.17-28).

Hệ giá trị gia đình Việt Nam: Gia đình không chỉ là nơi bảo tồn nòi giống, duy trì sự tồn tại của nhân loại, mà còn là môi trường giáo dục văn hóa tốt nhất cho các cá nhân trưởng thành, đó cũng là nơi cung cấp lực lượng lao động tái sản xuất sức lao động cho xã hội. Phát triển của xã hội luôn đòi hỏi một sự định hướng về tiêu chuẩn giá trị, để gia đình vừa có thể dung nạp xu hướng tiến bộ nhưng không bị chia cắt bởi những chuẩn mực tốt đẹp trong truyền thống. Hệ giá trị gia đình bao gồm: i) Giá trị gia đình trong quan hệ vợ chồng, đặc biệt là chia sẻ công việc với phụ nữ, giúp họ được nghỉ ngơi, giải trí, chăm sóc sức khỏe; ii) Giá trị bình đẳng giữa vợ và chồng, đặc biệt là quyền quyết định các vấn đề gia đình; iii) Giá trị hòa thuận, phi bạo lực gia đình kể cả đối với sức khỏe thể chất và sức khỏe tình thần; iv) Giá trị bền vững gia đình, giảm thiểu tình trạng ly hôn; v) Giá trị tôn trọng quan tâm, chăm sóc lẫn nhau giữa các thành viên trong gia đình, giữa ông bà, cha mẹ, anh chị em, con cháu; vi) Giá trị an ninh gia đình về kinh tế, thể chất, tinh thần, tuổi già, ốm đau, bệnh tật; vii) Giá trị về vai trò của gia đình trong phát triển xã hội; viii) Giá trị về chức năng giáo dục của gia đình; ix) Giá trị về tái sản xuất nòi giống, duy trì truyền thống nhân văn của dân tộc thông qua gia đình (Lê Thị Quý 2022, tr.237-247; Nguyễn Hữu Minh 2022, tr.289-299).

Hệ giá trị văn hóa Việt Nam: Giá trị, hệ giá trị văn hoá do con người sáng tạo ra trong quá trình tương tác với tự nhiên, xã hội, sự sáng tạo này là liên tục và đến lượt mình - hệ giá trị văn hoá - lại trở thành yếu tố cơ sở, nền tảng, chuẩn mực chi phối phương châm, triết lý sống cũng như từng hành vi của con người (Nguyễn Thị Phương Châm 2022, tr.458-468). Các giải pháp giữ gìn và phát huy hệ giá trị văn hóa dân tộc được đề xuất, bao gồm: i) Xác định nội hàm cụ thể của hệ giá trị văn hóa; ii) Hoàn thiện thể chế, chính sách chính để đưa hệ giá trị văn hóa thấm sâu vào toàn bộ xã hội; iii) Đẩy mạnh dân chủ hóa xã hội, đồng thời, giữ nghiêm kỷ cương, phép nước; iv) Nêu cao vai trò đầu tàu gương mẫu của tầng lớp lãnh đạo, quản lý xã hội, đội ngũ văn nghệ sĩ; v) Tăng cường tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức về giá trị và hệ giá trị; vi) Phát huy vai trò của các thiết chế gia đình, nhà trường và xã hội trong xây dựng hệ giá trị; vii) Phát huy vai trò, sứ mệnh của văn học, nghệ thuật trong xây dựng giá trị văn hóa (Bùi Hoài Sơn 2022, tr.482-489).

Hệ giá trị quốc gia Việt Nam: Là những giá trị cốt lõi, phản ánh những khát vọng, mong cầu, mục tiêu chung của cả quốc gia. Đó là những giá trị được kết tinh từ quá khứ, phát huy vai trò trong hiện tại và có định hướng tới tương lai, làm nền tảng để điều tiết, dẫn đạo cho sự phát triển của đất nước. Giá trị quốc gia thường phản ánh những mục đích thiết thân mà cả xã hội phấn đấu đạt đến, các giá trị đó được giáo dục, cổ vũ, khuyến khích trong gia đình, nhà trường và xã hội. Hệ giá trị quốc gia đóng vai trò quan trọng trong việc đoàn kết, quy tụ các cộng đồng dân tộc, vùng miền, củng cố sức mạnh tổng hợp của quốc gia. Nguyên tắc xây dựng hệ giá trị quốc gia: i) Là những giá trị cốt lõi, trọng điểm, ưu tiên hàng đầu trong giai đoạn hiện nay; ii) kết hợp hài hòa giữa các giá trị Việt Nam với các giá trị phổ quát, tiến bộ của thời đại và nhân loại; iii) hài hòa giữa ý chí của tầng lớp lãnh đạo với điều kiện thực hiện và sự đồng thuận của người dân, phải xuất phát từ những mong đợi của nhân dân; iv) diễn đạt cần ngắn gọn, súc tích, dễ nhớ, dễ thuộc, dễ tuyên truyền, triển khai (Từ Thị Loan 2022, tr.237-247). Nhiều học giả đã đưa ra đề xuất về hệ giá trị quốc gia Việt Nam, sau đây là một số trong nhiều đề xuất đó: 1) Hòa bình, thống nhất, độc lập, tự do, đoàn kết, dân chủ, công bằng, bình đẳng, phồn vinh, hạnh phúc (Hoàng Chí Bảo 2022, tr. 680); 2)  Độc lập - chủ quyền; Thống nhất về kinh tế, xã hội và văn hóa; Dân quyền (Hồ Sĩ Quý 2018, 2022); 3) Hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, công bằng, văn minh, phồn vinh, hạnh phúc, (Từ Thị Loan 2022, tr.240); 4) Dân giàu; nước mạnh; dân chủ; công bằng; văn minh; hạnh phúc (Phạm Duy Đức 2021, tr.45).

Trong một số văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam, những định hướng xây dựng giá trị con người Việt Nam cũng được nhấn mạnh, tiêu biểu nhất phải kể đến Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII (năm 1998) và Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI (năm 2014). Các giá trị của con người Việt Nam được Đảng ta xác định tại Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII bao gồm: lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc; tinh thần đoàn kết; ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc; lòng nhân ái; khoan dung; trọng nghĩa tình; trọng đạo lý; đức tính cần cù; sáng tạo trong lao động; tinh tế trong ứng xử; giản dị trong lối sống. Đảng ta khẳng định những giá trị trên được đánh giá là “những giá trị bền vững, tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp nên qua hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 1998).

Tiếp nối những quan điểm xây dựng hệ giá trị con người Việt Nam, Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI một lần nữa khẳng định: Hoàn thiện các chuẩn mực giá trị văn hóa và con người Việt Nam, tạo môi trường và điều kiện để phát triển về nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tuân thủ pháp luật; đề cao tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc, lương tâm, trách nhiệm của mỗi người với bản thân mình, với gia đình, cộng đồng, xã hội và đất nước… Phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con người để phát triển văn hóa. Trong xây dựng văn hóa, trọng tâm là chăm lo xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp, với các đặc tính cơ bản: yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2014).

2. Quan niệm về vốn con người

Việc xây dựng bản chất văn hóa của nguồn lực/vốn con người, đã được Đảng ta chỉ rõ: “Phát huy nhân tố con người trên cơ sở đảm bảo công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân; kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội; giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần; giữa đáp ứng các nhu cầu trước mắt với chăm lo lợi ích lâu dài; giữa cá nhân với tập thể và cộng đồng xã hội” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 1991, tr.12-13). Ở Việt Nam, nguồn lực nhân văn được các học giả xác định là nguồn lực liên quan tới giá trị sống của con người bao gồm: tư tưởng, quan điểm, tình cảm, trí tuệ, vẻ đẹp, sức mạnh, phẩm giá. Nguồn lực nhân văn cũng bao hàm cách nhìn nhận về nhiều mặt của con người trong các mối quan hệ với tự nhiên, xã hội và nhân loại, những giá trị tốt đẹp của từng cá nhân con người, trách nhiệm cộng đồng, trách nhiệm xã hội. Nguồn lực nhân văn còn được coi là tiềm năng, là điều kiện cần để phát huy thành động lực cho phát triển xã hội. Việc phát triển nguồn lực nhân văn luôn gắn liền với sự phát triển của quốc gia, góp phần hình thành nguồn nhân lực với tư cách là chủ thể của xã hội, có trình độ học vấn mang đậm tính nhân văn và các giá trị văn hóa tốt đẹp, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp đổi mới đất nước. Nguồn lực nhân văn Việt Nam còn là nguồn lực con người phát triển toàn diện, đáp ứng được những yêu cầu và đòi hỏi về phẩm chất, là đạo đức của người cách mạng; là sự thể hiện trí tuệ, tài năng, năng lực của cá nhân con người (Trương Cộng Hòa và Nguyễn Thị Thúy Vân 2022, tr,50-51).

Đặc điểm và các điều kiện để phát huy, ứng dụng giá trị và nguồn lực/vốn con người phục vụ phát triển đất nước trong giai đoạn mới

Đặc điểm của giai đoạn hiện nay tác động đến việc phát huy, ứng dụng giá trị và nguồn lực/vốn con người: Việc phát huy và ứng dụng giá trị và nguồn lực/vốn con người phục vụ phát triển đất nước ta hiện nay diễn ra trong bối cảnh mới cả trên phương diện quốc tế lẫn trong nước. Thứ nhất, nền kinh tế thị trường thế giới đã bước sang giai đoạn phát triển mới với nhiều đặc điểm, tính chất khác trước, trên nền tảng công nghiệp và các công nghệ mới, đặc biệt dựa trên tri thức với tư cách là nguồn lực sáng tạo vô tận của con người. Thứ hai, cuộc cách mạng khoa học - công nghệ đang diễn ra mạnh mẽ làm thay đổi nhanh chóng các lực lượng sản xuất toàn cầu, các quan hệ xã hội từ cấp vĩ mô toàn cầu đến cấp vi mô trong từng gia đình. Thứ ba, quá trình toàn cầu hóa, dù vài năm gần đây xu hướng dân tộc chủ nghĩa trỗi dậy, vẫn tiếp tục diễn ra mạnh mẽ, không thể đảo ngược, đang tác động mạnh đến sự phát triển của các quốc gia, nhất là các nước đang phát triển, cả về phương diện cơ hội lẫn thách thức. Thứ tư, những vấn đề toàn cầu ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của các quốc gia và toàn nhân loại, vừa đang có thêm những nội dung và biểu hiện mới. Đại dịch COVID-19 làm đảo lộn nền kinh tế của nhiều quốc gia và của thế giới chỉ là một ví dụ. Thứ năm, hòa bình, hợp tác, liên kết và phát triển vẫn là xu thế lớn, nhưng, cuộc đấu tranh giành quyền ảnh hưởng giữa các cường quốc, các quan hệ quốc tế diễn biến phức tạp, khó lường, cũng có thêm nhiều nội dung và biểu hiện mới. Tất cả những quá trình đó đang ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự nghiệp phát triển con người và xã hội ở nước ta (Lương Đình Hải 2022, tr.17).

Các điều kiện để phát huy và ứng dụng nguồn lực/vốn con người phục vụ phát triển đất nước: Để có thể phát huy được nguồn lực/vốn con người cho phát triển đất nước, các nhà nghiên cứu đã đưa ra khung giải pháp với tư cách là các điều kiện cần thiết sau: i) Phát triển kinh tế, bảo đảm thu nhập và đời sống vật chất cho người dân: Đây là điều kiện cơ bản và là xu hướng tất yếu của thế giới ở mọi thời đại; để đáp ứng được đòi hỏi này, Việt Nam cần xây dựng nền kinh tế tự chủ, hình thành năng lực sản xuất quốc gia mới có tính tự chủ, tham gia hiệu quả, cải thiện vị trí trong chuỗi giá trị toàn cầu và khả năng chống chịu hiệu quả trước các tác động lớn, bất thường từ bên ngoài; ii) Phát triển văn hóa và đời sống tinh thần cho người dân: Trong giai đoạn mới cần tập trung nghiên cứu, xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam; bảo vệ và phát huy các giá trị tốt đẹp, bền vững trong truyền thống văn hóa Việt Nam; đẩy mạnh giáo dục nâng cao nhận thức, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật, bảo vệ môi trường, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, gắn kết chặt chẽ giữa giá trị truyền thống và giá trị hiện đại; iii) Phát triển giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao: Là tiền đề bắt buộc để phát huy nguồn lực con người - yếu tố cơ bản để phát triển đất nước bền vững; cùng với việc nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo trong nước, cần chú trọng thúc đẩy quá trình đào tạo ở nước ngoài; phải coi đây là điều kiện quan trọng góp phần tích cực trong việc xây dựng nguồn nhân lực có chất lượng cao, trong đó có nguồn nhân lực khoa học xã hội; iv) Phát triển hài hòa giữa khu vực nông thôn, miền núi, biên giới, hải đảo: Tạo điều kiện chuyển đổi cơ cấu sản xuất của người dân khu vực nông thôn, miền núi và hải đảo; phát triển giao thông, trường học, trạm y tế; các công trình điện tới các thôn, bản đặc biệt khó khăn, phát triển kinh tế - xã hội tại các huyện nghèo vùng cao (Trương Cộng Hòa và Nguyễn Thị Thúy Vân 2022, tr. 51-53).

Hiện trạng nghiên cứu phát huy, ứng dụng giá trị và nguồn lực/vốn con người phục vụ phát triển Tây Nguyên

Ba cấp độ phát huy và ứng dụng giá trị và nguồn lực/vốn con người

Tuy các nghiên cứu trong nước về Tây Nguyên không đề cập trực tiếp đến khái niệm “các giá trị và nguồn lực/vốn con người phát triển Tây Nguyên”, nhưng trong thực tế tất cả các nghiên cứu về Tây Nguyên đều ít nhiều động đến thực chất việc phát huy và ứng dụng các giá trị và nguồn lực nhân cho phát triển vùng này ở ba cấp độ: i) Phát huy và ứng dụng các nguồn lực/vốn con người để thỏa mãn được các nhu cầu sinh học của cơ thể mỗi cá nhân con người Tây Nguyên, đó là các vấn đề liên quan đến sinh kế của người dân Tây Nguyên với tư cách là những đòi hỏi đáp ứng các nhu cầu cơ bản về ăn, mặc, ở, sinh hoạt của người dân Tây Nguyên; ii) Các điều kiện tiên quyết về phương diện xã hội đảm bảo việc phát huy và ứng dụng các nguồn lực/vốn con người phát triển Tây Nguyên, đặc biệt là cấu trúc xã hội của các nhóm người Tây Nguyên từ quan hệ cá nhân đến gia đình, dòng họ, cộng đồng, tộc  người, vùng, quốc gia; và iii) Phát huy và ứng dụng các nguồn lực/vốn con người để đáp ứng các yêu cầu phát triển về phương diện xã hội của cá nhân, nhóm, cộng đồng, vùng, quốc gia liên quan cả đến môi trường, kinh tế, xã hội, văn hóa, con người và thể chế, đặc biệt là trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa Tây Nguyên cũng như cả nước hiện nay.

Hiện trạng nghiên cứu phát huy và ứng dụng

Nghiên cứu phát huy, ứng dụng giá trị và nguồn nhân lực DTTS Tây Nguyên: Tiêu biểu cho hướng tiếp cận này là Đề án Nghiên cứu Luận cứ và Giải pháp phát triển nguồn nhân lực dân tộc thiểu số nước ta đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Học viện Chính trị Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh do GS.TS. Nguyễn Đăng Thành làm Chủ nhiệm. Đề án đã đề xuất các giải pháp chủ chốt liên quan đến các giá trị và nguồn lực nhân văn như sau: i) Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội các vùng Trường Sơn - Tây Nguyên cần tính toán đầy đủ đến giá trị xã hội, văn hóa và bản sắc tộc người trong phát triển nguồn nhân lực; ii) Giải quyết thỏa đáng các mâu thuẫn nảy sinh từ quá trình phân bố lại nguồn nhân lực do tác động của nhập cư; trang bị cho các cộng đồng di cư các hiểu biết về phong tục tập quán, lối sống của đồng bào DTTS tại chỗ; iii) Giải quyết tốt chính sách đất đai, tôn trọng lối sống dựa trên cơ sở tập quán địa phương có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình phát huy giá trị nguồn nhân lực DTTS ở Tây Nguyên; iv) Nâng cao năng lực đào tạo nguồn nhân lực DTTS có trình độ cao đối với hệ thống giáo dục đại học ở Tây Nguyên sao cho thích hợp với đặc điểm xã hội, văn hóa, bản sắc tộc người; v) Quy hoạch phát triển các đô thị vùng, ngã ba biên giới phù hợp với các cam kết tam giác phát triển Việt Nam - Lào - Campuchia, hành lang Đông - Tây và tiểu vùng Mê Kông tạo điều kiện và trò thúc đẩy phát huy tốt giá trị của nguồn nhân lực trình độ cao cho Tây Nguyên; vi) Phát huy giá trị nguồn nhân lực DTTS ở Tây Nguyên phải gắn liền với chính sách ngôn ngữ DTTS tôn trọng đức tin tôn giáo của người dân Tây Nguyên (Nguyễn Đăng Thành 2010, tr. 375-378).

Nghiên cứu giá trị sinh kế và tri thức bản địa bền vững của các dân tộc Tây Nguyên dựa trên cơ sở các nguồn lực tự nhiên nơi đây; đó là văn hóa “ăn rừng” (sống và thích nghi với môi trường rừng, vừa khai thác, vừa bảo vệ rừng) của các cộng đồng dân tộc thiểu số Tây Nguyên. Tính đặc thù thích nghi với rừng và văn hóa “ăn rừng” của các cộng đồng dân tộc thiểu số Tây Nguyên dựa trên hệ giá trị tri thức bản địa về canh tác nương rẫy với kỹ thuật phát – đốt – chọc lỗ - bỏ hóa bằng du canh, du cư nhằm bảo vệ môi trường. Về phương diện này, các đóng góp chủ yếu thuộc về các nghiên cứu nhân học và dân tộc học Tây Nguyên, kể cả người Pháp và người Việt. Đó trước hết là công trình nổi tiếng của nhà dân tộc học Pháp Maitre H., (1912 (gốc); 2008) về lịch sử khai thác và phát triển Tây Nguyên trước thế kỷ XX, gắn liền với phương thức thích nghi với rừng; một công trình nổi tiếng của nhà nhân loại học Pháp Dournes J., (1950 (gốc), 2002) cũng đã trở thành tác phẩm kinh điển về quan hệ thích nghi giữa con người và núi rừng Tây Nguyên. Đặc biệt không thể không đề cập đến tác phẩm nổi tiếng về cách thức “ăn rừng” của người Mnông Gar của nhà dân tộc học tài ba người Pháp chuyên về Tây Nguyên là Condominas G., (2008). Các nhà nhân loại học Mỹ cũng có các nghiên cứu đáng chú ý về phương thức sống với rừng của người Tây Nguyên, tiêu biểu là Hickey G. L., (1979). Về lĩnh vực này, các nhà nghiên cứu Việt Nam cũng đã có những thành tựu nghiên cứu đáng kể như các công trình của Bế Viết Đẳng và cộng sự (1982); Đặng Nghiên Vạn (1975, 1979, 1980); Bùi Minh Đạo (2000, 2010, 2011).

Nghiên cứu giá trị hội nhập tộc người bền vững của các dân tộc Tây Nguyên dựa trên cơ sở các nguồn vốn xã hội nơi đây; phát huy giá trị hòa nhập của các cộng đồng di dân người Kinh và các dân tộc thiểu số khác đến Tây Nguyên với các phương thức canh tác ruộng nước bên cạnh mô hình canh tác phát - đốt - chọc lỗ - bỏ hóa bằng du canh, du cư của các cộng đồng bản địa Tây Nguyên. Vai trò của người Kinh thể hiện rõ trong các lĩnh vực sau: i) Trợ giúp đảm bảo sinh kế và không ngừng nâng cao mức sống cho đồng bào các dân tộc thiểu số Tây Nguyên; ii) Trợ giúp phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, đảm bảo cho đồng bào các dân tộc khai thác thế mạnh của địa phương làm giàu cho mình và đóng góp tích cực vào sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá Tây Nguyên; iii) Đóng vai trò chủ yếu trong xây dựng kết cấu hạ tầng, trước hết là giao thông, thông tin liên lạc, năng lượng và các chương trình cung cấp nước cho sản xuất và sinh hoạt của đồng bào của dân tộc; iv) Giúp thúc đẩy công tác khuyến nông, tổ chức sản xuất theo hướng khoa học, hiện đại và đẩy mạnh công cuộc xoá đói giảm nghèo bền vững; tổ chức thực hiện có hiệu quả công tác đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho đồng bào dân tộc thiểu số; v) Giúp phát triển giáo dục đào tạo, đặc biệt là đào tạo cán bộ và đội ngũ trí thức cho các dân tộc thiểu số, giúp nâng cao dân trí, chống tái mù và phổ cập giáo dục tiểu học trong độ tuổi; vi) Giúp phát huy những giá trị văn hoá của cộng đồng các dân tộc và của từng dân tộc; xây dựng nền văn hoá tiên tiến, và duy trì bản sắc dân tộc, giúp tiếp thu những giá trị văn hoá khác để làm phong phú thêm đời sống tinh thần của đồng bào các dân tộc thiểu số, bảo tồn di sản văn hoá phi vật thể và truyền khẩu của người dân tộc, bảo tồn và phát triển ngôn ngữ, chữ viết các dân tộc thiểu số; vii) Góp phần xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh, đủ sức lãnh đạo thực hiện các chương trình về phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội Tây Nguyên (Đặng Nghiêm Vạn 1975, 1979, 1980, 1988, 1996; Hà Quế Lâm 2002; Nguyễn Văn Nam 2006).

Nghiên cứu phát huy giá trị nhân văn bền vững của các dân tộc Tây Nguyên dựa trên cơ sở các nguồn vốn tự nhiên, xã hội, văn hóa và tri thức bản địa nơi đây: i) Phát huy giá trị văn hóa bền vững cho người dân các dân tộc Tây Nguyên dựa trên cơ sở các nguồn vốn tự nhiên, vốn xã hội, vốn văn hóa, sự đa dạng văn hóa - tộc người và bản sắc văn hóa độc đáo nơi đây; ii) Phát huy giá trị bản sắc bền vững cho người dân các dân tộc Tây Nguyên dựa trên cơ sở các nguồn đa dạng về dân tộc, ngôn ngữ, văn hóa, phong tục tập quán, tôn giáo tín ngưỡng của các cộng đồng người khác nhau nơi đây; iii) Phát huy giá trị phát triển tri thức cho các dân tộc Tây Nguyên dựa trên cơ sở các truyền thống gắn bó, các kinh nghiệm ngàn đời, và sự hiểu biết sâu sắc cảnh quan, thiên nhiên, cộng đồng, ngôn ngữ, văn hóa, phong tục tập quán, tôn giáo tín ngưỡng của các cộng đồng người khác nhau nơi đây; iv) Phát huy giá trị kinh tế bền vững cho vùng Tây Nguyên dựa trên cơ sở các lợi thế về địa kinh tế xuyên quốc gia, về các nguồn lực tự nhiên, nguồn lực xã hội, nguồn lực công nghệ, và nguồn lực con người nơi đây; v) Phát huy giá trị chính trị bền vững cho vùng Tây Nguyên dựa trên cơ sở các lợi thế địa chính trị, về tính ưu việt của hệ thống chính trị, về truyền thống đấu tranh cách mạng, về tinh thần yêu nước của người dân nơi đây; vi) Phát huy giá trị an ninh bền vững cho vùng Tây Nguyên dựa trên cơ sở các lợi thế về bản chất yêu hòa bình, mong muốn được ổn định, truyền thống đoàn kết, tôn trọng, khoan dung giữa các dân tộc khác nhau, văn hóa khác nhau, tôn giáo khác nhau; vii) Phát huy giá trị quốc phòng bền vững cho vùng Tây Nguyên dựa trên cơ sở các lợi thế chiến lược quốc gia và khu vực về quân sự, truyền thống đấu tranh yêu nước, và đấu tranh cách mạng về phương diện quân sự nơi đây (Lê Văn Khoa, Phạm Quang Tú 2014, tr.496-497).

Nghiên cứu phát huy và ứng dụng giá trị quan hệ xuyên biên giới bền vững của các cộng đồng dân tộc thiểu số bản địa Tây Nguyên với các cộng đồng người tại hai quốc gia láng giềng là Lào và Campuchia: Để phát triển mạnh hơn nữa, và khai thác được mọi tiềm năng của khu vực ngã ba Đông Dương, chính phủ ba nước Căm Pu Chia, Lào và Việt Nam đã thống nhất qui hoạch khu vực Tam giác Phát triển vùng biên giới ba nước vào năm 1999, bao gồm 10 tỉnh thuộc khu vực biên giới chung giữa ba nước là Stung Treng, Rattanakiri, Mondulkiri (Cămpuchia), Sekong, Attapư, Saravan (Lào), Kon Tum, Gia Lai, Đak Lak, và Đak Nông (Việt Nam). Nhìn chung đây là khu vực kém phát triển so với các vùng khác của cả ba nước, với tổng diện tích tự nhiên là 111.021 km2, với số dân là 4,267 triệu người. Ba nước đã nhất trí phối hợp xây dựng Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội khu vực Tam giác phát triển Cămpuchia – Lào - Việt Nam đến năm 2020 và được ba thủ tướng ba nước thông qua tháng 11 năm 2004 tại Viêng Chăn; chính phủ Nhật Bản sẽ hỗ trợ cho Dự án này (DRCC 2007).

Nghiên cứu phát huy và ứng dụng giá trị phát triển bền vững vùng Tây Nguyên: Trong lịch sử thích nghi và khai thác Tây Nguyên, có lẽ cho đến bây giờ các cộng đồng người dân cũng như nhà nước đã thực sự nhận thức rõ được vai trò chiến lược phát triển tổng thể Tây Nguyên một cách đầy đủ nhất về cả môi trường, kinh tế, xã hội, văn hóa, con người, tôn giáo, an ninh, quốc phòng. Nhiều công trình nghiên cứu đã đề cập đến lĩnh vực này. Khái niệm phát triển Tây Nguyên được đưa ra tương đối đầy đủ và hệ thống sớm nhất là từ năm 1986 (Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam 1986); tiếp đó là một công trình nghiên cứu khác cũng theo hướng đó (Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam 1989; Ủy ban Dân tộc 2002). Các công trình nghiên cứu này đều tập trung phục vụ cho chủ trương của Đảng và Nhà nước về chiến lược phát triển Tây Nguyên bằng một tầm nhìn chiến lược dài hạn, thể hiện trong các chương trình Tây Nguyên (Chương trình Tây Nguyên II, 1988). Gần đây đã có một loạt công trình nghiên cứu về Tây Nguyên gắn liền với mục tiêu phát triển bền vững, chẳng hạn như công trình của Bùi Minh Đạo (2010, 2011); Bạch Hồng Việt (2011); Tô Trọng Hùng (2011); Lê Văn Khoa & Phạm Quang Tú (2014); Nguyễn Xuân Thắng (2015); Hà Huy Thành (2015); Hà Huy Thành – Nguyễn Hồng Quang (2015).

______________________________________

Nguồn: Hà Hữu Nga (2023). Nghiên cứu về Giá trị và Vốn con người: Kinh nghiệm Di sản Tây Nguyên. Kỷ yếu Hội thảo Đề tài VINIF Nghiên cứu Bảo tồn và Phát huy Giá trị Di sản Chạm khắc đá cổ Miền núi Phía Bắc Việt Nam. Hà Nội tháng 11 năm 2023.

Tài liệu dẫn

Bế Viết Đẳng – Chu Thái Sơn – Vũ Thị Hồng – Vũ Đình Lợi (1982). Đại cương về các dân tộc Ê Đê, MNông ở Đak Lak. Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.

Bùi Hoài Sơn (2022). Giải pháp giữ gìn và phát huy hệ giá trị dân tộc, dân chủ, nhân văn, khoa học của nền văn hóa Việt Nam trong thời kỳ mới. Trong Hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị gia đình và chuẩn mực con người Việt Nam trong thời kỳ mới. Kỷ yếu Hội thảo, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.482-489

Bùi Minh Đạo (2000). Trồng trọt truyền thống của các dân tộc tại chỗ Tây Nguyên. Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.

Bùi Minh Đạo (2010). Tổ chức và hoạt động buôn làng Tây Nguyên trong phát triển bền vững. Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.

Bùi Minh Đạo (2011). Thực trạng phát triển Tây Nguyên và một số vấn đề phát triển bền vững. Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.

Bùi Minh Đạo (2022). Phát triển bền vững vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên. Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 1 – 2022.

Condominas, Georges (2008). Chúng tôi ăn rừng. Bản tiếng Việt của Nxb. Thế giới, Hà Nội.

Dournes, Jacques (2002). Rừng, Đàn bà, Điên loạn. Nxb. Hội Nhà văn, Hà Nội.

DRCC (2007). Khảo sát kinh tế - xã hội Tây Nguyên phục vụ cho Dự án Tam giác Phát triển Tây Nguyên và các tỉnh lân cận tại Căm Pu Chia và Lào. Báo cáo Tổng hợp. Trung tâm Nghiên cứu và Tư vấn về Phát triển (DRCC), Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, Hà Nội. Tư liệu của DRCC.

Đào Duy Anh (1931, 2005). Hán Việt Từ điển Giản yếu, Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội

Đảng Cộng sản Việt Nam (1991). Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội. Nxb. Sự thật, Hà Nội.

Đảng Cộng sản Việt Nam (2015). “Văn hóa soi đường quốc cho dân đi” (văn kiện của Đảng về văn hóa), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2015, tr.162

Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

Đặng Nghiêm Vạn (1975). Vài ý kiến về vấn đề nương rẫy trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Tạp chí Dân tộc học, số 1 năm 1975.

Đặng Nghiêm Vạn (1979). Đặc điểm những hoạt động sản xuất cổ truyền của các dân cư Tây Nguyên. Tạp chí Dân tộc học, số 4 năm 1975.

Đặng Nghiêm Vạn (1980). Bàn về lịch sử tộc người và đặc điểm kinh tế, xã hội, văn hóa cư dân Tây Nguyên. Tạp chí Dân tộc học, số 3 năm 1980.

Đặng Nghiêm Vạn (1988). Sở hữu đất đai ở Tây Nguyên. Tạp chí Dân tộc học, số 1-2 (57) năm 1988.

Đặng Nghiêm Vạn (1996). Một số vấn đề phát triển kinh tế - xã hội ở Tây Nguyên chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ. Trong Một số vấn đề kinh tế - xã hội Tây Nguyên. Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.

Hà Huy Thành (2015). Xây dựng luận cứ khoa học cho việc bổ sung và đổi mới hệ thống thể chế phát triển bền vững Tây Nguyên. Báo cáo Tổng hợp của Đề tài, Mã số TN3/X09. Cơ quan chủ trì: Trung tâm Nghiên cứu và Tư vấn về Phát triển, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, Hà Nội.

Hà Huy Thành – Nguyễn Hồng Quang (2015). Đổi mới hệ thống thể chế phát triển bền vững vùng Tây Nguyên – Lý luận và Thực tiễn. Nxb. Khoa học Xã hội Việt Nam, Hà Nội.

Hà Quế Lâm (2002). Xóa đói giảm nghèo ở vùng dân tộc thiểu số nước ta hiện nay – thực trạng và giải pháp. (Sách Tham khảo). Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

Hoàng Chí Bảo (2022). Xây dựng hệ giá trị quốc gia để thực hiện khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Trong Hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị gia đình và chuẩn mực con người Việt Nam trong thời kỳ mới. Kỷ yếu Hội thảo, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr. 676-683.

Hồ Sĩ Quý (2018). Mấy vấn đề về hệ giá trị văn hóa Việt Nam hiện nay. Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 10/2018.

Hồ Sĩ Quý (2022). Về hệ giá trị quốc gia, Trong Hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị gia đình và chuẩn mực con người Việt Nam trong thời kỳ mới. Kỷ yếu Hội thảo, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr. 639-648.

Hội đồng Lý luận Trung ương, Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ Văn hóa Thể thao & Du lịch và Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam (2022). Hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị gia đình và chuẩn mực con người Việt Nam trong thời kỳ mới. Kỷ yếu Hội thảo, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội.

Lê Thị Quý (2022). Hệ giá trị gia đình Việt Nam – Phân tích từ khía cạnh truyền thống và hiện đại. Trong Hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị gia đình và chuẩn mực con người Việt Nam trong thời kỳ mới. Kỷ yếu Hội thảo, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.237-247

Lê Văn Khoa, Phạm Quang Tú (2014). Hướng tới phát triển bền vững Tây Nguyên. Nxb. Tri thức, Hà Nội.

Lương Đình Hải (2022). Xây dựng hệ giá trị con người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Trong Hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị gia đình và chuẩn mực con người Việt Nam trong thời kỳ mới. Kỷ yếu Hội thảo, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr. 17-28.

Maitre, Henri (1912 (gốc), 2008).  Rừng người Thượng – Vùng rừng núi cao nguyên miền Trung Việt Nam. Bản dịch của Lưu Đình Tuân, Nguyên Ngọc hiệu đính. Nxb. Tri thức, Hà Nội.

Nguyễn Đăng Thành (2010). Luận cứ và Giải pháp phát triển nguồn nhân lực dân tộc thiểu số nước ta đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Báo cáo Tổng hợp Đề án nghiên cứu của Học viện Chính trị Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh do PGS.TS. Nguyễn Đăng Thành làm Chủ nhiệm, Hà Nội 2010.

Nguyễn Hồng Phong (1963). Tìm hiểu Tính cách Dân tộc, Nxb. Khoa Học, Hà Nội.

Nguyễn Hữu Minh (2022). Xây dựng hệ gia đình Việt Nam tiến bộ trong giai đoạn mới: Thực trạng và những vấn đề cần quan tâm. Trong Hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị gia đình và chuẩn mực con người Việt Nam trong thời kỳ mới. Kỷ yếu Hội thảo, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.289-299.

Nguyễn Phú Trọng (2021). Bài phát biểu tại chỉ đạo tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc ngày 24 tháng 11 năm 2021. Hà Nội. 

Nguyễn Thị Phương Châm (2022). Một số nhận thức về hệ giá trị văn hoá. Trong Hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị gia đình và chuẩn mực con người Việt Nam trong thời kỳ mới. Kỷ yếu Hội thảo, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.458-468

Nguyễn Văn Nam (2006).  Chính sách dân tộc của Đảng đối với các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên thực trạng và giải pháp. Tạp chí Dân tộc, Uỷ ban Dân tộc, Số ngày 8/9/2006, Hà Nội.

Nguyễn Xuân Thắng (2015). Các giá trị Phát triển cơ bản vùng Tây Nguyên và xác định các quan điểm, định hướng, giải pháp phát triển bền vững Tây Nguyên. Báo cáo Tóm tắt và Kiến nghị kết quả Đề tài Khoa học Xã hội và Nhân văn cấp Nhà nước. Mã số: TN3/X20. Cơ quan chủ trì: Trung tâm Nghiên cứu và Tư vấn về Phát triển, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, Hà Nội.

Phạm Duy Đức (2021). Xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế, trong Tạp chí Lý luận Chính trị, Tạp chí Lý luận chính trị số 3-2021, tr.42-48.

Phạm Minh Hạc (2010, 2012). Giá trị học - cơ sở lí luận góp phần đúc kết, xây dựng giá trị chung của người Việt Nam thời nay, Nxb. Giáo dục Việt Nam, Hà Nội; Công ty sách Anpha, NXB Dân trí, Hà Nội.

Phạm Minh Hạc (2016a). Tâm lí học đại cương, Nxb. Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.

Phạm Minh Hạc (2016b). Giá trị bản thân – Cơ sở của Nhân cách, Tạp chí Khoa học Giáo dục, số 135, tháng 12/2016.

Phan Ngọc (1994). Văn hóa Việt Nam và cách tiếp cận mới, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

Tô Trọng Hùng (2011).Chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng Tây Nguyên theo hướng phát triển bền vững. Tư liệu Viện Phát triển bền vững Tây Nguyên, Viện Khoa học xã hội Việt Nam.

Trần Ngọc Thêm (2015). Một số vấn đề về hệ giá trị Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, Nxb. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh.

Trần Ngọc Thêm (2016). Hệ giá trị Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại và con đường tới tương lai, Nxb Văn hóa - Văn nghệ, Thành phố Hồ Chí Minh, 2016, tr.38.

Trương Cộng Hòa và Nguyễn Thị Thúy Vân (2022). Phát huy nguồn lực nhân văn trong phát triển đất nước. Tạp chí Quản lý nhà nước - Số 320 (9/2022)

Từ Thị Loan (2022). Xây dựng hệ giá trị quốc gia trong giai đoạn hiện nay. Trong Hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị gia đình và chuẩn mực con người Việt Nam trong thời kỳ mới. Kỷ yếu Hội thảo, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.237-247

Uỷ ban Dân tộc 2002. Miền núi Việt Nam – thành tựu và Phát triển những năm đổi mới. Nxb. Nông nghiệp, Hà Nội.

Uỷ ban Khoa học Xã hội Việt Nam (1986). Một số vấn đề phát triển kinh tế - xã hội Tây Nguyên. Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.

Uỷ ban Khoa học Xã hội Việt Nam (1989). Tây Nguyên trên đường phát triển. Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.

 

 

 

 

 

 

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét